Pages
▼
Miền Bắc sau 1954
Miền Bắc sau 1954
© Nguyễn Văn Lục
(2) Khi phái đoàn miền Nam ra Bắc, được ở khách sạn Thắng Lợi, bên Hồ
Tây. Khách sạn “tiêu chuẩn 3 sao” nên mỗi ngày được ” bồi dưỡng” một chai bia.
Những người như Ni sư Huỳnh Liên ” kiêng” không uống thì bia được dồn sang
phòng của Hồ Ngọc Nhuận. Đêm nằm ở khách sạn Ba Sao có thể nghe gió mùa từ Hồ
Tây lọt qua khe cửa phòng khách sạn. Mỗi khi nhận một cái tách, cái ly thì có
làm thủ tục ký giấy bàn giao hẳn hoi. Cũng trong dịp may mắn “đời người” này
Nguyễn Ngọc Lan được Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức
Thọ, Xuân Thủy và “đô trưởng” Hà Nội bác sĩ Trần Duy Hưng các nhà văn cỡ Nguyễn
Đình Thi đón tiếp vv… Tưởng mình ngon, ông về hứng chí viết bài: Hà Nôi tôi thế
đó. Bút Ký ” Đời”, Hồ Ngọc Nhuận, các trang 46-51
Trong một bài viết trước đây của tôi, tôi cũng chia xẻ tâm tình của người
Hà Nội những ngày tháng 10.1954 như sau: “Rừng cờ, rừng người, một rừng cánh
tay giơ lên. Thật khó diễn tả cho hết những gì người ta nhìn thấy. Trong rừng
người tiến vào thành phố, thật khó để biết ai là sĩ quan chỉ huy. Chẳng ai có
thể nhận ra những đồng chí như Bùi Quang Tạo, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái,
Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm. Người ta nhốn nhác tìm bóng dáng ông Giáp hay ông Hồ
nhưng không thấy. Vài ngày sau, qua báo chí, người dân Hà Nội được biết các ông
ấy đã về tới Hà Nội, nhưng ở đâu thì không ai hay.
Lý do thứ hai gây khó cho chính quyền mới là ruộng đất bị bỏ hoang. Nhiều
ruộng đất lúc chiến tranh đã bị bỏ hoang và chiếm 7% số ruộng đất canh tác ở miền
Bắc. Ruộng đất và làng mạc của nông dân các vùng xôi đậu đã bị máy bay Pháp bỏ
bom, hoặc nã đạn pháo mỗi ngày, đúng giờ, khoanh vùng tình nghi như một vùng khủng
bố trắng”white zone”, giống như No man’s land của người Mỹ sau này. Nhiều khi,
nông dân phải cầy cấy ban đêm vì sợ máy bay, sợ bị đạn pháo. Hơn nữa, cho dù có
cầy cấy được thì đất canh tác thuộc vùng Trung Châu Bắc Việt vốn là vùng đất
rice- deficit, năng xuất thấp, không đủ cung cấp cho cư dân Bắc Việt, hoặc chỉ
là độc canh nên quanh năm thiếu hụt cần sự cung cấp lúa gạo từ trong Nam ra mỗi
năm.
Trần Dần đã thấy một Hà Nội vắng bóng người. Bởi vì thiếu những người bán
lẻ, lưu động. Những người bán hàng rong vốn là nét sinh hoạt cá biệt, sinh động
của Hà Nội. Cái làm nên Hà Nội là Hà Nội. Đó là những “cửa hang lưu động” vốn
liếng chỉ là quảy đôi quang thúng, hay đôi khi chỉ là một cái thúng đội đầu.
Sang ra thì cửa hàng được thiết kế đằng sau chiếc xe đạp như các cửa hàng bán
cá giống, bán chim cảnh, bán đồ chơi cho trẻ con, “ciné lưu động”, bán kẹo,
nhất là kẹo kéo, bánh bao v.v… Nhiều cửa hàng này đi đến đâu được trẻ con bu
lai chung quanh như coi phim {phim thường thường có bón lỗ để nhòm hai bên,
phim câm, các loại phim thời đó như Zôrô bịt mặt, hay phim Tarzanv.v…} xem cá
cảnh, bán kẹo kéo. Những tiếng rao hàng đủ loại từ sáng đến tối. Tiếng gõ “tục
tắc” vui tai đến tiếng lè nhè “phá xang” nay không còn nữa.
Hà Nội im lặng như Trần Dần mô tả.
Xin trích dẫn nhận xét của Ken Post trong chương Crisis in the north về
tình trạng miền Bắc vào giữa năm 1954:” By mid-1954 the economy of Bac Bo
and northern Trung Bo had suffered a serious decline in productive forces as a
direct or indirect effect of the fighting. An area of riceland estimated at
between 138.800 and 143.000 hectares, some 7 per cent total, had gone out of
cultivation, mostly in so-called “white zones” where the French army had
followed a shoot-on-sight policy. On the surface, this was not a large
proportion, but it must be remembered that what had now become the” northern
regroupment zone” of the new Viet Nam had always been a rice-deficit area in
the colonial period, needing to import annually from Cochichina. Hence, any
decline in production whilst the new” southern regroupment zone” was
politically unstable and under continuing French and increasing US influence
was a serious threat”(19)
(19) Revolution, Socialism and Nationalism in Viewt Nam, volume 1, Kent post,
trang 262
Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong dịp phát biểu tại quốc hội, tháng 3. 1955 cho
rằng: Hòa bình đã trở lại, cần có lãnh đạo tập trung, thống nhất và mạnh… để
đáp ứng được những nhu cầu của chính phủ. Cần tăng gấp 80% viên chức nhà nước
trong 3 năm.
Phải chiều lòng viên chức trong chính quyền người Pháp vì thiếu chuyên
viên. Cụ thể như ở mỏ than Hòn Gai khi được chuyển giao cho chính quyền mới.
Dưới thời quản lý của người Pháp thì có 21 kỹ sư và 62 chuyên viên, sau này chỉ
vỏn vẹn còn 30 chuyên viên. Nhà máy dệt Nam Định đã không còn một kỹ sư nào ở
lại. Để bù khuyết khoảng trống đó, từ 1955-1960 có sự chi viện lệ thuộc vào
3600 chuyên viên người Tầu, 1400 Liên Xô và 1000 người của các Quốc gia Đông
Âu.
Cũng vậy, trong ngành giáo dục, các giáo chức trước đây dạy ở các trường công
và trường tư vẫn được lưu dụng. Các trường như Chu Văn An, Nguyễn Trãi vẫn điều
hành như cũ. Ngay các trường tư như trường Dũng Lạc, trường tư của Thiên Chúa giáo,
nằm bênh cạnh nhà thờ Lớn Hà Nội vẫn được tiếp tục mở cửa. Đặc biệt không ngờ
là trường Albert Sarrault của Tây cũng vẫn còn, vẫn dạy tiếng Pháp, chỉ có thay
đổi là hiệu trưởng là người Việt.
Trong khi đó, ngân sách từ các năm 1955 đến 1957 đã dành 26.5% cho Quốc Phòng,
Xây dựng 24.4, hành chánh 14.5%. Cộng chung ba bộ này chiếm 65%. Phần còn lại
dành cho kỹ nghệ có 2.7%, y tế 1.9% và giáo dục có 2.9%.(20)
(20)Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, Volume 2, Viet Nam
Divided, Ken Post, trang 52-55
Với một ngân sách lệch như thế, chú trọng quá nhiều vào Quốc Phòng, đất nước
làm sao khá lên được? Một ngân sách nghiêng về Quốc Phòng như thế, bởi vì kể từ
năm 1958, đảng Lao động Việt Nam nhằm hai muc tiêu chiến đấu: chiến đấu xây
dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến đấu hoàn thành cuộc gìải phóng miền
Nam.
Họ phải ra ngoài thành phố về phía Bắc, phía bên kia cầu Paul Doumer hay xuống
phía Gò Đống đa, đường đi về Hà Đông,v.v… Chỉ trừ một vài thành phần du thủ, du
thực bám lấy Hà Nội bằng cách lấy các gầm cầu làm chỗ ở qua đêm.
Sáng họ vào Hà Nội, tối họ đi ra. Có những buổi sáng tinh mơ, phu đổ thùng từng
đoàn nối đuôi nhau, gánh kĩu kịt những gánh phân đem theo những xú uế của Hà
Nội ra ngoài và ngược chiều, những đoàn người đem vào những tốt tươi, thơm tho
của đất trời như rau tươi, hoa quả.
Nhất là hoa đủ loại như thể đó là lẽ tuần hoàn của trời đất. Người đi vào
và đi ra để cho Hà Nội được là Hà Nội của thủ đô.
Cho nên, người Hà Nội thường là thứ “nguyên gốc”, không pha trộn từ ngôn ngữ
đến nếp sống, nếp nghĩ. Phần đông thuộc thành phần tiểu tư sản, có ăn học. Tất
cả các gia đình buôn bán của các phố Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Ngang
đều ít nhiều có gốc gác, lập nghiệp lâu đời. Sau này Bà Susan Bayly có viết
cuốn Asian Voices in a Post- Colonial Age, trong đó bà đi tìm lại những người
Hà Nội trí thức, có truyền thống gia đình, có thể từ thời 1946-1954.
Tiếng nói người Hà Nội thanh lịch trong giọng nói và kiểu cách trong cách
trao đổi, đối đáp, thưa gửi. Nhưng khéo quá đôi khi không tránh được tác phong phong
kiến, kiêu kỳ, phỉnh phờ, không thật lòng giả dối, nịnh bợ cũng có. Nhất là
những tiếng danh xưng vừa có ý trân trọng người đối thoại vừa gián tiếp tự đề cao
chính mình. Chẳng hạn, khi nào thì gọi là Quan đốc? cụ đốc, cụ lớn, cậu đốc, anh
đốc, chú đốc cháu, bác đốc cháu hay bác đốc nhà tôi? Cả một vấn đề, tùy theo tình
huống mà có thể trở thành phức tạp, tế nhị, mát mày mát mặt, nhạy cảm, phiền
toái, cầu kỳ, rắc rối, bi kịch, giận hờn, thù oán.
Nhưng đó là nếp sống văn hoá nói Hà Nội.
“Các nhà chính trị ở Hà Nội thường nói đến đồng cam, đồng khổ giữa đồng chí
và đồng bào, thế nhưng trong vấn đề nhà ở làm sao có thể coi là đồng cam, đồng
khổ giữa một ông lớn ở nhà cao cửa rộng hàng 100, 200 mét vuông với một viên
chức cán bộ trung cấp, một đại úy hay thiếu tá ở một buồng con 9 thước vuông
cùng vợ và 2 hoặc ba con”… Có vị tướng có đến hai ba nhà, giữ cho vợ và con,
sang tên một cách mờ ám để chiếm nhà của nhà nước…Cán bộ cao cấp có mức sống
cao vượt lên cán bộ trung cấp, cho nên trên thực tế, tỉ lệ chênh lệch 1/7 trở
thành 1/50, 1/100 hoặc hơn rất nhiều nữa Có lúc ông viết 1/1000… Có khi họ phải
chờ đợi hàng chục năm mới được phân phối một phòng rộng hơn 4 mét vuông, 6 mét
vuông sau khi đẻ 2, 3 con.(26)
(26) Mặt Thật, Thành Tín, trang 274-276
No comments:
Post a Comment