Popular Posts

Saturday, August 15, 2020

CÕI TRỜI ĐAO LỢI


CÕI TRỜI ĐAO LỢI
Toàn Không 
1). Thành trì và các cung điện:  
       Trên đỉnh núi Chúa Tu Di có thành Tam Thập Tam Thiên 
của cung Trời Đao Lợi vô cùng rộng lớn, mỗi bề khoảng tám 
vạn do tuần (Theo quyển Tự Điển Phật Học của Chân Nguyên 
và Nguyễn Tường Bách thì 1 do tuần = từ 15 đến 20 cây số) 
(Tạm lấy 1 do tuần =18 cây số, ta có: 80,000 x 18 = 1,440,000 
cây số), thành cao một trăm do tuần (100 x 18 = 1,800 cây số), 
thành này có bảy lớp, trên bảy lớp thành là các lâu đài. Bên trong 
lại có thành khác bảy lớp nhỏ hơn, mỗi chiều rộng khoảng 
sáu vạn do tuần (60,000 x 18 = 1,080,000 cây số). Thành bên 
trong cũng cao một trăm do tuần, và trên bảy lớp thành cũng có 
vô số lâu đài. 
       Các lớp thành ngoài và thành trong cứ cách khoảng năm 
trăm do tuần (500 x 18 = 9,000 cây số) lại có một cửa có chiều 
cao khoảng sáu mươi do tuần (60 x 18 = 1,080 cây số), và chiều 
rộng khoảng ba mươi do tuần (30 x 18 = 540 cây số). Giữa hai 
lớp thành trong và ngoài vừa nói là Long cung ngang dọc sáu 
nghìn do tuần (6,000 x 18 = 108,000 cây số) (Ghi chú: các 
con số chỉ là ước khoảng). 
       Tại trung tâm vòng thành trong là cung Thiện Kiến rất lớn, 
trong đó có một đại phòng có tên là Thiện Pháp đường mỗi bề 
rộng khoảng một trăm do tuần (100 x 18 = 1,800 cây số). Thiện 
Pháp đường tạo nên bởi vàng ròng, trên phủ lưu ly, dưới mỗi 
gốc cột trong sảnh đường có Pháp toà cho Thiên Đế ngự rộng 
một do tuần (1 x 18 = 18 cây số) do bảy báu tạo thành. Hai bên 
Pháp tòa có: mười sáu Pháp tòa khác, Chư Thiên thường vào 
phòng này để suy tư về diệu pháp và cảm thọ niềm vui thanh tịnh, 
nên được gọi là Thiện Pháp đường. 
       Phiá Bắc cung Thiện Kiến có cung điện Đế Thích, ngang 
dọc một nghìn do tuần (1,000 x 18= 18,000 cây số =18000/1.6 
= 11,250 dặm (mile)). 
       Phiá Đông cung Thiện Kiến có vườn Thô Sáp lớn, trong 
vườn có hai tảng đá to, xốp, mềm có tên là Hiền và Thiện, 
mỗi tảng lớn mỗi bề khoảng năm mươi do tuần (50 x 18 =900 
cây số). Trong vườn còn có: ao Nan Đà nước luôn luôn trong 
xanh, bốn phiá đều có bậc thang đi xuống ao, khi vào vườn 
này thì thân thể trở nên thô cứng. 
       Phiá Nam cung Thiện Kiến là vườn Họa Lạc lớn (Có sách ghi 
là vườn Trú Dạ), trong vườn cũng có hai tảng đá tên là Họa và 
Lạc, cũng có ao Nan Đà; trong vườn còn có cung điện nghỉ 
mát rộng mỗi chiều khoảng năm trăm do tuần (500 x 18 = 9,000 
\cây số), khi vào vườn này, tự nhiên có những nét vân màu sắc 
sặc sỡ trên thân thể, lúc ấy lấy đó làm vui thích. 
       Phiá Tây cung Thiện Kiến là khu vườn tên Tạp, cũng có hai 
tảng đá tên Thiện Kiến và Thuận Thiện Kiến; đặc biệt, trong vườn 
này có cây Trú Độ cao lớn, thân cây to bảy do tuần (7 x 18 = 126 
cây số), cao 100 do tuần. Cây đại thụ này luôn luôn có hoa lá 
sum sê như vầng mây báu lớn, cành lá xòe ra rộng năm mươi 
do tuần; tại cây này có vị Thần tên Mạn Đà trú tại đây, thường 
trỗi nhạc mà tự vui, nên mới có cái tên là cây Trú Độ. Kế bên 
cây Trú Độ, có cung điện nghỉ mát. Đế Thích cho phép các 
Thiên nữ cùng các Thiên tử dạo chơi tập thể trong vườn, nên 
được gọi là vườn Tạp; vườn này các vị Trời đều được vào hết, 
ví dụ như vị Trời bậc cao, vị bậc trung, vị bậc thấp đều có thể vào, 
nhưng ba vườn kia vị Trời bậc thấp không được vào. 
       Phiá Bắc cung Thiện Kiến và cung Đế Thích có vườn Đại Hỷ 
(Có sách ghi là vườn Nan Đà), trong vườn cũng có hai tảng đá 
tên Hỷ và tên Đại Hỷ; trong vườn cũng có cây Trú Độ và cung 
điện nghỉ mát, khi vào vườn này thì vô cùng vui vẻ nên gọi là 
vườn Đại Hỷ. 
       Ngoài ra còn có các cung điện của các chư Thiên Đao Lợi 
ngang dọc, xen kẽ rất nhiều. Có cái mỗi chiều một nghìn do 
tuần (1,000 x 18 = 18,000 cây số), có cái chín trăm, có cái tám 
trăm v.v..., cho tới cung điện nhỏ nhất mỗi chiều một trăm do 
tuần (100 x 18 = 1,800 cây số). Lại còn có các cung điện 
của các Tiểu Thiên ngang dọc mỗi chiều một trăm do tuần, có 
cái chín mươi, tám mươi, bảy mươi v.v..., cho đến cái nhỏ nhất 
mỗi bề mười hai do tuần (12 x 18 = 216 cây số=135 dặm Anh). 
       Nên biết rằng, bảy lớp thành ngoài và bảy lớp thành trong đều 
tạo bởi bảy báu là vàng, bạc, xích châu, mã não, lưu ly, pha lê và 
xà cừ (những thứ này và tất cả những gì thuộc về các cõi Trời, 
mắt người thường không thể nhìn thấy). Mỗi cửa của thành đều 
có năm trăm Quỷ Thần canh giữ, phòng thủ, bảo vệ. Tất cả các 
lâu đài, cung điện, đều có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy 
lớp màng lưới, bảy lớp hàng cây giáp vòng, và  các thứ này đều 
trang trí bằng bảy báu. 
        Ngoài ra, tám tảng đá trong bốn vườn đều lớn cỡ mỗi 
chiều năm mươi do tuần, cấu tạo cũng bởi bảy báu, nhưng xốp 
lại mềm mại như áo trời. Trong các ao, có các thứ hoa đủ các 
màu sắc đẹp đẽ, mỗi hoa to như bánh xe, cọng (cuống) hoa như 
trục xe. Các hoa tiết ra nước trong trắng ngọt, và có mùi thơm kỳ 
thú phảng phất. Chung quanh lâu đài, cung điện, trên ao, trong 
vườn đều có các loài chim kỳ lạ như chim Cưu, chim Nhạn, chim 
Uyên Ương v.v... cùng ríu rít hót vang, hòa ca vui vẻ, đúng là cảnh 
thiên thai Tiên Trời vậy. 
       Từ cung Thiện Kiến, có những con đường dẫn đến cung Đế 
Thích, những con đường đến vườn Thô Sáp, đến vườn Họa Lạc, 
đến vườn Tạp, vườn Đại Hỷ. Cũng từ cung Thiện Kiến có những 
con đường dẫn đến các ao, dẫn đến các tảng đá, đến các cây 
Trú Độ, đến các cung điện nghỉ mát. Cũng có những con đường 
dẫn đến các lâu đài, các cung điện chư Thiên, Tiểu Thiên, cung 
Long Vương v.v... 
2). Đặc điểm của Chư Thiên: 
(Còn tiếp)
CÕI TRỜI ĐAO LỢI
Toàn Không
(Tiếp theo) 
2). Đặc điểm của Chư Thiên: 
       Chư Thiên Đao Lợi nói chung có các nét đặc điểm sau đây:
01- Bay đi lại không trở ngại gần xa.
02- Thân không có da, thịt, xương, máu.
03- Không có tiểu tiện đại tiện.
04- Không bao giờ mỏi mệt.
05- Thiên Nữ không sinh đẻ con cái.
06- Thiên nhãn, thiên nhĩ, nhìn xa, nghe xa không bị trở ngại.
07- Thân thể phát ra ánh sáng.
08- Thân thể có màu sắc tuỳ ý muốn (7 màu: Vàng, lửa, xanh, 
đỏ, lục, đen, trắng).
09- Thân cao một do tuần (1 x 18 = 18 Kilomet). (Có sách 
ghi thân hình cao hơn nửa dặm)
10- Sống rất lâu, thọ một nghìn tuổi trời (bằng 365,000 năm ở 
trần gian).
11- Có hôn nhân giữa các Thiên-Tử và Thiên Nữ.
12- Quần áo, thức ăn, thức uống v.v... khi nghĩ đến liền có ngay.
13- Không phải làm việc cực khổ như ở trần gian.
14- Không biết sợ nóng lạnh.
15- Thiên-tử khi mạng sống sắp hết có 5 điềm ứng trước 
(Tăng Nhất A Hàm, quyển 3, trang 530), đó là: 
 - Tràng hoa đội trên đầu héo đi.
- Áo choàng dính bụi dơ bẩn
- Thân mất mùi thơm, lại có mùi hôi.
 - Các Thể nữ không vây quanh mà bỏ đi. (đa thê?)
 - Không còn thích thú tòa ngồi nữa. 
       Theo Trường A Hàm, quyển 2, trang 404 đến 407 ghi: 
Khi một chúng sinh hành thiện về thân khẩu ý, sau khi chết 
đi được sinh đến cõi trời Đao Lợi bằng hóa sinh. Vị Thiên 
sơ sinh ấy cũng như đứa bé hai ba tuổi ở cõi trần gian, 
nhưng vị ấy tự nhiên hóa sinh ra và hiện ngồi trên đầu gối 
của một vị Thiên. Vị này thấy Thiên nhi ngồi trên đầu gối 
mình thì nói: “Đây là con trai ta, (hoặc) đây là con gái ta”
Thiên nhi này do hạnh nghiệp và phúc báo, trí huệ tự nhiên 
phát sinh ngay sau khi sinh ra không lâu, nên liền nghĩ: 
“Ta do đã làm gì mà được sinh đến cõi này?” Rồi lại nhớ và 
nghĩ tiếp: “À phải rồi, xưa kia ta ở nhân gian đã làm điều lành 
về thân miệng ý, nay ta được sinh đến cõi này”. 
       Sau khi chào đời không lâu, thì Thiên nhi cảm thấy đói 
muốn ăn, tự nhiên trước mặt liền có thức ăn đựng trong báu 
vật. Thiên nhi dùng tay lấy thức ăn bỏ vào miệng ăn, khi ăn 
hết rồi, tiêu hết cũng như bỏ thức ăn vào lửa, cháy tiêu ngay. 
Ăn xong, lại có cảm giác khát, tự nhiên có nước cam lộ đựng 
trong báu vật ở ngay trước mặt. Thiên nhi cầm lấy mà uống, 
uống xong, cũng như bỏ bơ vào lửa, tiêu mất. 
       Ăn uống xong, không còn đói khát nữa, thân thể tự nhiên 
trở thành cao lớn, vị ấy trở thành Thiên thiếu niên (Tiểu Thiên). 
Vị ấy cùng với các Thiên thiếu khác đi đến ao, xuống tắm rửa, 
và tự thấy thoải mái vui thích; tắm xong, vị Thiên thiếu lên bờ, 
đến cây Hương, lấy hương xoa vào thân thể, đến cây Kiếp 
Bối, lấy y phục mặc vào; xong, vị ấy đến cây Trang Sức, 
cây Tràng Hoa, lấy đồ trang sức cho thân thể, lấy tràng 
hoa đội lên đầu tóc. Vị Thiên thiếu lại đến cây Khí Cụ lấy 
báu vật đeo vào thân thể, rồi đến vườn cây hoa qủa hái lấy 
qủa trái ưa thích để ăn cho tới khi chán mới thôi; sau chót, 
vị Thiên thiếu đến chỗ Nhạc Khí lấy nhạc cụ mà vị ấy ưa 
thích để chơi hòa tấu và ca hát vui vẻ. 
      Đàn ca chán rồi, vị Thiên thiếu ấy đến khu vườn khác 
trông thấy vô số Thiên Nữ, Thiên thiếu nữ đang ca hát, 
nhảy múa, cười nói, đùa giỡn vui vẻ; lúc đó vị Thiên thiếu 
ấy thấy thế sinh tâm thích thú, đắm nhiễm, quên hết phương 
hướng. Khi mới hóa sinh ra, vị ấy thường nghĩ: “Ta làm điều 
gì mà được sinh đến cõi này?” Sau khi du ngoạn các vườn, 
vị ấy quên hết tâm niệm ấy, do đó có việc Thể Nữ theo hầu 
Thiên Tử nơi cõi trời Đao Lợi. 
3). Vua Đế Thích hưởng lạc:
 (Còn tiếp)
CÕI TRỜI ĐAO LỢI
Toàn Không
(Tiếp theo) 
3). Vua Đế Thích hưởng lạc: 
      Khi Đế Thích muốn đến vườn Thô Sáp chẳng hạn, 
thì liền nghĩ đến các đại Thiên của Tam thập Tam Thiên, 
liền lúc ấy, các đại Thiên biết được, họ liền trang sức, 
rồi ngồi xe báu có vô số Thiên chúng vây quanh đến 
trước Đế Thích. Đồng thời Đế Thích cũng nghĩ tới các 
Thiên Vương khác, và nghĩ đến Long Vương. Ngay lúc 
ấy các Thiên Vương biết ý muốn của Đế Thích, liền 
trang sức, rồi ngồi xe báu có vô số Thiên chúng vây 
quanh đến trước Đế Thích.
       Cùng lúc, Long Vương cũng biết ngay Đế Thích 
đang chờ mình, Long Vương liền biến hoá ra ba mươi 
hai cái đầu; mỗi cái đầu có bảy cái răng ở hàm dưới, 
mỗi cái răng có nhiều ao tắm, mỗi ao tắm có bảy đóa 
hoa sen lớn, mỗi hoa sen có nhiều cánh xoè ra. Trên 
mỗi cánh hoa có bảy Ngọc Nữ đánh trống, thổi kèn, 
thổi sáo, đánh đàn, v.v... trỗi nhạc ca múa; sau khi 
biến hóa xong, Long Vương liền đến trước Đế Thích. 
       Bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhân (Đế Thích) trang 
sức các thứ báu như Anh Lạc, rồi ngồi trên đầu Long 
Vương chỗ bậc nhất; tiếp theo mười sáu vị Thiên 
Vương theo thứ tự mà ngồi trên đầu Long Vương ấy, 
lúc bắt đầu đi, các Thiên Nữ cùng chơi nhạc Trời ca 
múa trên cánh hoa sen. 
        Khi Đế Thích cùng các Thiên Vương, Thiên chúng 
đến vườn Thô Sáp, thì có cơn gió thổi làm cho cánh cửa 
vườn tự nhiên mở ra. Đồng thời cũng có cơn gió thổi, 
làm cho sạch sẽ vườn, và các loại hoa rải khắp. Vào 
vườn đi thẳng đến chỗ tảng đá, Đế Thích xuống ngự 
trên một chỗ, chư Thiên cũng theo thứ tự mà ngồi.
       Như đã nói ở trên, vườn Thô Sáp, vườn Họa 
Lạc và vườn Đại Hỷ, một số chư Thiên tuy thấy 
vườn, nhưng không được vào. Một số chư Thiên 
được thấy vườn, được vào, nhưng không được 
hưởng ngũ dục. Một số khác được thấy, được vào, 
và được hược hưởng ngũ dục, tại sao có sự khác 
biệt như thế? Vì phúc đức và hạnh nghiệp tạo ra 
trước kia không đồng nhau mà thành ra như vậy. 
      Đế Thích và Thiên chúng dạo vườn và hưởng 
ngũ dục từ 1 tới 7 ngày rồi trở về cung. 
       Nên biết, Đế Thích có mười sáu vị đại Thiên Tử 
(giống như các quan Đại thần của Vua ở trần gian 
ngày xưa) theo kề cận. 
4). Vua Rồng nổi giận: 
 (Còn tiếp)
  
CÕI TRỜI ĐAO LỢI
Toàn Không
(Tiếp theo) 
4). Vua Rồng nổi giận: 
      Khi Đức Phật đang ở đạo tràng Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ, 
đêm ấy vua Trời Đế Thích đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi qua 
một bên thưa:
- Như Lai nói: “Phàm Phật ra đời vì năm việc là chuyển pháp 
luân (thuyết Phật pháp), độ cha mẹ, người không tin khiến lập 
lòng tin, người chưa phát tâm bồ đề khiến phát tâm bồ đề, 
ở trong ấy sẽ truyền trao Phật quyết (phó chúc truyền pháp)”, 
nay Phật mẫu từ cõi Trời Đâu Suất đến cõi Đao Lợi muốn được 
nghe pháp, Thế Tôn thầy của Trời Người nên đến cõi Trời Đao Lợi 
thuyết pháp. 
      Khi ấy: vua Trời Đế Thích thấy Phật lặng yên nhận lời thỉnh 
cầu thì vui mừng cúi lạy rồi biến mất. 
       Hôm sau, khi Phật đang thuyết pháp cho năm trăm đệ tử 
trong đại giảng đường, thì tại cung Long Vương có hai Long 
Vương Nan Đà và Ưu Bàn nghĩ: “Các Sa Môn hay bay trên ta, 
ta phải làm cho họ không bay được, không di chuyển được”. Rồi 
hai Long Vương to lớn ấy phát dữ, nổi giận phóng gió lớn khiến 
giông tố nổi lên, đất tung đá bay, trời đất mịt mù, sấm chớp giăng 
đầy khắp chốn. Tôn-giả A Nan thấy thế bạch Phật:
- Thưa Thế Tôn, không hiểu sao hôm nay trời đất sấm chớp gió 
cuốn mịt mù khác hẳn mọi khi? 
       Phật bảo:
- Đây là hai Long Vương Nan Đà và Ưu Bàn nghĩ rằng các Sa 
Môn khống chế hư không vì thường bay trên đầu họ nên họ nổi 
giận phá không cho Sa Môn làm điều đó nữa. 
       Khi đó Tôn giả Đại Ca Diếp đứng dậy cúi đầu vái Phật và thưa:
- Con xin được đi đánh nhau với họ. 
       Phật bảo:
- Hai Long Vương này rất là hung ác, khó thể chịu giáo hóa, thầy 
ngồi xuống đi. 
       Tiếp theo là các Tôn giả A La Luật, Ly Việt, Ca Chiên Diên, 
Tu Bồ Đề, Ưu Đà Di, Ba Kiệt v.v..., mỗi người lần lượt đứng dậy 
xin đi hàng phục hai Rồng dữ, đều bị Phật từ khước không cho. 
       Bấy giờ Tôn giả Đại Mục Kiền Liên đứng dậy vái Phật và thưa:
- Con muốn đi hàng phục hai Rồng dữ, xin Thế Tôn cho phép con đi. 
       Phật bảo:
- Thầy đủ sức hàng phục Rồng dữ, nhưng thầy phải giữ tâm 
ý chớ khởi loạn tưởng, vì hai Rồng kia hung dữ đủ sức xúc nhiễu thầy. 
       Khi được Phật chấp thuận, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên cúi đầu 
lễ Phật rồi ngồi xuống nhập định, chỉ trong khoảnh khắc liền biến 
mất khỏi đạo tràng; lúc ấy hai Rồng lớn có bảy đầu đang bay hung 
bạo quanh núi Tu Di khiến cho trời đất mịt mù như thế. Tôn giả Mục 
Kiền Liên hóa làm đại Long Vương có mười bốn đầu, to gấp hai 
lần hai Long Vương kia, lượn quanh núi Tu Di nhanh bằng hai lần 
và phun khói ầm ầm ngay phiá trên hai Rồng kia. Thấy thế, hai 
Rồng sinh lòng sợ hãi, nhưng chưa chịu khuất phục mà muốn thử 
tài xem thế nào; hai Rồng bèn lấy đuôi quậy trong biển lớn, lấy nước 
rảy lên khắp cõi Đao Lợi, nhưng không trúng đại Rồng. Khi ấy đại 
Rồng cũng lấy đuôi quẫy trong biển lớn, lấy nước rảy khắp và trúng 
vào hai Rồng. Khi đó hai Rồng bực tức giận dữ tột cùng, nổi sấm 
sét vang rền, phun khói vũ bão, giông tố rung chuyển trời đất. Tôn 
giả nghĩ: “Nếu ta dùng sấm chớp giông tố chiến đấu với họ chỉ hại 
cho cõi Trời và Người, nay ta hóa hình cực nhỏ để chiến đấu”. 
Nghĩ vậy, Tôn giả liền hóa hình cực nhỏ chui vào miệng Rồng rồi 
chui ra một lỗ mũi, rồi lại chui vào lỗ mũi kia ra lỗ tai, chui trở lại 
lỗ tai ra lỗ mắt, chui trở lại lỗ mắt ấy rồi ra lỗ mắt kia. Đã ra khỏi 
lỗ mắt kia rồi đi trên lông mi của Rồng. 
       Khi ấy hai Long Vương hết sức sợ hãi và nghĩ: “Trước đây 
đại Long Vương này to lớn gấp mấy chúng ta, có số đầu gấp 
hai chúng ta, bay nhanh cũng gấp hai, lại rảy nước trúng thân 
chúng ta. Nay lại biến còn nhỏ tí chui vào miệng ra mũi, vào mũi 
ra tai, vào tai ra mắt, vào mắt này ra mắt kia, rồi lại đi trên lông 
mi ta; đại Long Vương này có đại oai lực, chúng ta chẳng thể 
bằng được. Loài Rồng chúng ta bốn loại: Noãn sinh, thai sinh, 
thấp sinh và hóa sinh, nhưng không Rồng nào vượt được chúng 
ta; nay chúng ta chắc chết mất, không biết đại Long Vương này 
ở đâu mà có uy lực như thế?” 
       Tôn giả Đại Mục Kiền Liên biết hai Long Vương suy nghĩ và 
sợ hãi, liền trở lại hình bình thường đi trên mi mắt Rồng. Hai Rồng 
trông thấy Tôn giả, tự nói với nhau: “Đây là Tôn giả Đại Mục Kiền 
Liên, chẳng phải đại Long Vương. Thật là kỳ lạ, vị này có thể thi 
tài với chúng ta!” Long Vương Nan Đà nói:     
- Tôn giả, sao lại xúc (quấy) nhiễu chúng tôi như thế? Muốn răn 
dạy chúng tôi điều gì? 
       Tôn giả Đại Mục Kiền Liên bảo:
- Các ông nghĩ rằng: “Làm sao mà Sa Môn trọc đầu lại bay trên 
đầu ta, chế ngự hư không của chúng ta, nay ta chế ngự Sa 
Môn”. Có phải thế không? 
       Long Vương trả lời:
- Đúng thế, Tôn giả.
- Các ông nên biết núi Tu Di này là đường đi của Chư Thiên chẳng 
phải chỗ riêng của các ông.
- Cúi mong Tôn giả tha thứ, từ nay về sau, chúng con sẽ không 
dám xúc nhiễu, không dám nổi loạn nghĩ ác nữa. Cúi mong Tôn 
giả nhận chúng con làm đệ tử.
- Các ông chớ có quy y ta, các ông quy y nơi ta đã quy y.
- Chúng con hôm nay xin quy y Như Lai.
- Các ông không thể quy y ở đây, các ông nên cùng ta đến thành 
Xá Vệ, chỗ Thế Tôn để quy y. 
       Tôn giả Đại Mục Kiền Liên dẫn hai Long Vương.…
 (Còn tiếp)

__

CÕI TRỜI ĐAO LỢI
Toàn Không
(Tiếp theo) 
       Tôn giả Đại Mục Kiền Liên dẫn hai Long Vương nhanh như 
co tay từ núi Tu Di đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn, bấy giờ Thế Tôn đang 
thuyết pháp cho vô số chúng nghe. Tôn giả bảo hai Long Vương:
- Các ông nên biết, các ông không thể để thân hình này mà đến 
chỗ Phật.
       Long Vương nói:
- Đúng thế Tôn giả. 
       Hai Long Vương liền hóa hình người dung mạo đẹp đẽ. 
Tôn giả Đại Mục Kiên Liên đến chỗ Phật cúi đầu lễ Phật rồi bảo 
hai Long Vương:
- Nay đúng lúc, các ông tiến lên.
       Hai Long Vương liền tiến lên, chắp tay thưa:
- Chúng con tên Long Vương Nan Đà và Ưu Bàn xin Thế 
Tôn chấp thuận cho chúng con được quy y, thọ trì năm giới 
trong giáo pháp của Như Lai. 
       Thế Tôn búng ngón tay chấp thuận. Hai Long Vương bèn 
vái lễ rồi ngồi xuống nghe pháp... 
5). Đức Phật lên Trời Đao Lợi: 
      Thời ấy có một dạo, Đức Phật thấy rằng: “Bốn chúng có 
nhiều giãi đãi, chẳng thích nghe pháp, cũng chẳng cầu điều 
chưa được khiến được, điều chưa đắc khiến đắc, Ta nên làm 
cho bốn chúng khát ngưỡng pháp”. Do đó Đức Phật chẳng báo 
cho ai biết, như khoảng thời gian duỗi cánh tay Ngài biến mất 
khỏi Tịnh Xá Kỳ Hoàn đến cõi Trời Đao Lợi. Khi ấy Vua Trời Đế 
Thích xa thấy Thế Tôn đến liền dẫn Thiên chúng đến rước, cúi 
lạy, thỉnh Đức Phật đến tòa ngồi và nói rằng:
- Kính chào Thế Tôn viếng cõi Trời ba mươi ba, xin mời Ngài 
ngồi lên pháp tòa. 
       Khi ấy Đức Phật tự nghĩ: “Ta sẽ dùng sức thần túc ẩn 
hình, không cho mọi người thấy Ta và hóa thân to lớn”. Do đó 
Ngài ngồi kiết già có thân hình kín khắp tảng đá pháp tòa mỗi 
chiều một do tuần (18 cây số) trong Thiện Pháp đường. 
       Ngay khi ấy, mẫu thân Phật, bà Ma Gia dẫn các Thiên nữ 
đến, cúi đầu chào, ngồi qua một bên và nói: 
- Mong mỏi nhớ nghĩ Phật, hôm nay Phật mới đến, thật là đại hạnh. 
       Đế Thiên Đế Thích, Chư Thiên đều vái và an vị hai bên Phật. 
Bấy giờ Thế Tôn thăm hỏi Phật mẫu rồi thuyết diệu pháp cho Phật 
mẫu và chúng Thiên nghe. 
       Khi đó bốn chúng ở thế gian không thấy Phật bèn đến hỏi 
Tôn giả A Nan là Thị giả của Phật, nhưng Tôn giả A Nan cũng 
không biết Phật ở đâu; hai Vua Ba Tư Nặc và Ưu Điền cũng 
đến chỗ Tôn giả A Nan hỏi nhưng đều được trả lời không biết 
như thế, Vua Ưu Điền sinh sầu lo và phát bệnh, quần thần hỏi:
- Đại Vương bệnh gì vậy?
       Vua trả lời:
- Ta sầu lo vì không thấy Như Lai nên thành bệnh, chắc là ta 
chết mất thôi. 
       Quần thần bàn với nhau: “Nếu chúng ta làm tượng của 
Đức Phật thì chắc là vua sẽ hết buồn và khỏi bệnh”. Bàn như 
vậy xong, họ bèn tâu Vua:
- Chúng hạ thần có thể làm tượng Phật, và có thể cung kính 
lễ bái tượng Phật cũng như lễ bái Phật vậy, xin Ngài chấp thuận 
cho thực hiện. 
     Vua nghe nói vui mừng bảo quần thần:
- Ta đồng ý làm tượng Phật bằng gỗ thơm, gỗ Ngưu đầu 
chiên đàn, cao năm thước, và phải có thợ khéo làm thật 
giống Đức Phật mới được. 
       Các quan đại thần liền cho tuyển người giỏi nghề điêu 
khắc, cho người đi kiếm gỗ quý, và chỉ trong ít ngày là hoàn 
tất tượng giống Phật như hệt; Vua Ba Tư Nặc nghe nói: 
“Vua Ưu Điền cho làm tượng Phật bằng gỗ thơm Chiên đàn”
bèn ra lệnh các quan cho đúc ngay một tượng cũng lớn cùng 
cỡ, nhưng lại bằng vàng ròng. Ông nghĩ rằng: “Thân Như Lai 
quý hơn Thiên kim, nên phải làm bằng vàng ròng mới xứng”; bởi 
vậy, thời Phật còn tại thế đã có hai tượng Phật quý giá như thế. 
       Rồi một hôm khác, bốn chúng lại đến gặp Tôn giả A Nan và nói:
- Chúng tôi khát ngưỡng nhớ mong Đức Thế Tôn, muốn được 
thấy mặt Thế Tôn, và muốn được nghe pháp của Thế Tôn, xin 
Tôn giả làm cách nào tìm kiếm Đức Thế Tôn cho chúng con. 
       Tôn giả A Nan nói:
- Chính tôi cũng mong thấy Ngài như quý vị, chẳng biết Thế 
Tôn đang ở đâu nữa; nhưng nay chúng ta hãy cùng nhau đến 
chỗ Tôn giả A Na Luật để hỏi, vì Tôn giả có Thiên nhãn bậc nhất 
có thể tìm kiếm thấy Thế Tôn đang ở đâu. 
       Tôn giả A Nan và bốn chúng (Tăng, Ni, Cư sĩ nam, Cư sĩ nữ) 
đến gặp Tôn giả A Na Luật và thưa:
- Nay bốn chúng đến chỗ tôi hỏi: “Hiện nay đức Thế Tôn ở đâu?” 
xin Tôn giả dùng Thiên nhãn xem Phật ở chỗ nào cho mọi người 
được biết?
       Tôn giả A Na Luật bảo mọi người:
- Các vị hãy chờ một chút, tôi sẽ quán sát Như Lai. 
       Tôn-giả A Na Luật liền nhập định, coi hết cõi Ta Bà không thấy, 
Tôn giả lại coi khắp các tầng Trời cũng chẳng thấy; cuối cùng coi 
hết Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới cũng vô tăm tích của Phật. 
Thất vọng, Tôn-giả xuất định và nói:
- Tôi xem từ Địa ngục tới hai mươi tám tầng Trời (6 Dục giới, 
18 Sắc giới, và 4 Vô Sắc giới), cho đến Tam Thiên Đại Thiên 
Thế Giới (Giải Ngân hà của chúng ta: Milky Way) cũng chẳng 
thấy Phật đâu cả! 
       Mọi người thất vọng trở về với niềm thắc mắc: “Phật ở đâu, 
hay Ngài đã nhập Niết Bàn rồi?” 
 (Còn tiếp)

__._,_.___

Posted by: Tien Do <

 

CÕI TRỜI ĐAO LỢI

Toàn Không

(Tiếp theo) 

       Bấy giờ thời gian trải qua đã gần ba tháng, đức Phật nghĩ: 

“Bốn chúng ở trần gian không thấy Ta đã lâu, có lòng mong mỏi, 

Ta nên bỏ thần túc khiến đệ tử có thể thấy Ta ở đây”, nghĩ rồi, 

Ngài liền xả thần túc. Ngay đêm đó có một vị Trời đến mách với 

Tôn giả A Na Luật rằng: “Thế Tôn đang ở cõi Trời Đao Lợi”. 

Tôn giả liền dùng Thiên nhãn nhìn, qủa thật Thế Tôn đang ở 

]trong Thiện Pháp đường của  cõi Trời Đao Lợi thuyết pháp, 

bèn thông báo cho Tôn giả A Nan để thông báo lại cho tứ chúng 

biết. 

       Tôn giả A Nan hỏi Tôn giả A Na Luật:

- Ai là người có thể đến cõi Trời Đao Lợi để thăm hỏi Thế Tôn?

       Tôn giả A Na Luât đáp:

- Thần túc đệ nhất là Tôn giả Đại Mục Kiền Liên có thể đi thăm 

Thế Tôn. 

       Khi ấy Tôn giả A Nan cùng bốn chúng đến gặp Tôn giả 

Đại Mục Kiền Liên và nói:

- Thưa Tôn giả, chúng tôi không thấy Thế Tôn đã lâu và Tôn giả 

A Na Luật nói Thế Tôn đang ở cõi Trời Đao Lợi thuyết pháp. Nếu 

không mệt mỏi, xin Tôn giả hãy vì chúng tôi lên cõi Trời thứ Ba 

mươi ba thay cho chúng tôi để thăm hỏi Đức Thế Tôn, cũng xin 

Tôn giả thưa rằng: “Chúng tôi không đủ thần lực bay lên cõi Trời 

để kính lễ Đức Thế Tôn, nhưng trong lòng chúng tôi rất mong mỏi 

được gặp Ngài; còn các vị Trời có đủ thần lực bay xuống nhân gian, 

cúi mong Đức Thế Tôn rủ lòng thương xót trở lại cõi trần gian”. 

       Khi ấy Tôn giả Đại Mục Kiền Liên im lặng, bốn chúng biết 

Tôn Giả nhận lời rồi, liền vui vẻ làm lễ ra về chờ đợi; khi mọi 

người đi khỏi, Tôn Giả liền nhập định; nhập định rồi, chỉ trong 

khoảnh khắc như người lực sĩ duỗi cánh tay, Tôn Giả biến mất 

khỏi chỗ ngồi tại Đạo tràng Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ và 

hiện ra chỗ gần tảng đá pháp tòa trong Thiện Pháp đường ở cõi 

Trời thứ ba mươi ba. 

       Bấy giờ, đức Thế Tôn đang thuyết pháp cho vô số Chư 

Thiên và quyến thuộc vây quanh nghe, Tôn giả Đại Mục Kiền 

Liên trông thấy Thế Tôn liền hân hoan vui mừng và nghĩ rằng: 

“Hiện nay Đức Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng Chư 

Thiên vây quanh không khác gì chúng hội ở Diêm phù đề thuộc 

cõi trần”.  Khi ấy, Đức Phật liền biết được ý nghĩ cuả Tôn giả, 

bèn nói:

- Này Mục Kiền Liên: khi Ta muốn thuyết pháp cho Chư Thiên 

nghe, Ta không phải dùng thần lực để khiến họ đến hay khiến họ 

trở về, mà là tuỳ tâm họ muốn đến nghe hay muốn trở về. 

       Lúc ấy Tôn giả đến vái lễ Đức Phật và nói:

- Thưa Thế Tôn, trong hàng các vị Trời ở đây, có vị đã từng 

theo Thế Tôn nghe thuyết pháp tại Diêm phù đề trước kia. 

Các vị ấy đối với Phật Pháp có lòng tin thanh tịnh, nên sau 

khi mạng chung được sinh đến cõi này.

       Đức Phật bảo:

- Đúng thế, đúng như lời thầy nói. 

       Khi ấy Vua Trời Đế Thích ở trong hội, thấy Thế Tôn và Tôn 

giả khen ngợi Chư Thiên, liền thưa:

- Đúng vậy, đúng vậy! Thưa Tôn giả, trong Chư Thiên ở đây, 

một số là những vị từ đời trước đã từng nghe chính pháp. 

Đối với Phật, Pháp, Tăng thành tựu lòng tin thanh tịnh, không 

biến hoại, thành tựu Thánh giới, nên khi thân hoại mạng chung 

(chết) ở cõi Trần, được sinh đến cõi nàỵ. 

       Lúc đó có một vị Trời từ toà đứng dậy chắp tay thưa:

- Thưa Đức Thế Tôn, con được thành tựu lòng tin thanh tịnh 

bất hoại đối với Thế Tôn nên được sinh đến đây. 

       Rồi có vị nói:

- Con có lòng tin thanh tịnh không lay chuyển đối với Pháp của 

Đức Thế Tôn nên được sinh tới đây.

       Có vị nói:

- Con được lòng tin thanh tịnh kiên cố đối với Thánh Tăng nên 

được sinh tới đây.

       Có vị nói:

- Con được thành tựu Thánh giới nên được sinh đến cõi này.

       Như thế, chục vị Trời, trăm vị Trời, vô số vị Trời đến trước 

Thế Tôn, mỗi vị tự thuật trường hợp của mình, rồi đều biến 

mất trong khoảnh khắc. 

       Lúc đó Tôn giả Đại Mục Kiền Liên biết Chư Thiên đã đi khỏi, 

liền thưa với Đức Phật những điều mà bốn chúng tại Diêm phù đề 

thỉnh cầu; sau khi nghe Tôn giả trình bày, Đức Phật bảo Tôn giả:

- Thầy hãy trở về nói với đại chúng rằng: “Bảy ngày nữa Ta sẽ 

trở lại thành Tăng ca Xá, nơi cây Ưu đàm bát, phía bên ngoài 

cửa ngoài” (Có sách ghi: Sau bảy ngày nữa, Như Lai đến nước 

Tăng Ca Thi bên ngoài ao nước lớn). 

       Vâng lời Phật, Tôn giả Đại Mục Kiền Liên sau khi vái lễ 

Phật, liền trở về; chỉ trong khoảnh khắc, Tôn-giả biến mất khỏi 

cõi Trời Đao Lợi, hiện về tịnh xá Cấp Cô Độc, và thông báo với 

đại chúng như lời Đức Phật đã nói. 

       Bốn chúng nghe Tôn giả Đại Mục Kiền Liên nói đều vui 

mừng vô kể, và việc này nhanh chóng truyền đến các nước; 

các Vua Ba Tư Nặc nước Xá Vệ, Vua Ưu Điền nước Bạt Kỳ, 

Vua Ngũ Đô nước Ác Sinh, Vua Ưu Đà Diên nước Nam Hải, 

và Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt, cùng các Quan đại thần 

và vô số dân chúng đều đến trước hẹn để đón rước Thế Tôn. 

       Đúng hẹn bảy ngày, sau khi Đức Phật thuyết pháp ba tháng, 

độ cho Phật mẫu và vô số Chư Thiên sạch hết cấu uế, vô số Thiên 

nữ được pháp nhãn thanh tịnh. Ngài liền từ tòa đứng dậy đến đỉnh 

núi Tu Di đi trên đường vàng, bên phải có Phạm Thiên Vương đi 

trên đường bạc, bên trái có Đế Thiên Đế Thích đi trên đường lưu 

ly, và vô số chư Thiên, Long, Thần theo sau có nhạc, ca và rải 

muôn hoa trời rực rỡ... 

       Năm vua, các quan đại thần, tứ chúng, và muôn ức dân 

chúng nghênh đón đều quỳ lạy Đức Thế Tôn từ trên không từ 

từ đặt hai bàn chân xuống đất, lúc ấy tam Thiên đại Thiên thế 

giới sáu lần chấn động (Động đất); chính vào lúc này, gọi hội 

này là “Thiên Hạ Xứ Hội” (Tạp A Hàm, quyển 2, từ trang 293 

đến trang 299).,. 

 

 

__._,_.___


Posted by: Tien Do

__._,_.___

Posted by: Tien Do 

No comments:

Post a Comment

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List