Popular Posts

Saturday, September 28, 2019

Bí mật của 2 ngày nghỉ cuối tuần Thứ 7 và Chủ nhật.



Subject:  Bí mật  của 2 ngày nghỉ cuối tuần Thứ 7 và Chủ nhật.


 
 

Bí mật  của 2 ngày nghỉ cuối tuần Thứ 7 và Chủ nhật. 



           Chúng ta đều quá quen thuộc với khái niệm hai ngày nghỉ cuối tuần Thứ 7 và Chủ nhật. Nhưng liệu mấy ai biết bí ẩn đằng sau nó.



           Xã hội ngày nay, hầu như tất cả các cơ quan, Doanh nghiệp đều sẽ có hai ngày nghỉ cuối tuần dành cho nhân viên. Bạn nghĩ lý do của nó là gì? Sự nhân đạo ư? Các ông chủ thương xót cho nhân viên ư? Chắc hẳn không ít người sẽ suy nghĩ như vậy nhưng chưa hẳn đâu.



,ngày nghỉ,thứ 7,chủ nhật,bí mật đáng sợ,nhu cầu mua sắm,henry ford,kích cầu,Những điỠu thú vị trong cuộc sống


           Sự thật trong suốt giai đoạn thế kỷ thứ 19-20 khái niệm 2 ngày nghỉ Thứ 7, Chủ nhật chưa từng tồn tại. Những người công nhân Mỹ phải làm việc cả tuần. Khi đó các tầng lớp công nhân luôn đấu tranh yêu cầu phải giảm giờ làm nhưng hầu như không có tác dụng.



Sự ra đời của 2 ngày nghỉ cuối tuần và lý do thực sự nham hiểm mà không ai ngờ tới - Ảnh 4.
Henry Ford - người đã tạo ra khái niệm ngày nghỉ cuối tuần dành cho người lao động.

           Vậy khái niệm hai ngày nghỉ cuối tuần ra đời từ đâu? Thật bất ngờ người đưa ra khái niệm này lại là Henry Ford – Ông chủ của hãng xe hơi quá nổi tiếng mà chắc hẳn ai cũng biết, một kẻ cứng nhắc, luôn phản đối các cuộc đấu tranh của công nhân đến tận cùng. Vậy vì lý do gì mà ông ta lại đưa ra khái niệm này? Ông ta nổi lên lòng trắc ẩn ư? Thế thì bạn nhầm rồi !.  
           Câu chuyện bắt đầu vào năm 1914, khi đó Henry Ford quyết định tăng lương cho công nhân của mình từ 2.34 $/ một ngày lên 5$/ngày. Henry Ford bị  thuyết phục bởi vị Phó Chủ tịch của mình ông James Couzens về ý tưởng: Tăng lương không chỉ ổn định được lòng người, mà còn khuyến khích công nhân chi tiêu nhiều hơn. Có tiền thì ham muốn tiêu xài, mua sắm sẽ trỗi dậy, và họ có thể bỏ tiền ra mua chính xe hơi của hãng.
           Thật sự đây là một luận điểm vô cùng chính xác, không thể nào chối cãi. Có nhiều thì tiêu nhiều, một pha kích cầu hoàn hảo. Bạn có thể thử tưởng tượng một nhân viên Sam Sung bỏ 2 tháng tiền lương để mua một chiếc điện thoại Sam Sung đời mới, điều đó có nghĩa là nhân viên đó đã làm làm không công 2 tháng vì giá thành sản xuất chỉ là con số rất nhỏ so với giá bán. Cuối cùng số tiền bạn làm quần quật 2 tháng lại quay về túi của ông chủ. Đúng là không thể có sự bóc lột nào ngọt ngào hơn thế nữa.
           Và để dễ dàng thêm cho sự bóc lột của mình Henry Ford đã đề ra chính sách làm việc 5 ngày và nghỉ 2 ngày cuối tuần. Vì sao? Vì có tiền là một chuyện bạn còn cần thời gian để tiêu tiền. Hãy nghĩ mà xem 2 ngày nghỉ cuối tuần luôn là khoảng thời gian tuyệt vời để mua sắm.  
           Henry Ford đã nói:
           “Có nhiều thời gian rảnh mọi người sẽ muốn mua thêm quần áo, họ sẽ ăn nhiều đồ ăn ngon hơn, và họ cần nhiều phương tiện di chuyển hơn !”
           Vậy là khái niệm ngày nghỉ cuối tuần ra đời. Những ông chủ lớn của tất cả các ngành nghề đều nhanh chóng nhận thấy được mánh khóe ở trong đó. Và khái niệm ngày nghỉ cuối tuần ngày càng được nhân rộng ra. Từ đó phát triển thành đạo luật ngày làm việc 8h tối đa 40h/tuần. Đó chính xác là những gì ngày nay chúng ta được hưởng. Còn gì hay hơn khi bạn tăng sức bóc lột mà người ta còn cảm ơn bạn?.
           Dù vậy xét về kinh tế, đây là một chính sách hợp lý:  Con người được nghỉ ngơi sẽ chi tiêu nhiều hơn, thúc đẩy nền kinh tế, xã hội phát triển mạnh mẽ, đồng thời đẩy mạnh năng suất lao động. Còn bản thân chúng ta nên cẩn trọng trong chi tiêu là được.


                                                                                                                                                                                                            Hết.
__._, 

.


__._,_.___

Posted by: van tran 

Hong Kong phá nhà Lý Tiểu Long sống và qua đời năm 1973.



Subject:  Hong Kong phá nhà Lý Tiểu Long sống và qua đời năm 1973.

Hong Kong phá nhà Lý Tiểu Long sống và qua đời năm 1973.

BM

           Hong Kong sẽ phá căn nhà nơi huyền thoại võ thuật Lý Tiểu Long sống và qua đời năm 1973 để xây Trung tâm Văn hóa Trung Hoa.

           Tin này đã làm các fan của Lý Tiểu Long (Bruce Lee) thất vọng.

BM
  
           Theo trang Inkstone News (24/09/2019), một số người đã tới căn nhà này, nằm ở khu Kowloon Tong để chụp tấm ảnh cuối cùng.

           Họ phê phán chính quyền Hong Kong đã không làm đủ để cứu văn nhà.

           Tuy thế, những người khác cho rằng Hong Kong đã có đủ nơi kỷ niệm cuộc đời và sự nghiệp võ thuật của Lý Tiểu Long.

BM
BM
  
           Ngoài tượng và phòng trưng bày riêng về ông tại Bảo tàng Di sản Hương Cảng (Hong Kong Heritage Museum), Lý Tiểu Long còn có tượng ở bến thuyền Hong Kong Harbour.

           Sinh ra trong gia đình gốc Hoa tại San Francisco năm 1940, Lý Tiểu Long đã được gia đình đưa về sống tại Hong Kong, nơi ông bắt đầu học võ.

BM
BM
  
           Sau khi hoạt động trong nghề võ, đóng phim và lập gia đình tại Hoa Kỳ, Lý Tiểu Long dọn về Hong Kong năm 1971 để tiếp tục sự nghiệp.

BM
  
           Tại căn nhà ở Kowloon Tong, ông đã sống cùng người vợ Mỹ, Linda Lee Cadwell và hai con.

           Sau khi ông qua đời đột ngột năm 1973, bà Linda đã đưa các con Brandon và Shannon về Hoa Kỳ.

BM  
Hàng triệu bản phim võ thuật in lậu với Lý Tiểu Long trong vai chính đã được bán trên thế giới

           Một doanh nhân Hong Kong sau đó đã mua căn nhà hai tầng vào năm 1974 với giá một triệu đô la Hong Kong.

           Ý tưởng biến căn nhà 'Tổ Hạc' (Crane's Nest) thành Bảo tàng về Lý Tiểu Long như thế đã không thành.

BM
  
           Từ thập niên 1970, hàng triệu bản phim võ thuật, gồm cả bản chính thống và in lậu với Lý Tiểu Long trong vai chính đã được bán trên thế giới, đưa ông thành khuôn mặt dễ nhận biệt thuộc hàng đầu trên toàn cầu.

BM



                                                                                    Hết.



__._,_.___

Posted by: van tran

Bí mật của nhà “Ngoại Cảm”


----- Forwarded Message -----
From: Thanhlam Le <
Sent: Friday, September 27, 2019, 01:40:03 PM PDT
Subject: Fwd: Bí mật của nhà “Ngoại Cảm”-Sơn Tùng


Fra: Hoan Le <hoan.le94@yahoo.com>
Date: fre. 27. sep. 2019 kl. 20:28
Subject: Bí mật của nhà “Ngoại Cảm”-Sơn Tùng
 

Bí mật của nhà “Ngoại Cảm”

Sơn Tùng

Vụ cháy ngôi biệt thự Hồng Dương vào ngày Mùng Một Tết không chỉ làm chấn động Thành phố Đà Lạt mà còn gây xôn xao cả nước. Ngay sau khi hỏa hoạn xảy ra, các cơ quan an ninh và thông tin văn hoá đã nhanh chóng làm nhiệm vụ, ngăn chặn việc phổ biến tin này, nhưng chỉ ngày hôm sau, trong hệ thống đảng, từ trung ương tới các cấp bộ địa phương, mọi người đều hay biết với những tin tức khá đầy đủ.

Ngôi nhà hai mươi phòng của Tướng Vũ Sơn đã bốc lửa vào lúc nửa đêm Mùng Một Tết, cháy cho đến chiều hôm sau, khói vẫn còn âm ỉ bốc lên từ những gì còn lại. Sở Phòng Cháy Chữa Cháy thành phố đã huy động tất cả phương tiện cơ hữu để cố đàn áp ngọn lửa nhưng chính họ đã bị ngọn lửa đẩy lui để bảo vệ khu rừng thông bên ngoài và các ngôi nhà chung quanh khỏi bị cháy lan.

Thiệt hại vật chất rất to lớn, chưa thể biết chính xác. Bốn năm trước, Thượng Tướng Vũ Sơn đã cho khởi công xậy dựng ngôi biệt thự này trên một đồi thông nhìn xuống Hồ Tuyền Lâm thơ mộng. Việc xây cất đã kéo dài hai năm mới hoàn tất với những vật liệu hiếm quý đắt tiền, với những tiện nghi xa hoa hiện đại. Các phòng ốc được trang trí với những báu vật mà Biệt điện của Vua Bảo Đại trước đây cũng chưa có. Tất cả nay đã thành tro than.

Nhưng thiệt hại nhân mạng cũng rất hãi hùng. Sau cơn tung hoành của lửa khói, khi các nhân viên chữa cháy đầu tiên vào được bên trong, họ đã chứng kiến một cảnh tượng giống như nơi đây vừa là mục tiêu của một trận pháo kích. Quá nhiều xác chết. Xác chết rải rác khắp nơi, nhưng nhiều nhất là tại căn phòng lớn được gọi là “hội trường”, nơi tổ chức những cuộc liên hoan, ca vũ.

Khi hoả hoạn xảy ra, căn phòng này có khoảng năm mươi người đang tham dự tiệc liên hoan đầu năm. Vợ chồng Tướng Vũ Sơn và người con trai, tổng giám đốc một công ty vận chuyển, cũng nằm trong số nạn nhân. Những nạn nhân khác đều là những người có quyền thế và có nhiều triệu đô-la mà ngôn ngữ thời thượng gọi là các “đại gia”, không những chỉ ở Đà-lạt mà còn từ Hà Nội và Sài Gòn lên đây ăn Tết do lời mời của gia chủ.

Nguyên nhân gây ra vụ hoả hoạn chưa được biết rõ, nhưng đã có lời đồn về một nghi án đốt nhà vì người ta ngửi thấy mùi xăng và tìm thấy vài tang vật đang được phòng giảo nghiệm khoa học hình sự phân tích để phanh ra manh mối.

Những thám tử giỏi nhất từ Hà Nội đã được phái tới Đà Lạt để tăng cường cho Sở Công an thành phố mở cuộc điều tra. Nhưng càng điều tra người ta càng có thêm nhiều câu hỏi mà không có câu trả lời. Nếu đây là một vụ đốt nhà thì thủ phạm là ai? Làm cách nào hắn đã đột nhập ngôi biệt thự có nhiều hệ thống an ninh mà không bị phát hiện? Ai đã khoá trái các cửa “hội trường” khiến không một người nào có thể thoát thân? Cuộc điều tra càng trở nên phức tạp khi phòng giảo nghiệm khoa học hình sự xác nhận những vật liệu gây cháy là của quân đội và thủ phạm phải là người ở trong quân đội hay đã từng là bộ đội. Và cuối cùng, động cơ của vụ đốt nhà táo bạo này là gì?

Nhiều người đã bị điều tra, thẩm vấn. Cuối cùng, sáu tháng sau, công an đã bắt một người không ai ngờ: nhà ngoại cảm Phan Quang Thế.

Ông Thế đã nổi tiếng khắp nước từ mấy năm nay như một người có “ngoại cảm” với cõi âm, có thể nói chuyện được với những linh hồn ở thế giới bên kia, và đã giúp nhiều gia đình tử sĩ tìm được hài cốt người thân bị vùi chôn đâu đó trong cuộc chiến đánh chiếm miền Nam đã qua.

Ngoài 60 nhưng nhà ngoại cảm Phan Quang Thế trông già hơn tuổi, với mái tóc bạc phơ thưa thớt trên đầu, với cặp kính lão ít khi rời khỏi đôi mắt nhỏ trên gương mặt trầm tư mang nhiều nếp nhăn. Ông có thân hình mảnh khảnh và chân đi khập khiễng, nghe nói do một tai nạn lưu thông đã lâu. Ông ít nói và nghe giống như giọng những người miền Bắc mới vào Nam sau ngày chiến tranh chấm dứt, nhưng ông Thế cho biết ông là dân “Bắc di cư” năm 1955.

Từ khoảng giữa thập niên 1990, ông Thế làm việc tại tiệm hớt tóc “Thời Danh” ở khu Ngã Bảy, Sài-gòn. Gọi là “tiệm” nhưng “Thời Danh” chỉ là một cái chái nhỏ trong con đường hẻm được che bằng vài miếng tôn dựa vào bức tường một căn phố ba tầng, và có hai ghế cho khách hớt tóc. Người chủ tiệm làm một ghế và ông Thế một ghế. Ông ta khéo tay và làm việc cần mẫn nên có nhiều khách.

Tiệm hớt tóc là nơi hàng ngày thu nhận nhiều tin tức thời sự, do khách đem tới, và cũng là nơi phát đi nhiều tin tức, do thợ hớt tóc truyền ra, nhưng ông Thế chỉ nghe nhiều hơn là nói. Ông ta có đời sống thầm lặng và kín đáo. Không ai biết nhà cửa ông ở đâu và gia cảnh ra sao. Khi có người hỏi thăm, ông chỉ nói quấy quá là sống độc thân với một người bạn già cùng cảnh ngộ.

Khi những câu chuyện về các nhà “ngoại cảm” được loan truyền, tiệm hớt tóc “Thời Danh” cũng là nơi thu nhận và phát đi nhiều tin tức nóng hổi, và khác với thường lệ, ông Phan Quang Thế có vẻ quan tâm và hỏi han tìm hiểu.

Vài tháng sau, ông Thế bỏ nghề hớt tóc và không còn xuất hiện ở khu Ngã Bảy. Bẵng đi một thời gian khá lâu, khi những người thường lui tới tiệm “Thời Danh” không còn nhắc nhớ đến ông thì có tin ông đã trở thành một nhà “ngoại cảm” sau khi tiếp thu một phép lạ khiến ông có thể nói chuyện với những linh hồn và đã giúp tìm được nhiều hài cốt của những bộ đội chết trên chiến trường miền Nam trước đây. Những vụ này đã được tường thuật trên báo chí với tên tuổi và đầy đủ chi tiết của từng vụ, kèm theo hình ảnh.

Đây là những chuyện có thật mà những người chứng kiến không thể nghi ngờ và khoa học cũng không thể giải thích. Có những cán binh từ miền Bắc vào chết mất xác trên rừng núi miền Nam hơn ba mươi năm trước đã được ông Phan Quang Thế tìm ra hài cốt và được gia đình xác nhận đúng là thân nhân của họ sau khi thử nghiệm DNA.

Ngay đến giới lãnh đạo Đảng Cộng sản và nhà nước, những con người theo chủ nghĩa vô thần, những kẻ gọi tôn giáo là thuốc phiện và xem bói toán, thờ cúng là dị đoan lừa gạt, cũng không thể bác bỏ những chuyện sặc mùi mê tín này và họ trở nên hoang mang, sợ hãi, vì biết đâu với khả năng nói chuyện được với những người ở cõi âm, các nhà “ngoại cảm” chẳng có thể tung ra những câu chuyện tác hại liên quan đến những lãnh tụ đã qua đời như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng…

Tướng Vũ Sơn cũng là một người quan tâm đến những câu chuyện “ngoại cảm”. Tuy đã về hưu, ông tướng cũng còn nhiều ảnh hưởng trong đảng và quân đội, do những vai trò quan trọng trong quá khứ của ông và các chức vụ lớn hiện nay của mấy người con. Trước hết, ông ta là một kẻ vô thần và tin rằng con người khi “chết là hết”, không có linh hồn mà cũng chẳng có thiên đàng hay địa ngục. Nhưng ông cũng không thể dựa vào lập luận nào để bảo rằng những câu chuyện về “ngoại cảm” như được thuật lại là bịa đặt hay lừa gạt. Ông ta muốn đích thân tìm hiểu, nên khi được tin ông Phan Quang Thế đang có mặt ở Đà-lạt vào những ngày cuối năm để giúp tìm hài cốt trong vùng cao nguyên, Tướng Vũ Sơn đã mời ông ta tới nhà để đàm đạo và trắc nghiệm về những khả năng huyền bí của nhà “ngoại cảm”.

Qua vài lần gặp gỡ, Tướng Vũ Sơn đã kinh ngạc khi chứng kiến tận mắt ông Thế nói chuyện với linh hồn của vài người thân của vợ chồng ông tướng và đã phát hiện những chi tiết mà người ngoài không thể biết.

Tướng Vũ Sơn đã theo đảng từ năm 17 tuổi, khi đang làm công cho một đồn điền trà ở Di-linh, từng vào tù ra khám, đã trải qua nhiều gian khổ, đã đương đầu với nhiều hiểm nguy, đã nhúng tay vào nhiều tội ác, nhưng đây là lần đầu tiên ông ta cảm thấy tinh thần bị lung lay dữ dội và sợ hãi như đang phải đối đầu với một kẻ thù vô hình. Nhà “ngoại cảm” Phan Quang Thế, qua những hồn ma, đã biết nhiều điều liên hệ đến quá khứ của vợ chồng ông. Nhưng con người với cái bề ngoài tầm thường vô hại này là ai, do đâu mà có những quyền năng huyền bí như vậy?

Bà vợ Tướng Vũ Sơn càng sợ hãi hơn khi ông Thế tiếp xúc với linh hồn của một người đàn bà mà ông ta nói là người đã cứu bà tướng khi còn nhỏ trong trận đói năm 1945 ở miền Bắc mà cho đến nay linh hồn người này chưa siêu thoát và vẫn lẩn khuất quanh đây.

Quả thật, năm ấy bà tướng là một cô bé mười tuổi đã được một bà chủ điền ở Sơn Tây đem về cứu sống trong lúc đang nằm chờ chết bên lề đường ở ngoại ô Hà-nội vì đã không có gì ăn hơn một tuần lễ. Bà đã trở thành con nuôi của bà điền chủ, và đã trả ơn người cứu mình bằng cách đấu tố người ấy trong cuộc “cải cách ruộng đất” năm 1956 ở miền Bắc. Khi ấy bà đã là một thiếu nữ xinh đẹp và sau đó không lâu được đảng xây dựng kết hôn với Tướng Vũ Sơn, lúc đó còn mang quân hàm đại tá..

Câu chuyện này tưởng đã chôn vùi trong màn đêm sâu thẳm của quá khứ nay được nhà “ngoại cảm” Phan Quang Thế làm sống lại khiến mấy đêm liên tiếp bà tướng không thể ngủ yên, mà hễ chợp mắt chỉ thấy toàn ác mộng.

Tướng Vũ Sơn ngoài mặt tỏ ra trọng vọng Phan Quang Thế và mời ông tới ở trong một căn phòng của biệt thự Hồng Dương để được thù tiếp, nhưng trong thâm tâm ông ta muốn sống gần để có điều kiện thử thách thêm và tìm hiểu lý lịch của nhà “ngoại cảm”.

Nhưng, vụ hoả hoạn ngày Mùng Một Tết đã xảy ra bất ngờ và sau đó Phan Quang Thế đã biến mất khỏi thành phố Đà-lạt. Đó là một trong những lý do khiến ông ta bị nghi ngờ, bị truy nã, và bị bắt.

Ngồi đối diện với hai điều tra viên mặt lạnh như thép nguội đầy đe dọa, Phan Quang Thế không tỏ ra chút nao núng, sợ sệt. Ông ta ngồi thẳng lưng, chắp hai bàn tay đặt lên mặt chiếc bàn nhỏ trong phòng lấy cung, mắt nhìn thẳng vào mặt hai điều tra viên và nói với giọng vừa đủ nghe:

- Để khỏi mất thời gian của các ông, và các ông cũng không phải nhọc lòng nặng tay trên thân thể già nua, gầy còm này để cố moi những gì muốn biết. Tôi hiểu rõ tội của tôi và cũng biết rõ hậu quả sẽ dành cho tôi, và tôi sẽ nói tất cả sự thật. Vâng, tất cả sự thật, dù các ông có muốn nghe hay không, nhưng tôi muốn nói chuyện với ai đó cao hơn các ông một chút.

Hai viên công an, một người cao gầy và răng hô, một người to béo và mắt lồi, nhưng cả hai đều đỏ bừng mặt giận dữ. Hai người đều trẻ, đáng tuổi con của Phan Quang Thế. Sau một phút nghẹn họng, người cao gầy gằn giọng:

- Anh muốn nói chuyện với ai?
- Thí dụ viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân.

Người to béo xô bàn đứng phắt đậy, đôi mắt lồi muốn lọt ra ngoài, tát mạnh vào mặt Phan Quang Thế một cái và quát:
- Láo! Thằng này, mày là ai mà đòi nói chuyện với viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân?

Phan Quang Thế đưa tay quẹt giọt máu vừa ứa ra trên khoé môi, bình tĩnh nói:
- Tôi chỉ là “thằng dân”, chẳng là ai cả. Nhưng không phải là các ông bảo “nhân dân làm chủ”, và các ông chỉ là tôi tớ à? Các ông được gì khi đánh đập “thằng dân” này? Lỡ thân này chết đi thì các ông được gì? Những điều mà tôi đang muốn cống hiến cho các ông quý hơn cái thân già này nhiều.

Hai viên công an gầm gừ như muốn ăn tươi nuốt sống nhà “ngoại cảm” nhưng đành nén giận, ngồi yên nghe tiếp:
- Hơn nữa, các ông đừng tưởng những gì các ông làm trong Sở Công an này mà bên ngoài không biết. Không cái gì còn có thể che giấu trong thời đại toàn cầu hoá và thông tin điện tử ngày nay. Trước sau gì thì tôi cũng chết: bị xử bắn, bị thủ tiêu trong nhà giam, hay tắt thở trong khi bị tra tấn. Nhưng cấp lãnh đạo của các ông cần biết nhiều sự thật trước khi tôi chết. Và các ông sẽ phải chịu trách nhiệm nếu tôi chết trước khi họ biết sự thật.

Anh công an cao gầy văng tục, xô ghế đứng lên, bước ra ngoài, gọi người đem Phan Quang Thế trở về phòng giam.

Nội vụ được trình lên Viện Kiểm Sát Nhân Dân vì đây là một vụ án quan trọng đang được các cấp lãnh đạo đảng đặc biệt theo dõi. Sau khi đọc hồ sơ và nghe báo cáo, viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân đã đích thân nghiên cứu và giải quyết. Từ ngày về cầm đầu cái cơ quan công tố tối cao của nhà nước, ông ta chưa gặp một vụ nào phức tạp như thế này. Thật ra, khi mà quyền làm luật và thi hành luật đều nằm trong tay đảng thì vai trò của “Viện Kiểm Sát Nhân Dân” không có gì nặng nhọc lắm. Nó có thể biến một nhà báo dám viết sự thật thành một tên gián điệp, hay một kẻ phản động, âm mưu lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa và lãnh án hai mươi năm tù. Nó có thể miễn tố một đảng viên thâm lạm công quỹ hàng tỉ đồng, hay giam giữ một người năm này qua năm khác mà không cần đưa ra toà xét xử… Mọi bản án đã được làm sẵn trước phiên toà, tất cả chỉ là những trò hề tẻ nhạt. Nhưng, tên Phan Quang Thế này là ai? Do đâu hắn có những quyền năng huyền bí đáng sợ như vậy? Vì lý do gì hắn đã đốt nhà Tướng Vũ Sơn với mục đính giết chết nhiều người quan trọng như vậy, và đang còn nắm giữ những bí mật gì?

Theo báo cáo của công an, Phan Quang Thế đã trở thành nhà “ngoại cảm” sau một cơn bệnh nặng, và nói rằng trong mấy ngày hôn mê hắn đã được một vị thần ban truyền cho quyền năng “ngoại cảm”. Công an cũng xác nhận những việc nhà “ngoại cảm” Phan Quang Thế đã làm, như tìm ra những hài cốt bộ đội và nói chuyện với các linh hồn ở cõi âm, là có thật chứ không phải tin đồn nhảm.

Tất cả học thuyết Mác-Lê-nin, duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, chuyên chính vô sản… đều không giúp được gì trong vụ này. Và trong lúc Viện Kiểm Sát Nhân Dân đang lúng túng thì trên mạng điện tử xuất hiện một bức “thư ngỏ” của Phan Quang Thế gửi giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam với nội dung như sau:

“Thưa các ông lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam,

Tôi là Phan Quang Thế, đang bị giam giữ vì vụ đốt nhà Tướng Vũ Sơn. Như tôi đã nói với công an ngay trong ngày đầu chấp pháp, tôi cần gặp các ông để nói những sự thật liên quan đến vụ án, nhưng đến nay các ông vẫn im lặng, trong lúc tôi tiếp tục bị tra khảo với đòn thù mà tấm thân già yếu của tôi không thể chịu được lâu. Vì thế tôi phải gửi thư ngỏ này để nói lên những sự thật mà các ông cần biết trước khi tôi chết.

Tên do cha mẹ đặt cho tôi lúc sinh ra đời là Nguyễn Văn Minh chứ không phải Phan Quang Thế. Quê ở Huyện Tùng Thiện, Tỉnh Sơn Tây, Bắc Việt. Việc thay họ đổi tên tôi sẽ nói thêm sau.

Khi chiến dịch cải cách ruộng đất được Đảng Cộng sản phát động ở miền Bắc thì tôi mới lên mười, nhưng vẫn còn nhớ như in những gì đã xảy đến với bà nội tôi, một người đàn bà hiền hậu và đạo đức. Bà tôi chỉ có một mẫu ruộng, tự cày cấy lấy, và năm 1956 đã bị đấu tố vì tội địa chủ, và người đứng ra đấu là Nguyễn Thị Yến, người con nuôi mà bà tôi đã cứu khỏi nạn đói mười một năm trước. Bây giờ, do sự xúi giục của cán bộ cải cách ruộng đất, Thị Yến kết tội bà tôi là địa chủ gian ác, bắt nó lao động hơn mười năm không trả lương. Bà tôi chỉ khóc và nói rằng bà thương nó như con ruột, nó có phụ bà chăm lo vườn tược và làm công việc đồng áng thì cũng như con cháu khác trong nhà, đâu có ai lãnh lương. Nó chỉ vào mặt bà mà mắng: ‘Mày đâu có phải là mẹ tao mà bắt tao lao động không công? Mẹ tao đã chết trong trận đói năm ấy trong lúc bọn địa chủ chúng mày thừa lúa gạo cất trong kho. Mày là con địa chủ gian tham, mày cho tao ăn cho khỏi chết đói để đem về bắt tao làm nô lệ, chứ có nhân đức gì đâu!’. Sau màn đấu tố dã man, bà nội tôi bị đưa lên núi, nhốt trong một cái cũi bằng tre, bị bỏ đói cho đến chết. Hai ông chú tôi theo cách mạng từ ngày đầu kháng chiến nay trở về làng trở thành cán bộ nhà nước cũng không dám làm gì để cứu mẹ. Một chế độ đã đưa con người xuống thấp hơn loài dã thú. Con thú mà thấy mẹ nó gặp nạn cũng không thể đứng yên.

Cái chết thương tâm của bà tôi cùng với màn đấu tố man rợ đã nhuộm đen tâm hồn tuổi thơ trong trắng của tôi và đã không bao giờ mờ nhạt khi tôi khôn lớn. Năm 20 tuổi, tôi bị gọi đi nghĩa vụ và đưa vào giải phóng miền Nam. Trên đường mòn Trường Sơn tôi đã biết thế nào là địa ngục trần gian. Đi mười chết năm vì bệnh tật, rắn rết, bom trải thảm…

Tôi là một trong những người sống sót trong đơn vị để chiến đấu trên đất miền Nam trong hơn 5 năm, đã tham dự nhiều trận đánh ác liệt, kể cả trận Tết Mậu Thân tại Huế và trận tổng tiến công mùa hè năm 1972. Trận nào cũng thua và cũng chết quá nhiều. Những người chết bị bỏ lại chiến địa hay chôn lấp vội vã chung một hố trước khi đơn vị rút lui. Con người không có giá trị gì hơn là những công cụ của các ông. Các ông không cần biết tới đời sống của chúng tôi, tình cảm của chúng tôi, tâm tư chúng tôi, gia đình chúng tôi. Chúng tôi chỉ là những sinh vật biết cầm súng để đi vào chỗ chết, theo lệnh của những lãnh tụ vô cảm, sau khi đã gây ra bao tội ác với đồng bào đang sống an bình ở miền Nam.

Tôi đã nuôi trong đầu ý định bỏ hàng ngũ sau trận đánh đầu tiên nhưng không có cơ hội thực hiện cho đến trận cuối cùng tại An Lộc năm 1972. Tôi đã bị thương nặng, và bị bỏ lại trước khi đơn vị rút lui. Sợ tôi sống sót sẽ tiết lộ những tin tức bất lợi, người trung đội trưởng đã cho tôi một phát súng ân huệ vào ngực, nhưng viên đạn không trúng tim và tôi đã được những người mà các ông gọi là “ngụy quân hung ác” cứu sống sau ba tháng nằm trong bệnh viện của họ, được họ tận tình cứu chữa và đối xử không phân biệt đầy tình đồng bào.

Tôi đã làm lại cuộc đời ở miền Nam. Với một cái chân què, tôi cũng kiếm được một nghề sinh nhai lương thiện, được sống ấm no trong tự do. Tôi lấy vợ và có con. Tháng 3 năm 1975, vợ và đứa con duy nhất một tuổi của tôi đã chết cùng với hàng ngàn người dân vô tội khác do chiến tích cuối cùng của Quân đội Nhân dân của các ông mà có thời tôi đã phải phục vụ. Khi các ông chiếm được miền Nam, tôi đã phải hối lộ để thay họ đổi tên vì sợ bị các ông trả thù.

Tôi là con vật khốn nạn đã bị các ông, nhân danh một chủ nghĩa viển vông điên rồ, cướp đoạt mọi cơ hội để được sống như một con người bình thường, khiêm tốn nhất. Các ông đã nhân danh công bằng xã hội để giết hàng triệu người vô tội, trong đó có bà nội tôi, để tạo nên một xã hội còn bất công và tồi tệ gấp trăm ngàn lần khi trước. Bà nội tôi đã bị các ông giết chết một cách nhục nhã đau đớn chỉ vì làm chủ một mẫu ruộng. Bây giờ nếu đem tất cả tài sản ruộng vườn của bà nội tôi hồi ấy tạo được sau bao năm làm ăn cần kiệm cũng không đủ để làm cái cầu tiêu trong ngôi biệt thự nguy nga của kẻ đã đứng ra đấu tố để giết bà tôi. Bên ngoài những ngôi biệt thự như vậy, hàng triệu dân nghèo sinh sống vất vả, bữa đói bữa no.

Đó là lý do tôi đã phải đốt ngôi nhà tội ác ấy và trừng phạt những con ác quỷ dành quyền đấng chí tôn đang ngự trị trên xã hội vô luân này. Còn vì sao tôi đã trở thành một nhà “ngoại cảm”? Đó là phương tiện được dùng để thi hành bản án của tôi. Tại sao tôi biết vị trí để tìm hài cốt của các đồng đội cũ? Trong thời gian còn bị các ông dùng làm công cụ để đánh chiếm miền Nam, tôi đã kín đáo viết nhật ký và ghi lại, khi có thể, những địa điểm chôn các người bạn đã bỏ xác trong Nam. Nhờ đó sau này tôi đã giúp gia đình họ tìm được nắm xương tàn của người thân, và tôi trở thành nhà “ngoại cảm” có thế tiếp xúc với những hồn ma ở thế giới bên kia. Và các ông, những con người không tin có linh hồn, nhạo báng thượng đế, bây giờ cũng run sợ!

Mọi cái mặt nạ đã rơi xuống, những nhân danh cao cả đã không còn là bùa ngải để lừa gạt được ai. Nhân dân không còn sợ gông cùm và nhà tù của các ông. Họ đang đứng lên để đòi quyền được sống như những Con Người, trong đó có những người thuộc thế hệ trẻ không liên hệ gì tới “ngụy quân, ngụy quyền”, và có cả những người từng là đảng viên, cán bộ.

Ngày đền tội của các ông không còn xa.”


Công an đã dùng mọi phương cách để tìm biết làm cách nào Phan Quang Thế tức Nguyễn Văn Minh đã có thể viết và phổ biến bức “thư ngỏ” khi đang bị biệt giam trong nhà tù, nhưng không thể cạy được răng ông ta, dù có những cái răng đã cùng với máu ộc ra khỏi mồm khi bị tra khảo..

Một tuần sau, Sở Công an loan tin Phan Quang Thế tức Nguyễn Văn Minh đã chết trong tù vì chứng đau tim.

Nhà “ngoại cảm” đã đem theo bí mật xuống đáy mồ.


Sơn Tùng
(Viết để dâng lên hương linh Bà Ngoại kính yêu)


-
__._,_.___

Posted by: Dan Vo 

Một câu chuyện hay, nhưng buồn


 ( Chuyện đời thường buồn nhiều hơn vui ;
     Ngoài xã hội , ngay trong gia đình , nỗi lắt léo , điều phản bội ,
      cũng  vẫn thường xuyên sẩy ra . Mà đôi khi sẩy ra trong cái lúc bất ngờ nhất ;
        nghĩa là lúc  không tưởng có thể sẩy ra được !
      Nhiều khi mình phải tự an ủi mình , như đã từng an ủi bạn bè , bằng câu :
           " nghĩ câu vận mệnh , nguôi dần sót thương  " . )





From: Que Tho Tran
Subject: Fw: Một câu chuyện hay, nhưng buồn


Alain Delai - Đỗ Duy Ngọc

Hình minh họa

Nhà hắn nằm sau lưng nhà tôi. Hắn là thằng lai Tây, hơn tôi đâu ba tuổi. Hắn sinh năm 1947 thì phải. Hắn có bố đàng hoàng chứ không phải là thằng con lai hoang. Hắn từng khoe giấy khai sinh làm từ lúc hắn mới sinh, bố hắn là quan ba Pháp, là Capitaine quân đội Pháp. Cũng là thứ dữ chứ chắng phải thường đâu. Sinh ở Hà Nội di cư vào Nam 1954. Mẹ hắn là một phụ nữ đẹp, da bà trắng, mũi cao thon như người Nhật với đôi mắt ướt. Bà lại thường mặc yếm và cái váy đụp như người đàn bà nông dân Bắc bộ nhưng không che hết nhan sắc của bà. Hắn kế thừa nước da trắng, mũi lõ mắt xanh và thân hình to lớn của giống Tây, lại hưởng chút nhan sắc của mẹ nên hắn là thằng đàn ông rất đẹp trai. Cả xóm gọi hắn là thằng Lai. Hắn đẹp không thua gì tài tử Alain Delon, một diễn viên điện ảnh nổi như cồn thời ấy nên tôi gọi hắn là Alain Delai. Hắn cũng khoái được gọi thế với một niềm hãnh diện. Hắn bảo bố hắn bị bắt làm tù binh của Việt minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sau đó được về cố quốc, bỏ mẹ con hắn lại đi tàu há mồm vào Nam.

Hắn sống cùng mẹ với một ông bố dượng trong căn nhà khá rộng nhưng lúc nào cũng tối om om. Mẹ hắn làm nghề đúc đậu khuôn. Những miếng đậu của bà lúc nào cũng chắc, beo béo. Nhất là những khuôn đậu chiên, vàng dòn ở bên ngoài, mềm mại ở bên trong. Những miếng đậu nóng hổi vừa mới rời chảo mà chấm với chén nước tương đầy ớt trái thì ngon rụng rời. Ký ức tuổi nhỏ của tôi ở xóm bến xe Chợ Cồn đầy những bánh đậu khuôn dòn béo ấy.

Bố dượng hắn đúng phong cách công tử Hà thành, ông chẳng làm ăn gì, lại nghiện thuốc phiện. Tôi không quên được cái phong thái vừa lịch lãm vừa phớt đời của ông. Ông cao lắm, chắc phải mét tám, nhưng gầy, vai so ngang của người nghiện thuốc lâu năm. Tôi nhớ mãi ông vì ông giống y chang hình nhà văn Vũ Trọng Phụng trong cuốn sách gì đó mà lâu quá tôi quên mất. Mà tôi thì khoái đọc mấy cái phóng sự rất đời của nhà văn này hồi mới vào lớp nhất dù ba tôi cấm triệt, bắt gặp tôi đọc loại sách ấy là đánh đòn nặng tay với những chiếc roi mây.

Đó là hình ảnh của một người đàn ông với khuôn mặt gầy xương, má hóp, cổ quấn chiếc khăn kẻ ca rô. Khuôn mặt ông bố dượng hắn đấy. Ra ngõ ông đội thêm cái mũ phớt nỉ hoặc chống cây baton lên nước bóng. Hắn có vẻ sợ bố dượng, nhưng trong ánh mắt xanh xanh của hắn có thoáng chút thù hận không nói ra.

Hắn là thằng nghịch phá nhất xóm, hình như đứa con lai nào cũng thế. Hắn lớn con, liều lĩnh, chẳng biết sợ ai nên đám trai trẻ quanh vùng đều tránh không dám gây sự với hắn. Xóm tôi ở là xóm bến xe Chợ Cồn, dân du đãng tứ xứ tụ về, dân tài xế, lơ xe toàn là dân giang hồ, thế mà ai cũng sợ hắn. Hắn liều lĩnh, bất chấp, trong mọi cuộc đấm đá, hắn là thằng đi đầu, xông vào trước, luôn hỗ trợ cho mấy thằng yếu thế hơn. Hắn liều, nhưng chơi đẹp, không bao giờ ăn hiếp kẻ thế cô, không bao giờ đánh tán mạng kẻ thù. Đánh gục đối thủ, hắn thường xốc nách chúng lên, cho ngổi dựa vào tường, lấy nước, mang bia cho uống, lấy khăn ướt lau mặt cho.

Bởi thế, những tay hảo hớn bến xe đã từng đụng độ với hắn một lần thì đâm ra phục hắn, xem hắn như đại ca. Nhưng hắn không muốn làm đại ca, hắn chỉ ra tay khi thấy chuyện bất bình. Đám cảnh sát ở ngã tư Chợ Cồn cũng ngán hắn. Có lần tay cảnh sát ức hiếp bà già bán rau ở lề đường, hắn bay từ xa đá vào ngực tay cảnh sát làm y bồ ngửa, hắn bảo không được ức hiếp người nghèo, có giỏi thì chơi tay đôi với hắn. Xong nó kéo tay tên cảnh sát vào quán bún bò bà Hưng ngay nơi ngã tư, kêu bún bò xí quách và bia nhậu. Thế là xong.

Khi tôi vào tuổi mới lớn, khoảng mười ba, mười bốn thì hắn đã là một thanh niên vạm vỡ. Hắn rất thích chơi với tôi, hắn bảo hắn khoái cái kiểu sống của gia đình tôi. Tuy là một thằng rất ba trợn, nhưng hắn lại là một thằng rất tình cảm. Hồi đấy, tôi đang tập đàn mandoline, cũng chỉ biết lỏm bỏm thôi, nhưng tối tối không có chuyện đi đâu hắn lại rủ tôi ra đầu ngõ, dưới tàng cây trứng cá, đàn cho hắn nghe. Hắn chỉ thích độc một bài của nhạc sĩ Đặng Thế Phong, bài Giọt mưa thu. Thế mới lạ.

“Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi 
Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi 
Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu 

Ai khóc ai than hờ! 

Vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành 
như nhủ trời xanh 
Gió ngừng đi 
mưa buồn chi 
cho cõi lòng lâm ly . 
Hồn thu tới nơi đây gieo buồn lây 
Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về 
Ai nức nở thương đời 
chân buông mau 
dương thế bao la sầu . 
Người mong mây tan cho gió hiu hiu lạnh 
mây ngỏ trời xanh 
chắc gì vui 
mưa còn rơi 
bao kiếp sầu ta nguôi . 
Gió xa xôi vẫn về 
Mưa giăng mù lê thê 
Đến bao năm nữa trời ... 
... Vợ chồng Ngâu thôi khóc vì thu.”

Tôi đàn, hắn hát theo, tôi không ngờ hắn có giọng hát hay thế. Một giọng Bắc chuẩn thật chuẩn, luyến láy đúng điệu, nhịp phách không sai chút nào. Hắn làm tôi khá bất ngờ, bởi tôi biết hắn có chút kiến thức âm nhạc nào đâu.

Giọng hắn thê thiết, buồn, trẩm, có hồn vía ghê lắm. Hắn chỉ hát có một bài đó. Buồn vui chi cũng Giọt mưa thu. Đám cưới, đám ma, sinh nhật, nhậu nhẹt mà có hát là hát Giọt mưa thu. Tò mò, tôi hỏi hắn thì mới biết là ngày xưa ở Hà Nội, lúc tuổi mới lớn, mẹ hắn là láng giềng và cũng là người yêu của nhạc sĩ Đặng Thế Phong. Người nhạc sĩ tài hoa yểu mệnh, mẹ hắn vì thời cuộc cũng long đong. Khi sinh ra hắn, suốt quãng đời trong nôi, mẹ hắn chỉ ru hắn bằng một bài Giọt mưa thu. Bài hát thấm trong máu hắn, nằm mãi trong ký ức hắn và đối với hắn, âm nhạc chỉ có mình bài đó thôi.

Hắn rất thương mẹ, mẹ hắn ít nói, nhiều khi chỉ một ánh mắt nhìn, hắn đã líu ríu làm theo những gì mẹ hắn muốn. Ra khỏi nhà, hắn là thằng du côn, nhưng ở nhà, hắn là đứa con ngoan. Hắn phụ mẹ hắn xay đậu, ép khuôn, gánh hàng ra chợ. Nhìn hắn quấn quýt bên mẹ, thương lắm. Hắn bảo đời mẹ hắn có lắm nỗi buồn, hắn không muốn làm cho mẹ hắn thêm buồn nữa.

Hắn nói thế mà mười tám tuổi, hắn bỏ nhà đi lính sau một trận cãi nhau bốc lửa với ông bố dượng. Mẹ hắn buồn ghê lắm, nhưng cũng đành, bên chồng, bên con, biết làm sao?
Hắn đi lính nhảy dù. Ngày gặp lại hắn với bộ đồ rằn ri, cái mũ bê rê đội lệch, tôi thấy hắn đẹp quá. Bộ đồ lính ấy trong thân hình thước tám hai, với mấy chiếc lựu đạn mini bên hông, đôi bốt đờ sô dềnh dàng trông nó oai hùng quá. Nhìn hắn chẳng khác chi tay lính Mỹ. Tôi chào hắn như mọi khi: Chào Alain Delai, hắn cũng chào lại như mọi lần gặp nhau: Chào thằng em bô giai.

Hai thằng ôm nhau. Từ đó, sau những đợt hành quân, về hậu cứ là hắn dẫn tôi đi ăn chơi. Tôi vừa mới tuổi mười lăm, cao mét sau lăm, mới đứng ngang nách hắn. Hắn dẫn tôi đi mấy cái bar ở ngã năm. Đó là những nơi tôi chưa từng vào và cũng chưa từng biết. Hắn giúp tôi khám phá thế giới ấy. Thế giới của rượu, bia, thuốc lá và gái. Hăn đi đến đâu, mấy em cave theo đến đấy. Hắn đẹp quá mà. Người đàn bà nào lại không thích trai đẹp, kể cả những người đàn bà làm đĩ. Tôi đi với hắn, ngoan ngoãn như đứa em hưởng sái của thằng anh. Đi đến đâu hắn cũng được các em bao, rượu tràn trề, khói thuốc mờ mịt. Cũng có lần vì ganh tức mấy em, đám lính không quân gây sự, hắn đánh đấm một trận ra trò phải vào bệnh viện còn tôi thì trốn nhủi trong cầu tiêu. Ba tôi biết chuyện, cấm triệt, không cho tôi đi chơi với hắn. Nhưng đôi lúc ngồi đàn cho hắn hát Giọt mưa thu, ba tôi cũng chẳng nói gì, có lần khen hắn hát hay. Hắn cũng rất kính Ba tôi, mỗi lần gặp đều khoanh tay thưa ông Đốc rất đàng hoàng.
Năm 1966, lính vùng một của tướng Nguyễn Chánh Thi liên minh với Phật giáo miền Trung ly khai. Tướng Kỳ đem quân ra dẹp. Lực lượng nhảy dù làm nòng cốt dẹp loạn. Khu vực xóm tôi là trung tâm của cuộc giao tranh. Lính ông Kỳ từ ngã tư Chợ Cồn đánh thẳng đường Ông Ích Khiêm tiến tới chùa Tỉnh hội, trung tâm đầu não của cuộc đấu tranh. Súng nồ ì xèo. Lần đầu tiên tôi biết mùi của đạn bom, của chiến tranh. Hai quả M79 rớt ngay sân nhà tôi, tường lủng tứ tung. Cả nhà sợ quá dắt díu nhau chạy vô bàu Thạc Gián. Đêm tá túc nhà người quen, không dám ngủ, nhìn ra trời thấy đạn bay líu ríu, chỉ mong trời mau sáng. Đến sáng thì êm,khoảng trưa thì nghe tin hắn bị thương, một viên đạn M79 quét ngang chần hắn, hai chân nát bét phải cưa đến đầu gối, đang nằm ở Tồng y viện Duy Tân, chỗ làm việc của Ba tôi. Mẹ hắn qua gặp Ba tôi, nhờ giúp.

Tôi vào gặp hắn, hắn xanh xao vì mất nhiều máu, hai chân băng trắng xoá. Tôi chào: Chào Alain Delai. Hắn cầm tay tôi thều thào với nụ cười méo xệch: Chào thằng em bô giai. Hắn bảo hắn không sao, nhưng chỉ thương mẹ hắn, chắc mẹ buồn lắm. Mẹ hắn chỉ biết khóc. Đi chiến đấu bao lần không sao, cuối cùng lại bị thương vì đạn của phe mình. Hắn chửi đụ mẹ mấy thằng rách việc, bày đặt đấu tranh khiến hắn mất cặp giò. Thà ngoài chiến trường nó không tức. Đây lại tàn phế vì đồng đội, có khốn nạn không?

Từ đó, hắn trở thành kẻ cụt chân, di chuyển bằng đôi nạng, hắn vẫn đẹp, nhưng vẻ đẹp của kẻ thiếu đôi chân. Hắn vẫn là thằng giang hồ, đấm đá với đôi nạng, tuy không còn sức mạnh như xưa nhưng hắn vẫn là ông trùm của khu bến xe Chợ Cồn. Tôi chuẩn bị thi Tú tài, nên cũng ít gặp hắn, thỉnh thoảng lại đàn cho hắn hát Giọt mưa thu, giọng hắn lại buồn hơn.

********

Năm 1968, Mậu Thân, tôi đậu Tú tài hai, đi học xa nhà, đi ta bà thế giới, chẳng có dịp về lại cái xóm bến xe của một thời nên cũng không gặp hắn suốt cả mấy chục năm trời. Thời thế nhiều đổi thay, đời tôi cũng trải nhiều biến cố. Sau 1975, ba mẹ và các em tôi vào hết Sài Gòn, rồi lần lượt phân tán khắp nơi. Tôi chẳng còn ai ở Đà Nẵng nên cũng chẳng hẹn về nên chẳng biết tin tức gì về hắn.
Năm 1985, trong một dịp công tác, tôi trở về xóm cũ. Thay đổi nhiều, người cũ còn lơ thơ, toàn người mới đến. Hỏi thăm mới biết hắn đã đi Pháp theo diện con lai từ năm 1980. Mẹ hắn tự tử chết sau ngày hắn lên phi cơ đến Pháp. Bà tự tử bằng sái thuốc phiện với giấm thanh lấy ra từ cái bàn đèn lưu niên của ông bố dượng hắn. Tôi lại nhớ những miếng đậu khuôn dòn tan của bà, tôi lại nhớ cái nhan sắc rất Bắc của bà, một nhan sắc lầm lũi. Tôi nhớ đến lần đầu tiên tôi thấy bà mặc chiếc áo dài nhung đen với chuỗi hạt ngọc xanh nơi cổ và chiếc khăn quàng hững hờ trong một dịp Tết năm nào đó. Một hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam của một thời đã đi qua. Một hình ảnh rất đẹp đọng mãi trong đầu tôi. Đã nhiều lần tôi muốn vẽ một bức tranh như thế mà vẫn chưa vẽ được vì cái hồn cốt của nhân vật cũng chưa tìm lại được. Bây giờ bà đi xa rồi. Cầu mong bà yên nghỉ. Cũng xong một đời người.
Tôi cũng cầu xin bạn tôi, Alain Delai của tôi sẽ có một cuộc sống bình yên nơi quê nội, chắc là chúng ta sẽ chẳng có dịp để gặp nhau nữa rồi.


*******

Năm 2010, tôi trở lại nước Pháp để hoàn tất một số giấy tờ cho bản thân và gia đình. Chuyến đi dự trù ba tuần lễ, vì tôi nghĩ thủ tục hành chánh rất khó khăn, nhưng không ngờ chỉ trong một tuần lễ, mọi việc hoàn tất suông sẻ. Rảnh thì giờ, tôi đi lang thang.
Tôi đến lại những chốn xưa của một thời long đong và cô đơn ở xứ người. Có nhiều nơi chẳng chút đổi thay dù mấy chục năm đã trôi qua. Tôi đứng trên đồi Montmartre, một khu phố của Paris, quả đồi lớn thuộc Quận 18. Nơi đó là nơi tập trung của nhiều họa sĩ nổi tiếng, cộng với nhà thờ nhà thờ Sacré-Cœur, các con phố nhỏ, quán cà phê, nhà hàng... để nhớ những ngày lang thang vẽ chân dung cho du khách kiếm sống dưới những cánh tuyết mùa đông ẩm ướt.
Tôi tìm về khu Quartier Latin Quận 5 thành phố Paris. Nằm ở tả ngạn sông Seine, khu có nhiều trường đại học nồi tiếng thế giới. Ở đây còn có Điện Panthéon, cung điện Luxembourg trong vườn Luxembourg, Sorbonne, Bảo tàng Trung Cổ...

Nơi đây đầy khách du lịch bốn phương tụ về. Tôi đi bộ trên phố Huchette nằm cạnh sông Seine, hai bên đầu đại lộ Saint-Michel với các con phố nhỏ, lát đá.. khu này có rất nhiều nhà hàng, quán cà phê, cùng các quán bar và nhiều gallery nghệ thuật. Ngày xưa nghèo, đi ngang mà chẳng dám vô. Bây giờ có đủ tiền để làm thực khách thì đi một mình, cảm thấy buồn nên cũng chẳng muốn vào.

Lang thang mãi cũng chán, tôi đi khám phá các metro ở Paris. Métro Paris là một trong những biểu tượng của thủ đô nước Pháp, đặc trưng bởi mạng lưới các tuyến dày đặc, mật độ sử dụng cao và các bến tàu điện ngầm được trang trí theo phong cách Art nouveau. Tôi làm nghề mỹ thuật nên rất ham tham khảo và chiêm ngưỡng những công trình độc đáo này.

Các bến Métro Paris trang trí theo phong cách Art nouveau, được lựa chọn từ năm 1900. Ngay cả trong những lần tu sửa và mở rộng sau này phong cách đó vẫn được tôn trọng. Các vách và trần bến thông thường được lát bằng các viên gạch sành hình vuông hoặc chữ nhật nhỏ màu trắng. Một số bến được trang trí cầu kì hoặc có phong cách rất khác biệt.

Tôi ghé Bến Louvre-Rivoli tuyến 1 mang tên phố Rivoli và Bảo tàng Louvre vào buổi sáng, trời chưa có nắng. Bến được trang trí bằng những bản sao các tác phẩm nổi tiếng của Bảo tàng Louvre, trưng bày trong các hốc tường được chiếu sáng rất đẹp. Chán, tôi lại về Bến Arts et Métiers tuyến 11, vốn mang tên của Bảo tàng Kỹ nghệ Paris (Musée des arts et métiers), khu này toàn phú bằng những rãnh đồng chạy suốt.


Lại định ghé qua Bến Pont Neuf tuyến 7 đặt theo tên cây cầu Pont Neuf. Nằm gần La Monnaie de Paris, chỗ in tiền, nhưng không đến, ngồi nghỉ nhìn đám bồ câu bay.

Loanh quanh toàn thấy quảng cáo. Các tờ quảng cáo được dán trong các ô có viền trang trí và ký hiệu hãng khai thác.

Đang mỏi chân định nghỉ, nhưng rồi lại kêu taxi chạy lăng quăng. Trôi dạt về Gare du Nord. Rổi qua metro Crimée lúc nào không hay.

Không biết sao mình lại giạt về đây, bởi khu này lộn xộn lắm, dễ bị móc túi, người đi lại nhiều lại lắm ăn xin. Nhưng rồi lại tự nhủ, biết muôn mặt của metro Paris cũng là điều thú vị nên dù chân đã mỏi cũng gắng thêm một vòng. Người nườm nượp, ồn ào. Con đường dẫn xuống hầm chật chội. Hai bên có mấy người ăn xin, người đàn, kẻ hát, tiếng trống bập bùng. Một không khí lạ lùng và cũng độc đáo. Trời về chiều, sương xuống sớm, không khí hơi lành lạnh. Đã cuối đông rồi.

Tôi dừng chân, đốt điếu thuốc, khói thuốc tuôn mờ đục. Bỗng trong mớ âm thanh ồn ã ấy, tôi nghe loáng thoáng một giai điệu của bản nhạc Việt Nam. Thoang thoảng thôi, xa xa gần gần như sương khói. Nhưng chắc chắn là một bài hát Việt.
Tôi đi men theo tiếng hát và bắt gặp nột ông Tây già, râu ria lởm chởm, tóc phủ gáy ngồi trên chiếc xe lăn đưa hai chân cụt đến mỏm gối. Ông nhắm mắt hát say sưa bài Giọt mưa thu, hát đi rồi hát lại. Chiếc mũ trước mặt ông cũng có vài đồng tiền giấy và ít tiền xu. Nghe bài hát tôi hình dung ra hắn và tôi đoan chắc chắn là hắn chứ không ai khác. Chỉ có hắn, Alain Dalai mới hát Giọt mưa thu như thế, với giọng như thế và say sưa như thế. Tôi chạy nhanh đến bên lão và hét lớn Chào Alain Delai. Hắn hé mắt, ngập ngừng, nhìn rất lâu vào khuôn mặt tôi, rồi hắn cũng hét lớn Chào thằng em bô giai. Hai đứa tôi ôm nhau, cả hai đều khóc. Không ngờ còn được gặp nhau, mà lại gặp nhau giữa Paris khi tuồi đã già, thời gian chẳng còn bao nhiêu nữa.

Tôi bảo hắn kiếm gì ăn tối, hắn dẫn tôi vào một quán be bé trong con đường nhỏ lát đá với những hàng cây leo. Quán vắng, kêu mấy món ăn, hai chai bia lạnh, hắn kể một đoạn đời mình.
Hắn qua Pháp trong những đợt đầu tiên của chính phủ Pháp giải quyết con lai còn lại ở Việt Nam. Nhờ hắn có giấy khai sinh và một số giấy tờ chứng minh, hình ảnh khác nên nó nhờ các tổ chức xã hội tìm lại bố ruột một cách dễ dàng. Một năm sau khi đến Pháp, hắn được gặp bố. Bố hắn đã già, nhưng rất thương yêu hắn, đó là những ngày hạnh phúc nhất của đời hắn ở nước Pháp. Gia đình bố hắn ở Marseille. Đó là một thành phố cảng của nước Pháp, là thành phố lớn thứ hai của Pháp, sau Paris, và là vùng đô thị lớn thứ ba của Pháp. Hạnh phúc được hai năm thì bố hắn qua đời. Bố hắn có để lại di chúc, có phần thừa kế của hắn. Nhưng hắn lại không đọc được chữ Pháp, nên các anh chị em cùng cha khác mẹ của hắn bảo sao thì nó nghe vậy. Họ bảo nó không được hưởng thừa kế, không có quyền gì trong tài sản bố hắn để lại. Họ giao cho hắn mười ngàn quan, gọi là trợ cấp cho hắn để hắn ra đi. Thân cô thế cô, chữ nghĩa không biết, thân thể què cụt, hắn ngậm đắng nuốt cay, gạt nước mắt rời khỏi nhà làm kẻ lang thang, sống nhờ trợ cấp. Làm kẻ vagabond trôi giạt từ Marseille về đến Paris. Chờ ngày thành tro bụi giữa thành phố hoa lệ này. Mỗi ngày ngồi ở metro hay mấy quãng trường, hát Giọt mưa thu mấy chục năm rồi, để nhớ về mẹ hắn, để nhớ về Việt Nam, một chốn quê không còn chỗ để về.

Đêm đó, lúc chia tay, dù đã say khướt, bởi tôi có biết uống đâu, hai đứa tôi ôm nhau ở cửa quán ăn, tôi lè nhè Chào Alain Delai. Hắn siết vào vai tôi Chào thằng em bô giai. Tôi thấy vai mình ướt đẫm nước mắt. Tôi đẩy xe lăn của hắn một đoạn đường trong khi chờ taxi. Hai thằng già vừa đi vừa ngêu ngao bài Giọt mưa thu, tiếng hát hoà trong nước mắt. Những giọt mưa thu Việt Nam nhỏ xuống con phố nhỏ giữa khuya của Paris đang cuối đông. Lúc tôi leo vào taxi, hắn ngoái đầu lại, đưa tay lên và nói nhỏ Au revoir mon ami.

Hôm sau tôi trở lại Gare du Nord, không thấy bóng dáng hắn đâu. Tôi qua Gare de l’Est, một khu cũng lộn xộn không kém, cũng không thấy hắn. Hắn biến mất tăm. Những ngày còn lại ở Paris, tôi đi khắp nơi để tìm hắn, nhưng hắn đã biến mất như cây kim rơi vào đống sắt vụn. Biết đâu tìm.
Alain Delai! Với cái chân cụt đấy, bạn sẽ đi về đâu mà tìm không thấy?

Thôi thì cũng bắt chước hắn, tôi đến bên con đường lát đá có hàng dây leo tường vi, ngước nhìn lên trời và nói nhỏ Au revoir mon ami!

14.7.2010
Bastille Day
Lễ Quốc khánh Pháp

DODUYNGOC

__._,_.___

Posted by: Hank Music 

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List