Popular Posts

Tuesday, January 28, 2020

Bác sĩ gốc Việt mổ nội soi lần đầu tại San José.


( một gương tốt cho những người hiếu học .
   một vinh dự cho người Việt hải ngoại . )

----- Forwarded Message -----
From: Damien Vu
Sent: Monday, January 27, 2020, 10:10:00 PM CST
Subject: Fw: Bác sĩ Hoa Kỳ gốc Việt trình diễn điều khiển cho Robot trực tiếp mổ nội soi



----- Forwarded Message -----
From: But Ngo

Sent: Monday, January 27, 2020, 06:27:32 PM CST
Subject: Bác sĩ Hoa Kỳ gốc Việt trình diễn điều khiển cho Robot trực tiếp mổ nội soi


Bác sĩ gốc Việt mổ nội soi lần đầu tại San José.
 Cuộc trình diễn lịch sử . 
Lúc đó là 9 giờ sáng ngày 1 tháng 12 năm 2012 tại phòng giải phẫu của tổ hợp khoa học Seatle, buổi trình diễn bắt đầu.
Bác sĩ đảm trách ngồi vào ghế trước màn hình của máy điện toán. Mắt đeo kính, hai tay điều khiển cuộc giải phẫu bệnh nhân qua máy. Cách xa một khoảng, bệnh nhân nằm trên bàn giải phẫu và bắt đầu cuộc mổ nội soi do Robot thực hiện. Hai tay Robot hoạt động theo 2 cánh tay của bác sĩ trên máy điện toán. Bác sĩ mổ trên màn hình. Robot mổ thực sự trên thân thể bệnh nhân. Chỉ cần 1 lỗ soi duy nhất vào bụng. Qua lỗ soi này, một ống luồn vào trong người. Dó là máy quay phim xoay quanh toàn cảnh trong cơ thể. giúp cho bác sĩ nhìn thấy trên màn hình. Tiếp theo là 2 ống đem dao mổ và dụng cụ vào bụng cũng do lỗ soi đã mở đường.
  Hai ống này làm tất cả mọi công việc. Tìm tòi, cắt vá. Tất cả thao tác trong bụng bệnh nhận hiện trên màn hình, đơn giản và huyền diệu như chuyện thần tiên. Chỉ cần 1 lỗ thủng trên bụng, khối ung hay túi mật sạn chết người được tìm thấy, cắt bỏ đem ra ngoài.
   Tất cả đều do người máy làm và qua hai cánh tay của bác sĩ chuyển động trên máy điện toán.
   Trong buổi giải phẫu trình diễn này có 50 y sĩ giải phẫu đến tham dự để quan sát và học hỏi. Các phương tiện truyền thông lại đem đến hình ảnh cho hàng trăm bác sĩ giải phẫu khác trên toàn thế giới.
  Diễn giả
  Người ngồi vào ghế biểu diễn, vừa thuyết trình vừa giải phẫu là 1 bác sĩ Hoa kỳ gốc Việt. Bác sĩ Nguyễn Thế Triều Huy 50 tuổi, sinh quán Saigon. Đến Mỹ năm 13 tuổi, hiện đang làm việc tại San Jose.
    Bác sĩ Huy là một trong các bác sĩ giải phẫu bận rộn nhất Hoa Kỳ. Từ năm 1997 đến nay đã có trên 20,000 bệnh nhân và ông thực hiện khoảng 700 ca giải phẫu một năm. Trưởng thành tại quận Cam, ông tốt nghiệp bác sĩ tại Iowa. Qua học y khoa tại Kansas và nhận văn bằng bác sĩ Osteographic Medicine năm 1992. Giai đoạn cuối ông học về giải phẫu Laparoscopic tại Nữu Ước.
    Khoa học về ngành y tế đã đi những bước dài qua phương pháp mổ nội soi với 4 lỗ đưa các ống chuyên khoa vào bụng rồi tiến tới chỉ cần 1 lỗ. Bây giờ đến giai đoạn người y sĩ ngồi vào máy điều khiển cho Robot trực tiếp mổ nội soi 1 lỗ.
    Trên con đường thử nghiệm và áp dụng, bác sĩ Huy là một trong số ít hiếm hoi đã đi những bước tiên phong vì vậy nên ông đã được mời giảng dậy biểu diễn nhiều nơi tại Hoa Kỳ và ngay tại Việt Nam
  Lịch sử giải phẫu
    Từ thuở xa xưa, con người sơ khai nghĩ rằng bệnh tật do thần linh hay ma quỷ. Bệnh đến hay đi, còn hay mất là do thiên định. Tiếp theo loài người biết dùng thảo mộc điều trị theo kinh nghiệm. 300 năm trước công nguyên, vị thầy thuốc Hy Lạp là ông Hipprocrate tuyên bố bệnh là do cơ thể chứ không phải là‎ do siêu hình. Ông trở thành vị thánh tổ của y khoa. Nhưng thời của ông cũng chỉ cho bệnh nhân uống thuốc mà chưa đụng đến cơ thể.
    Một trăm năm sau tức khoảng 200 năm trước công nguyên vị bác sĩ Hy Lạp Galen mới bắt đầu giải phẫu loài vật để suy diễn mà chữa cho con người.
  Khoa mổ tử thi vào thế kỷ 10
     Nhưng phải mất 1000 năm kế tiếp y khoa mới bắt đầu mổ tử thi để học hỏi. Năm 1800 khi phát minh ra kính hiển vi các bác sĩ giải phẫu mới có phương tiện mổ banh ra để chữa bệnh. Khoa học với các phát minh của Edison, nhân loại có kính soi, với Hopkins có thấu kính. Rồi máy quay phim ra đời để đưa các hình ảnh cho y khoa nghiên cứu và chữa bệnh. Camera nhỏ bé trở thành phương tiện cho bác sĩ đi vào cơ thể bệnh nhân.
    Bây giờ đến lượt nội soi 4 lỗ, thu lại 1 lỗ rồi giai đoạn mới này dùng robot để giải phẫu nội soi 1 lỗ.
    Nhân loại đã tiến một bước thật dài với những phát minh trong ngành điện tử. Thử tưởng tượng trên trạm không gian hay trên con tàu thám hiểm Bắc Băng Dương, chúng ta có các nhà bác học bị đau ruột dư.
    Một bác sĩ ngồi trên máy điện toán tại Cali, với hai cánh tay vận chuyển sẽ điều khiển Robot trên phi thuyền hay trên Bắc băng dương để làm công việc giải phẫu rất nhẹ nhàng.
    Bác sĩ Nguyễn Thế Triều Huy đã góp phần vinh dự vào thành quả chung đáng ghi nhận khi nhân loại bước vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ 21.
    Trong một bài trước, tôi đã có dịp giới thiệu với quý vị cô gái Việt bên Úc châu là người phụ nữ của năm 2012.
    Lần này, ngay tại San Jose xin giới thiệu với quý vị bác sĩ Nguyễn Thế Triều Huy, người thanh niên Việt Nam của năm 2012.
  Nội soi robot, khoa giải phẫu của thế kỷ 21 
  Từ nhiều năm trước, bộ quốc phòng Hoa Kỳ đã cho nghiên cứu để dùng Robot đưa ra làm bác sĩ giải phẫu tiền tuyến. Ngành y tế công nghiệp liền theo ý kiến đó mà phát triển. Bác sĩ Huy đã từ lâu theo đuổi con đường giải phẫu nội soi. Dường như có khiếu thiên bẩm, khéo tay và có tinh thần khai phá, ông đã bắt kịp các đàn anh trong lãnh vực giải phẫu nội soi và không những thế ông vượt lên trên.
    Với sự kết hợp của khoa điện toán, màn hình, máy quay phim, Robot, bác sĩ giải phẫu Nguyễn Thế Triều Huy sử dụng hai bàn tay chuyên nghiệp và đã thành công trong công việc giải phẫu bằng Robot.
    Sẵn có rất nhiều bệnh nhân tin tưởng, ông có cơ hội thử nghiệm trực tiếp qua Robot lần đầu tiên tại San Jose và trải qua ít nhất là 5 ca đầu trót lọt. Từ đó bác sĩ Huy có các cuộc giải phẫu biểu diễn nhiều nơi tại Hoa Kỳ. Mấy năm trước cùng với phái đoàn y tế Mỹ ông đã về thuyết giảng về nội soi tại Hà Nội, Saigon và Cần Thơ. Rời Việt Nam 13 tuổi, sau đó lại thêm nhiều năm theo học y khoa, Việt ngữ của ông đã chẳng còn bao nhiêu. Thời gian làm việc với bệnh nhân Việt tại San Jose đã là dịp ông học lại Việt ngữ. Do đó qua bài giảng về khoa giải phẫu tân tiến nhất của thế kỷ 21 tại Việt Nam, ông đã chinh phục được cử tọa.
    Các bác sĩ giải phẫu trẻ tuổi của Việt Nam thuộc thế hệ sau cuộc chiến đã hết sức xúc động được học hỏi về khoa nội soi từ một bác sĩ danh tiếng tại Hoa Kỳ trực tiếp giảng bằng Việt ngữ.
    Trong khi nói về trách nhiệm của người bác sĩ, ông luôn luôn đưa vào ‎y khoa thêm ‎ý niệm về tự do, dân chủ. Ông tránh không bao giờ nói đến thành phố Hồ Chí Minh. Luôn luôn chỉ nói đến Saigon, thành phố thân yêu mà ông đã lớn lên, bên cạnh cái bóng vĩ đại của người cha mũ đỏ là trung tá Nguyễn Thế Thứ. Các học viên đều là bác sĩ giải phẫu, thành phần trí thức của Việt Nam tương lai yên lặng ngồi nghe. Dường như công việc diễn tiến hòa bình để làm thay đổi tư duy con người xã hội chủ nghĩa cũng đang đi qua con đường nội soi.
  Anh em nhà Nguyễn.
    Trung tá nhẩy dù Nguyễn Thế Thứ quê Nam Định, vào Đà Lạt khóa Cương Quyết II 1954 và cùng gia đình di tản qua Mỹ 1975. Ở lớp tuổi 40 không nghề nghiệp, ông đi học lại từ đầu. Đậu bằng tương đương trung học, qua đại học rồi tốt nghiệp bác sĩ chỉnh hình. Sau ông lấy thêm tiến sĩ về khoa dinh dưỡng.
    Gương hiếu học và lòng quyết tâm của ông đã mở đường cho các con. Cô gái lớn hiện là bác sĩ chỉnh hình tại Nam Cali. Cô tốt nghiệp cả tiến sĩ luật khoa. Ba con trai đều tốt nghiệp bác sĩ giải phẫu hiện ở San Jose. Cậu út Nguyễn Thế Phan Daniel cũng vừa tốt nghiệp luật khoa, chưa quyết dịnh sẽ đi đâu. Riêng 3 anh em họ Nguyễn là Nguyễn Thế Triều Huy, Nguyễn Thế Thiện Năng và Nguyễn Thế Long Richard thành lập tổ hợp Advanced Surgical Associates đồng thời là thành viên nòng cốt của bệnh viện Regional Medical Center tại San Jose.
    Hiện tượng 3 anh em họ Nguyễn cùng làm việc một chỗ chung một ngành và phát triển theo tinh thần huynh đệ thực sự đã gây ngạc nhiên của cộng đồng y khoa tại địa phương, và là niềm hãnh diện của gia đình họ Nguyễn.
    Bác sĩ Nguyễn Thế Triều Huy cũng thú nhận là dù đã học đến nơi đến chốn nhưng khi mới ra trường về San Jose tìm việc làm cũng không gặp may mắn... Đó là giai đọan thử thách lớn lao của ông. Hoàn toàn mới mẻ, không quen biết, chưa được tin cậy nên chưa có thân chủ. Không có các bác sĩ điều trị gửi bệnh nhân tới. Lại áp dụng khoa giải phẫu chưa quen thuộc với y giới. Ngay các bác sĩ giải phẫu tại bệnh viện cũng không đón nhận. Đó là thời gian khá cay đắng và lại rảnh rỗi. Còn bây giờ thì đã quá thành công. Mổ mát tay, nhanh, gọn, không đau đớn, không kéo dài, vết mổ không mất thẩm mỹ, nên làm việc không kịp thở. Anh mở đường đưa em về cộng tác, rồi lại thêm một em nữa. Ngoài lãnh vực giải phẫu nội soi đã được ABC quay thành phim, bác sĩ Huy còn tìm cách áp dụng phương pháp xạ trị chống ung thư từ bên trong. Xạ trị vốn là giai đoạn hết sức vất vả của bệnh nhân ung thư. Nay áp dụng được từ bên trong, thời gian xạ trị ngắn hơn.
    Sau cùng bác sĩ Huy nói: “Điều quan trọng nhất vẫn là lời cảm ơn thân chủ và đồng nghiệp đã tín nhiệm.”
   Thân chủ và đồng nghiệp của cả ba anh em bao gồm cả nhiều sắc dân... Cô Thùy Nga, vợ của bác sĩ Huy hiện là quản trị viên của tổ hợp cho biết thân chủ Việt tuy đông đảo nhưng cũng chỉ có 40%. Còn lại là tất cả các sắc dân khác, Mễ cũng rất nhiều.
  ****
    Gặp các bác sĩ anh em nhà Nguyễn, dù chúng tôi coi như con cháu nhưng cũng tế nhị không hỏi là động lực chính thúc đẩy việc học hỏi và làm việc thì vì tiền bạc hay danh vọng. Không hỏi con nhưng tôi đem câu hỏi đến người cha là bác sĩ Nguyễn Thế Thứ,vừa là bạn học võ bị vừa là chiến hữu.
    Anh Thứ nói thật tình: Tụi nó làm như thế là vừa có tiếng vừa có tiền. Nhưng nếu nói chúng nó chỉ vì tiền và chỉ vì tiếng thì khó nói. Thực sự mấy đứa này thuộc về loại say mê công việc. Anh xem chương trình khám khám mổ mổ của chúng nó liên tiếp dường như không còn thì giờ để hưởng tiền bạc và danh tiếng. Chúng nó không có thì giờ để dành cho cuộc sống của người bình thường. Trước đây tôi và nhà tôi khuyên các con cố học.Tốt nghiệp rồi đi làm. Rồi chúng tôi phải khuyên các cháu làm bớt đi. Nhưng tôi biết rõ, các cháu có nỗ lực thầm kín ganh đua để dành cho niềm kiêu hãnh Việt Nam. Nhà tôi lúc còn sống hết sức hãnh diện vì các con. Bà muốn sống để thấy cháu út ra trường, nhưng không kịp. Bây giờ nhà tôi mất rồi. Chẳng có ai để chia xẻ niềm hãnh diện các cháu thành công. Tôi chỉ còn chờ thôi.
Anh chờ cái gì.
    Tôi sẽ trở về Sóc Trăng. Nơi tôi gặp nhà tôi vào thời kỳ 50. Khoảng 60 năm trước. Anh biết đấy, nhà tôi gốc Hà Nội, vào Nam từ nhỏ. Nội trú trường nhà trắng Sóc Trăng, tôi đóng quân ở Bãi Xầu. Gặp nhau rồi cưới nhau ở Sài Gòn. Bằng bác sĩ của tôi ở Mỹ là công một nửa của vợ. Đám con 5 đứa tốt nghiệp, tất cả bằng cấp nào cũng là một nửa của nhà tôi. Tiền bạc và danh vọng ở tuổi mình không còn nghĩa lý gì. Mình cũng chẳng còn gì để khuyên bảo các con. Chúng nó chỉ nhìn mình sẽ ra đi để mà suy ngẫm về cuộc sống.
    Tôi đem câu chuyện của hai bạn già hỏi bác sĩ Huy.
    Ba cháu nói nửa bằng cấp là của mẹ, cháu nghĩ sao.
    Huy nói: Ba con nói không đúng. Tất cả là của mẹ hết.
Bằng cấp nào cũng là của mẹ.


__._,_.___

Posted by: Hank Music 

Saturday, January 25, 2020

ÐẠO ÔNG BÀ


Fra: Trung Tin LY
Date: tor. 23. jan. 2020 kl. 20:04
Subject: [Nuoc_VIET] Vv GIOI THIEU MOT TON GIAO LAU DOI NHAT TAI VN.

 
Lời Toà Soạn TCDV : Bài nầy đã được đăng trên Tạp Chí Dân Văn khi tác giả nhận lời cộng tác từ số báo đầu tiên qua sự giới thiệu của cố GS Vũ Ký. Vì ông là người miền Trung nên có một số chữ đã viết sai «hỏi ngã», toà soạn đã «hiệu đính» tô màu đỏ.
Theo quan điểm của TCDV, thì Đạo Ông Bà là một tôn giáo lâu đời nhất tại Việt Nam và đạo Phật Giáo Hoà Hảo là đạo Phật của người Việt do chính người Việt sáng lập.
Theo các tăng sĩ, những người theo đạo Phật từ Án Độ truyền vào VN gồm Nam Tông và Bắc Tông, đã quy y mới được coi là Phật Tử. Có người viết, 80% dân chúng theo đạo Phật là không đúng sự thật, viết như vậy rất khiên cưỡng không có tài liệu chứng minh.
Hầu hết người dân Việt từ Nam chí Bắc theo đạo Ông Bà được mô tả trong bài viết này trước khi các tôn giáo khác du nhập vào Việt Nam.
-------------------


ÐẠO ÔNG BÀ

                                                       Ðạo Ông Bà:
                                               - một Tín ngưỡng không Tôn giáo
                                      - một Siêu thuyết của dân tộc Việt Nam.                                                                                
                                                                                           Nguyễn Thùy

Lâu nay, nói đến ‘Ðạo Ông Bà’, ta thường nghĩ đấy là việc ‘Thờ cúng Tổ Tiên’ và hàng năm, vào Tết Nguyên Ðán thường có ‘Lễ Gia Tiên’ được xem là cách thức thể hiện ‘Ðạo Ông Bà’ hầu khắp cả nước trong lúc việc ‘giỗ cúng Ông Bà, Cha Mẹ’ tại mỗi nhà thuộc từng gia đình vào từng thơi gian khác nhau theo ngày tháng qua đời của ông bà, cha mẹ.
Vì quan niệm đơn giản là ‘thờ cúng tổ tiên’ nên Ðạo Ông Bà thường đồng nghĩa với ‘Ðạo Hiếu’ nơi Khổng giáo và cho rằng người VN đã tiếp thu qua Khổng giáo. Thực ra, Ðạo Ông Bà đã bao gồm Ðạo Hiếu nầy, lại còn kết hợp Hiếu với Thảo thành ‘Ðạo Hiếu Thảo’. Ðạo Hiếu của Khổng giáo hầu như không mấy nói đến Thảo. ‘Thảo’, theo người viết, có nghĩa ‘nhường nhịn, san sẻ, bù đắp cho nhau’ chứ không ganh tỵ, ích kỷ, tranh giành, giữ riêng cho mình. Như thế, ‘thảo’ chỉ cách đối xử, liên hệ giữa con cái, anh chị em luôn yêu thương, hòa thuận, tương nhượng, giúp đỡ nhau; điều nầy càng nâng chữ Hiếu lên một bậc vì khiến cha mẹ, ông bà vui lòng thấy con cháu luôn thuận hòa, gắn bó, yêu thương, không khí gia đình được vui vẻ, ấm cúng. Có lẽ, do ý nầy nên người Việt Nam ta thường gọi chung là ‘Ðạo Hiếu Thảo’ chứ không riêng chỉ có Hiếu (Hán Việt tự điển của Nguyễn Văn Khôn không có từ ‘Thảo’ hiểu theo ý vừa nói).
Do hiểu ‘Ðạo Ông Bà’ riêng theo nghĩa Ðạo Hiếu nên người Tây Phương thường gọi ‘Ðạo Ông Bà’ là ‘Le Culte des Ancêtres’ (sự thờ cúng Tổ Tiên). Nếu chỉ ‘thờ cúng Tổ Tiên’ không thôi thì chưa thể gọi là Ðạo và dân tộc nào cũng có tục ‘thờ cúng tổ tiên’ như VN ta dù hình thức có khác. Người phương Tây tuy không có bàn thờ ông bà trong nhà, không tổ chức cúng vái, mâm cỗ, nhang đèn, không tụ họp gia đình, không mời bà con thân thích trong ngày giỗ cúng nhưng có ngày ‘Fête des Morts’ (lễ Chư Thánh tức lễ Toussain) và họ thăm viếng nghĩa trang, tu bổ mồ mả; lại có những ‘Fête des Mères, Fête des Pères, Fête des Amoureux (ngày Valentin) ngay lúc Cha mẹ, Vợ chồng còn sống và trao nhau tặng vật. Ðấy là những tục lệ hay đẹp; riêng về sự tưởng nhớ ông bà trong ngày ‘tưởng niệm người chết’ không lắm tính cách long trọng, thiêng liêng như ở Việt Nam. Vì thế sự ‘tưởng niệm ông bà’ của người phương Tây là một mỹ tục chứ không trở thành một ‘đạo’ như đối với người Việt chúng ta (riêng đối  các anh hùng, chiến binh hy sinh vì Tổ quốc, lễ tưởng niệm  được xem là ‘quốc lễ’, được tổ chức long trọng, qui mô).
         
Người viết nghĩ rằng ‘Ðạo Ông Bà’ của người VN mang nhiều ý nghĩa cao đẹp hơn ngoài việc ‘nhớ ơn và thờ phụng’.
1/- Trước tiên, ta gọi là ‘Ðạo Ông Bà’. Từ Ðạo vừa là Ðạo lý vừa là con đường. ‘Ðạo lý’ vì nói lên nguyên lý hướng dẫn tư duy và hành động cùng thái độ cư xử của con người trong cuộc sống cộng đồng (môi trường xã hội). ‘Con đường’ vì những nguyên lý đó đưa dẫn con người hướng đến, tìm về một thứ gì đó tốt đẹp, cao sâu, huyền nhiệm để cuộc sống thường nhật của từng người và của cả cộng đồng mang lấy một ý nghĩa cao quí huớng đến một  cứu cánh nào đó..
Từ Ðạo nơi Ðạo Ông Bà không hẳn giống với từ Ðạo nơi các Tôn giáo như Ðạo Phật, Ðạo Chúa,…Từ Ðạo nơi các Tôn giáo, theo người viết, đề cập đến uyên nguyên sinh thành của vạn hữu [thuyết Sáng tạo hay Tạo dựng, người viết gọi cái uyên nguyên đó là Ðạo Thể (Être)] đuợc gọi bằng một danh xưng nào đó (Phạm thiên, Ðấng Tối linh=Brhaman), Thượng Ðế, Thể Chân Như, Vô, Thái cực,..) cùng vận hành của uyên nguyên đó nơi cõi tại thế để đưa tất cả trở về lại với cái uyên nguyên ban đầu, nói theo Ðạo học là ‘từ Một trở về với Một’. Sự công nhận có một uyên nguyên sinh thành vũ trụ cùng một nguyên lý phổ quát chi phối, điều hướng vạn hữu trở về với Ðạo Thể thoạt tiên có thể xem phát xuất từ một ‘tín ngưỡng’, một Ðức Tin hoặc từ một giả định của Lý trí thuần lý, chỉ có thể công nhận hay không công nhận chứ không thể biện giải, lý luận. Ðể quảng bá tín ngưỡng hay Ðức tin đó vào quần chúng, con người tiến đến thiết lập nên Tôn giáo bao gồm việc thờ phụng một Giáo chủ  cùng những tín lý, tín điều được nêu thành qui điều, nguyên tắc, định chế, giáo luật, giới răn, giới cấm, những nghi lễ nhất định phải theo và được khuôn ép vào một hệ thống lý luận cùng sinh hoạt trong một tổ chức (giáo hội) thực hành theo từng tôn giáo. Từ Ðạo nơi Ðạo Ông Bà không có những tính cách đó. Ðạo Ông Bà thoạt tiên chỉ là một tín ngưỡng (niềm tin và sự ngưỡng vọng về niềm tin đó) chứ không là tín lý, tín điều vì không có những nguyên tắc, giới luật, giới răn, giới cấm, những nghi lễ nhất định, không tuân thủ theo một hệ thống tri thức rao giảng cùng hành động thực hiện nhất loạt thống nhất, không tổ chức thành giáo hội, không có giáo chủ, không có hàng ngũ đóng vai trò chỉ đạo, dẫn dắt, không có nơi  thờ phượng nhất định như nhà chùa, nhà thờ, không có kinh kệ, không có truyền giảng cũng chẳng nhằm giáo huấn theo lối trường ốc. Dù có mở rộng sự biết ơn và thờ cúng ông bà đến cả dòng họ (những từ đường) hay đến các danh nhân, liệt sĩ bỏ mình vì Tổ quốc hay vì một lý tưởng cao cả (những đền thờ, đình miêu) thì cũng không ra ngoài tính cách tín ngưỡng chứ không là tôn giáo. Ðạo Ông Bà nặng về tình cảm hơn là tín lý, tín điều. Do đó, có thể nói ‘Ðạo Ông Bà của dân tộc VN là một tín nguỡng không tôn giáo’ hay nói cách khác Ðạo Ông Bà tiêu biểu cho tinh thần tôn giáo của dân tộc VN, một tôn giáo không kinh kệ, khôn giáo luật, giáo quy, không hệ thống, không truyền giảng, không hệ thống tổ chức và cũng không nhất thiết phải cần thiết tuân theo một lễ nghi nhất định nào. Ðạo Ông Bà thể hiện nơi tấm lòng, nơi tâm khảm, nhiều khi không cần thiết một lễ nghi và cũng không nhất thiết phải thật đúng vào ngày qua đời của ông bà, cha mẹ. Một nén huơng, một chén nước, một nhớ tưởng bất kỳ lúc nào trong tâm tưởng dù còn trong gia đình hay tha hương nơi kiều địa cũng là một thể hiện Ðạo Ông Bà nơi mình. Nhà thơ Phương Triều khi thuật lại cảnh một ông già sống lay lất nơi Xóm Mộ, một nghĩa trang nhỏ bất đắc dĩ vùng quê ông sau cuộc ‘đổi đời’ bi thảm do Cộng sản phủ trùm lên nhân dân Miền Nam từ sau 30/04/75, đã thực hiện Ðạo Ông Bà trong hiu hắt, buồn đau não nùng trong ngày Tết :
                                          …Nghĩa địa góc quen chiều chợt Tết
                                              Ông già mở lại gói đời quên                (1)
                                              Bên kia chân mộ còn vuông đất

                                              Lót lá làm mâm đón tổ tiên…

Vì là ‘Tín ngưỡng không tôn giáo’ nên dân tộc ta dễ dàng dung hợp với bao tôn giáo du nhập: Phật, Khổng, Lão, Ki-Tô giáo vì các Tôn giáo nầy cũng luôn khuyên ta thờ cha, kính mẹ, hòa thuận với anh chị em, bạn bè.

2/- Ta gọi Ðạo Ông Bà chứ không gọi là Ðạo Tổ Tiên. Tổ Tiên hoàn toàn chỉ tiền nhân, lớp người quá cố. Ông Bà, hai từ thuần Việt vừa chỉ nguời đã qua đời mà còn chỉ ông bà, cha mẹ hiện còn sống với con cháu, rể dâu, chắt chít trước tiên cùng huyết thống, dòng họ, rồi mở rộng đến những người khác dòng họ với mình (bên nội, bên ngoại của con cháu, dâu rể,…). Người viết đã từng gặp  nhiều gia đình VN hội đủ cả bốn năm thế hệ nối tiếp, tất cả còn tại thế từ ông bà cố đến chắt, chít nội ngoại. Chắc hẳn nhiều gia đình như thế nhất là với những người tuổi thọ đến tám chín mươi hoặc hơn nữa. Một điều cũng nên để ý là Ðạo Ông Bà không chỉ nhằm tưởng niệm những người cao tuổi đã qua đời mà còn tưởng niệm những người còn trẻ, còn bé không may qua đời trước mình như cha mẹ tưởng niệm con cháu, vợ chồng giỗ chồng, giỗ vợ, anh chị em tưởng niệm anh chị, các em không may chết trước mình, nói lên lòng nhớ nhung, thương tiếc. Trong ý nghĩa nầy, Ðạo Ông Bà nói lên mối liên tục lịch sử của cuộc sống chung, sợi dây liên đới nối kết bao thế hệ quá khứ với thế hệ hiện tại cùng mối liên hệ giũa những lớp người còn sống; mối liên hệ không chỉ vì tình thương huyết thống, dòng họ mà còn cả về công nghiệp, về thành quả dựng xây được lưu truyền và tiếp tục được kế thừa qua lịch sử.  Ca dao VN có câu : «Non cao ai đắp mà cao, Sông sâu ai xới ai đào mà sâu». Non kia, sông nọ, nơi đây trong ý nghĩa gần gũi, chỉ đất nước, non sông do công nghiệp lâu dài, bền bỉ của bao đời tích tụ đến hôm nay, không chỉ về mặt vật chất mà còn là cái truyền thống văn hóa đã gìn giữ cuộc sống chung hài hòa, tốt đẹp lưu truyền từ quá khứ mà nay ta được thụ hưởng. Tất cả đều là di sản của tiền nhân, của ông bà, bao trùm lên tất cả là cái nguồn gốc xa xưa từ khởi thủy của giống nòi. Ðạo Ông Bà biểu hiện tấm lòng biết ơn, quí trọng cùng trách nhiệm, bổn phận và ý chí gìn giữ, kế thừa cùng phát huy cái di sản tốt đẹp đó. Ðiều nầy không do một quyền lực, một nền pháp chế nào áp đặt mà trước tiên xuất phát từ cái ‘não bộ đạo tâm’ (sensorum religieux), một ‘nguyên lý nội tại’ (principe interne), một yếu tố hay tính chất bẩm sinh nơi con người (2) gìn giữ mối liên hệ giữa người chết và người sống, giữa mọi người đang cùng sống với nhau trong gia đình,  dòng họ, trên quê hương, tổ quốc. Ðiều nầy có thể xem như một ‘di truyền tâm linh’ giữa các thế hệ theo quan điểm Vật linh (animisme) . Từ một tín ngưỡng, Ðạo Ông Bà trở thành một tập quán, một thuần phong, mỹ tục, một truyền thống văn hóa đuợc thực hiện hàng ngày của mỗi người con dân đất nước. Có dâng hương, có vái lạy, có dâng lễ vật cho ông bà, không phải để ông bà được uống, được xơi mà là hình thức xem ông bà như ‘như tại’, có nghĩa đang cùng có mặt với mình, đang sống cùng với mình.
(Ghi thêm của Tạp Chí Dân Văn, trích từ bản GIA PHẢ hơn 600 năm của giòng họ LÊ, tại làng Bài Trượng, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông, quý bạn đọc muốn xem bản Gia Phả này, liên lạc Mr. LE, email: danvanmagazin@gmail.com)
“Trong cuộc đời của từng người có những điều “huyền diệu” xảy ra mà người thường  không lý giải  được, đời tôi những điều “kỳ bí” đã “ứng nghiệm” trong câu chuyện vượt biên ngay tại Thủ Đô Saigon, tôi đã thuật chi tiết rõ ràng điều “huyền bí” này trong đoản văn CÂU CHUYỆN VƯỢT BIỂN TỪ THỦ ĐÔ SAIGON, tôi tin tưởng tuyệt đối vào sự linh thiêng của người cô ruột, chết lúc còn trẻ, người cô này đã hiển linh, thường về giúp con cháu lúc hoạn nạn, từ lúc tôi có căn nhà đầu tiên, được phép ra ở riêng, tôi đã lập bài vị cô tôi để thờ cúng cùng với tổ tiên, ông bà, nhiều lần cô đã hiển hiện để con cháu biết, trong chuyện vượt biển đem cả gia đình ra đi, nếu không có người cô linh thiêng này thì 2 lần trở về, tôi đã bị bọn Việt cộng bắt giữ rồi. Đây không phải là chuyện dị đoan, hoang đường mà là sự huyền bí linh diệu của mỗi giòng tộc, khoa học không làm sao giải thích được. Bố tôi là một nhà Nho nhưng Ông không bao giờ tin những chuyện nhảm nhí, bói toán vớ vẩn, luôn luôn bài bác mê tín dị đoan, ông cũng chưa từng đi chuà chiền, thánh thất, trong nhà chỉ thiết lập bàn thờ Tổ Tiên, Ông Bà, từ thuở xa xưa, không có Hình Chụp mà chỉ có BÀI VỊ viết bằng Hán Tự để trên Ban Thờ mà thôi. Việc cúng giỗ cũng được dạy dỗ cho con cháu truyền từ thế hệ này đến thế hệ  sau, một giòng họ lớn như một cây cổ thụ hàng trăm năm, cành lá xum xuê, mỗi cành là một chi, có bao nhiêu cành là họ đó có bấy nhiêu chi, nhiều đời sau, anh em con cháu không còn nhận ra nhau, nên tổ tiên, ông bà mới đặt ra “lệ” có một ngày GIỖ TỔ của giòng họ, như họ Lê nhà tôi, cứ đến ngày Giỗ Tổ, bất kể con cháu đi làm ăn xa cũng phải trở về quê quán dự Lễ Giỗ Tổ, nhờ buổi Giỗ Tổ này mà con cháu anh em gặp mặt nhau, duy trì sự gắn bó thiêng liêng người cùng một Họ, biết người chi trên chi dưới kéo dài biết bao nhiêu thế hệ, việc thiết lập “cỗ bàn” là để con cháu còn sống tụ tập về đây ăn uống, chứ tổ tiên ông bà đã tịch, thì người đã chết làm sao ăn uống được, những người không am tường Đạo Ông Bà nên thường có những ý nghĩ mang tính cách “miệt thị”, là mê tín dị đoan, tôi được dạy dỗ, chỉ cần một ly nước tinh khiết đặt trên Ban Thờ, còn Cỗ Bàn làm nhiều làm ít tùy theo số con cháu mỗi năm về họp mặt nhân ngày Giỗ hàng năm, trong ngày giỗ này, ai còn nhớ được điều gì về người quá cố, thì kể cho con cháu còn sống được biết, để cùng nhau tưởng nhớ về người đã khuất. Theo sự suy đoán của tôi, thì Đạo Ông Bà đã có từ cả ngàn năm trước, bằng chứng là các làng mạc miền Bắc đều có các ngôi đền, rất hiếm hoi họa hoằn mới có làng có ngôi chùa dù rằng sử sách ghi lại có những đời Vua sùng bái Đạo Phật.” 

3/- Ðạo Ông Bà thể hiện hướng vọng về Nguồn của dân tộc VN. Ta nên để  ý đến hai từ thuần Việt ’Ông’ và ‘Bà’. Hai từ nầy chỉ hai giới tính Nam và Nữ, theo Nho giáo là hai yếu tố Dương và Âm, cặp Lưỡng Nhất đã tác động nhau qua thời gian, sinh thành vạn hữu tức vũ trụ hiện tượng. Vậy, với hai từ Ông Bà, Ðạo Ông Bà, theo người viết, đã mặc nhiên nói đến cái Cội Nguồn làm phát sinh vạn hữu, trong đó có con người cùng tâm thức luôn hướng về Cội Nguồn của dân tộc. Hướng vọng về Nguồn tức tìm về với Nguồn Cội. Nguồn Cội (Origine) trong ý nghĩa gần gũi nhất chỉ Ông bà Tiên tổ đã xây dựng nên dòng họ mình. Xa hơn chút, Nguồn Cội là tổ tiên lâu đời đã sáng dựng nên Dân tộc, Quốc gia, ta thường gọi là Quốc Tổ. Xa hơn nữa và rộng sâu hơn nữa, Nguồn Cội chỉ cái Bình minh sơ thủy do một yếu tố tiên thiên, nguyên khởi đã sinh thành vũ trụ gồm vạn hữu và con người. Cái yếu tố uyên nguyên được gọi theo nhiều danh xưng, dựa theo Ðạo học, người viết gọi là Ðạo Thể (Être), cái Hữu Thể nền tảng, cái Một nguyên khởi đã tự tác động mình, tự sắc tướng hóa mình , tự đối tượng hóa mình (nói theo triết học), tự vật chất hóa mình (se matéaraliser, nói theo khoa học) để làm phát sinh vũ trụ hiện tượng rồi chuyển dịch theo diễn trình biến hóa và tiến hóa của cõi hiện tượng để phục hồi lại mình cùng đưa vạn hữu trở về hội nhập với mình. đấy là điều Ðạo học đã nói ‘từ Một trở về với Một’. Khoa học ngày nay đang trên đường khám phá cái Nguồn Cội đó qua những giả định một Siêu lực (super force), Siêu Sợi (super Corde), một Năng lượng Chân không (énergie du Vide) qua một số lý thuyết, đặc biệt là thuyết Vật Lý Lượng Tử (physique quantique) cùng tìm ra một Lý thuyết toàn bộ (théorie du Tout) giải thích được hết sự hình thành cùng diễn biến của vạn hữu. Sự trở về với  Nguồn Cội, theo thiển ý người viết, đã được nói đến qua lời đức Phật và Chúa Jésus. Phật Thích Ca bảo ‘Hồi đầu thị ngạn, Ðáo bỉ ngạn’ ‘Bờ bên nầy, Bờ bên kia’ ; Chúa Jésus nói ‘Ta là alpha và oméga, là đầu và rốt’ (từ Ta trong câu nầy chỉ Ðức Chúa Trời tức cái Ðạo Thể nguyên sơ). ‘Bờ bên nầy, Bờ bên kia’ ‘anpha, oméga’ trong giáo lý của hai Ngài ám chỉ hành trình dịch chuyển của Ðạo Thể từ Khởi thủy đến Chung cục tức từ Một trở về trong Một.  Ðiều ít được nói đến là Cái Ðạo Thể, khi tự tác động mình để tạo nên vạn hữu, không đứng yên một chỗ hay biến mất mà luôn dịch chuyển về tương lai để đón chờ vạn hữu trở lại với mình. M.Heidegger đã viết ‘Bình minh của quá khứ trong ngày tới của tương lai’ (le jadis de l’aurore dans le futur de l‘avenir) và trong thiên cảo luận ‘Con dường điền dã’ đã viết : ‘Bỡi tiếng gọi từ một nguyên sơ thăm thẳm một miền cố quận được hoàn trả lại cho chúng ta’ (Par l’appel en une lointaine Origine, une terre natale nous est rendue – M.Heidegger : ‘Der Feldweg, bản dịch tiếng Pháp ‘Le Chemin de Campagne’ của  André Préau, xem ‘Questions III, Gall. 1966, trang 15). Rõ hơn, M.Heidegger dùng ẩn dụ ‘Tổ quốc - Kiều địa - Cố hương’ để nói lên điều nầy. (người VN chúng ta tỵ nạn chính trị đã phải  rời bỏ Tổ quốc đến lưu cư nơi xứ lạ (kiều dịa) luôn mong chờ ngày trở lại với cố hương). Cái lộ trình ‘từ Một trở về với Một’ của Ðạo Thể được xem là Chương trình của Thượng Ðế (đạo thể) định ra dòng vận hành tiến hóa của vạn hữu, trước tiên là của nhân sinh nơi vũ trụ hiện tượng nầy (3).
Người VN ta, từ xưa, qua ca dao, dân ca, cũng như thơ ca ngày nay, luôn nhắc đến từ ‘Quê’ (quê hương, quê cha, quê mẹ, quê nội, quê ngoại, quê cha, quê mẹ, quê anh, quê chị, quê em) thân thương, có thể, theo nguời viêt, phần nào cũng nằm trong ý đó.

4/- Cũng do hai từ thuần Việt ‘Ông, Bà’, Ðạo Ông Bà còn nói lên cách đối xử giữa người với người trong hiện tại và về sau. Trong cuộc sống hằng ngày, gặp ai, nói với ai, viết thư cho ai, ta thường bảo ‘thưa Ông, thưa Bà’ , ngoại trừ trong gia đình và căn cứ trên niên kỷ thấp cao, ta dùng những ‘đại danh xưng’ khác trong lúc xưng hô (cha, mẹ, ông bà nội ngoại, Cụ, Bác, Chú, Cô Dì, anh, chị, con, em…) hoặc căn cứ vào chức vụ, cấp bực, địa vị xã hội (Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Giám đốc, Thiếu tướng, Ðại úy,…Bác sĩ, Kỹ sư, Giáo sư, Luật sư, Tiến sĩ,..) nhưng dù gọi với bất cứ danh xưng nào thì cũng là ‘ông’ và ‘bà’ tùy theo đối tượng  thuộc giới tính nào. Do đó, hai từ ‘ông, bà’ nói lên mối tương giao, tương hệ thường ngày giữa mọi người trong xã hội. Giữ mối tương giao đó êm đẹp thì cuộc sống chung của cộng đồng diễn ra vui vẻ, bình an. Nhất là trong gia đình, dòng họ, giữ được mối tương giao đó hòa thuận, thân ái, gắn bó trong thương yêu, đùm bọc, tôn trọng nhau thì tổ tiên, ông bà đang còn sống hay đã qua đời sẽ rất vui lòng, sung sướng. Vì thế, Ðạo Ông Bà không chỉ nói đến đạo Hiếu của con cháu mà còn nói lên đạo Thảo không riêng của con cái, anh chị em mà còn mở rộng đến mọi người trong xã hội. Thường ngày, ta nghĩ Ðạo Ông Bà chỉ là tập quán, một mỹ tục chứ ít để ý đến ý nghĩa cao xa tiềm ẩn nơi hai từ ‘Ông, Bà’.
Với những tính chất trên: tín ngưỡng không tôn giáo, liên tục lịch sử giữa các thế hệ, huớng vọng về nguồn và thực hiện ngay trong hiện tại mối tương giao thuận hảo giữa người và người, ta có thể nói ‘Ðạo Ông Bà’ chính là ‘Ðạo Sống’ vừa tâm linh vừa thực tiễn của con người.

5/- Về mặt Tri thức luận, Ðạo Ông Bà có thể xem là một Siêu thuyết của dân tộc Việt Nam ta. ‘Siêu thuyết’ (métathéorie) theo nghĩa Toán học như định nghĩa trong Grand Larousse universel : ‘Siêu thuyết của một lý thuyết diễn dịch nghiên cứu những ý niệm không mâu thuẫn, tự thân túc lý và độc lập của những công lý’ (‘La métathéorie d’une théorie déductive étudie notamment les concepts de non contradiction, de complétude et d’indépendance des axiomes’ – Axiome=công lý, theo nghĩa triết học là ‘chân lý không thể chứng minh’ nhưng hiển nhiên đối với ai hiểu được chân lý đó’  hoặc ‘mệnh đề được nhìn nhận bởi tất cả mọi người, không cần bàn cãi’ (vérité indémontrable mais évidente par quiconque  en comprend le sens – proposition admise par tout le monde sans discussion- theo Dictionnaire Le Petit Robert và Dictionnaire Hachette) - Từ một Công lý, người ta suy diễn ra những mệnh đề khác gọi là ‘định lý’ (théorème) trong Toán học). Với bốn tính chất được kể trên, ta thấy Ðạo Ông Bà của dân tộc chúng ta là ‘hiển nhiên’ (vì phát xuất từ não bộ đạo tâm), tự thân không mâu thuẫn và cũng không mâu thuẫn với một hệ thống lý thuyết hay chân lý nào khác, tự thân túc lý (tự thân trọn vẹn ý nghĩa) và độc lập có nghĩa không phải suy luận từ một định đề (postulat) hay định lý nào khác.

Trên đây là những đóng góp của người viết nhằm chứng minh một tinh hoa truyền thống Văn hóa dân tộc chúng ta. Ước mong bạn đọc và các bậc thức giả (các nhà Dân tộc học, Triết gia, Sử gia, Xã hội học,…) chỉ giáo cho người viết những điểm còn thiếu sót hoặc có tính cách cường điệu, hay ‘đại ngôn’, ngoa ngôn.
Nguyễn Thùy.
_________
Chú thích :
1) Ðoạn thơ trích trong thi tập ‘Xóm Mộ’ (nxb Lê Huỳnh, Minnesota, USA 2001). ‘Gói đời quên’: ông già luôn mang theo bên mình một bọc trong đó có bài vị và tấm hình cha mẹ. Gói đời tha thiết nầy đành phải quên vì chế độ Cộng Sản buộc không được nhớ ông bà cha mẹ mà chỉ nhớ ơn Ðảng, Bác và Nhà nước Cộng sản thôi.
2) Xin xem ‘Về Nguồn’, tác phẩm của Giáo sư Vũ Ký, Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Phật giáo VN, Cộng Hòa Liên Bang Ðức xuất bản năm  2002 ; chương 1 : ‘Lễ Gia Tiên’, trang 13 đến trang 28.
3) Lộ trình ‘từ Một dẫn về Một’ đuợc nói nơi Ðạo học, nhất nơi lời Ðức Thích Ca và Chúa Jésus dù hai Ngài chưa nói thật rõ ràng theo cách lập ngôn ngày nay. Sự phát minh ra Internet cùng máy Ðiện toán càng lúc càng tinh vi sẽ đưa đến một ‘tri thức toàn cầu’ (connaissance planétaire), một trí năng chung của tất cả mọi người, (intelligence collective, universelle),một ‘webitude’ (từ của nhà triết học Derrick de Kerckhove) tức một tri thức mạng (intelligence des réseaux) vì tri thức mọi người được kết hợp (connecté) lại với nhau qua Internet, từ đó nhận ra một ‘thế giới ảo’ (monde virtuel), ảo nhưng lại thực hữu (có thể là thế giới phi hiện tuợng’) trong lúc cái ‘thế giới hiện tượng’ (monde phénoménal) mà ta cho là ‘thực’ (réel) thực ra là ‘giả hữu’, giả huyễn (lời Phật) vì là sản phẩm của cái thế giới ảo kia. Trong tác phẩm ‘Le Phénomène humain’, linh mục và là nhà Cổ Sinh vật học (paléontologue) P. Teilhard de Chardin hầu như báo biểu sự ra đời của Internet khi đề cập đến thời điểm Oméga (point Oméga) cùng cảnh giới Noosphère (tạm dịch Sinh quyển) tức cảnh giới của ý tưởng (nonos, từ Hy  Lạp, có nghĩa là ý tưởng) phần nào, theo người viết, tương đồng với cái thế giới ý niệm (monde des Idées) của Platon.. Cái ‘ý quyển’ đó là cảnh giới ‘sống lại’ (la survie) của loài người, một cảnh giới, theo người viết không còn bị chi phối bởi không gian, thời gian, bởi qui luật Nhân Duyên sanh (thuyết Nhân Quả), cảnh giới ‘phi hiện tượng’, cảnh giới Niết Bàn Hữu Dư hay Vô Dư (theo Phật giáo) , cảnh giới ‘huyền đồng’ theo Lão giáo, cảnh giới Nước Thiên Ðàng theo Ki-Tô giáo [xem: ‘La Société du Savoir’ nơi tạp chí ‘Sciences humaines’, hors série, tháng 3,4,5 năm 2001, phần : ‘Pierre Teilhard de Chardin aurait-il anticipé l’émergence d’une pennsée universelle dont internet serait devenu le support ?’ (bài của Jean Francois Dortier)] Người viết không biết gì về khoa học nên chỉ xin trích dẫn một số tài liệu khoa học rồi thêm đôi suy nghĩ của mình.

(Ðề tài nầy được thuyết trình tại Dallas Fort Worth (Texas) nhân ngày Hội Ngộ Ðồng Hương Quảng Ðà năm 2003. Sau đó, Luật sư Nguyễn Tâm có mời người viết thuyết trình lại tại nhà riêng của Luật sư tại San José với số khách được mời trên 50 vị, trong đó có Cụ Hà Thượng Nhân.) 

-------------------------  

Nên biết để thực hiện cho đúng.


Ý NGHĨA CỦA LẠY
-        Tạp Chí Dân Văn phổ biến.

 Theo Ông Lạp Chúc Nguyên Huy, ý nghĩa của lạy như sau:

-       Bốn lạy để cúng người quá cố như tổ tiên, thánh  thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông, tây, nam, bắc), tứ tượng (thái dương, thiếu dương, thái âm, thiếu âm).

-       Lạy người sống chỉ lạy hai lạy như trong trường hợp cô dâu chú rễ lạy cha mẹ. 

-       Phúng điếu, thăm viếng người chết ta chỉ lạy hai lạy vì người chết vẫn còn ở dương thế; nhưng sau khi chôn phải lạy bốn lạy vì người chết đã về âm cảnh.  Hai lạy tượng trưng cho âm dương tức là sự sống.

-       Khi đi lễ Phật ta lạy ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, Tăng.

-       Ngày xưa người ta lạy vua năm lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa và thổ);  vua tượng trưng cho Trung Cung là hành thổ màu vàng đứng ở giữa.

Chúng ta là con dân nước Việt, có bổn phận phải thiết lập bàn thờ Tổ Tiên trong mỗi gia đình để duy trì truyền thống văn hóa Việt, dù ta theo tôn giáo nào cũng vậy; có như thế con cháu chúng ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập bàn thờ tổ tiên, ý nghĩa của việc cúng tổ tiên. Đó là cách nhớ ơn tổ tiên, bày tỏ lòng thương và hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ.

Chúng ta cũng cần duy trì cách "sá" nhau trong khi chào hỏi (có nhớ hồi con chúng ta còn nhỏ, lúc một, hai tuổi, ta hay dạy chúng "sá").  Đây cũng là đặc tính văn hóa trong cách chào hỏi của người Việt chúng ta.

Người ta quý trọng mình ở chỗ mình có duy trì được văn hóa đặc thù của mình.
----------------------------------  
--
************************************
DIỄN ĐÀN PHỤNG SỰ XÃ HỘI
************************************

ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG


ĐỨC PHẬT
DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG 
Toàn Không
I). DƯỢC SƯ LƯU LY
QUANG LÀ PHẬT NÀO? 
   Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đi giáo hóa đến thành Quảng Nghiêm, Bồ Tát Văn Thù Sư Lị cung thỉnh Ngài nói về chư Phật, nên Ngài nói Kinh Dược Sư. Trong Kinh, Ngài cho biết về phương Đông cách cõi Ta Bà chúng ta hằng sa vô số cõi Phật, có một thế giới gọi là “Lưu Ly Tịnh”. Ở cõi ấy đất nước toàn bằng ngọc lưu ly một màu thanh tịnh, nhà cửa chăng đầy dây vàng, mạng lưới bằng bảy thứ qúy (thất bảo) là vàng, bạc, ngọc, lưu ly, xích châu, mã não, xà cừ; đất nước ấy không có sự ác, không có ác thú, trang nghiêm vô kể. 
   Hiện nay có Đức Phật hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai đang giáo hóa chúng sinh tại đó, trong cõi nước Lưu Ly Tịnh có hai vi đại Bồ Tát thượng thủ là Bồ Tát Nhật Quang Biến Chiếu, và Bồ Tát Nguyệt Quang Biến Chiếu. Hai vị phụ tá Phật Dược Sư giáo hóa vô lượng Bồ Tát, chúng sinh, và sẽ lần lượt kế vị Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai sau này. 
2). MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN:
   Khi Dược Sư Lưu Ly Quang còn hành đạo Bồ Tát, Ngài đã phát 12 đại nguyện khiến loài hữu tình cầu gì cũng được như sau: 
1. NGUYỆN LỚN THỨ NHẤT:
     Khi ta đắc đạo Vô thượng, thân ta cực sáng soi khắp vô lượng thế giới, dùng ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân, khiến cho các loài hữu tình đều được thân như ta. 
02. NGUYỆN LỚN THỨ HAI:
     Khi ta đắc qủa Bồ Đề, thân ta như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt không tỳ vết, quang minh rộng lớn, công đức cao vời vợi. Thân ở trong lưới tia sáng do thân phát ra, sáng hơn cả mặt trời mặt trăng, ánh sáng chiếu vào chúng sinh đều vui vẻ và được mọi sự như

03. NGUYỆN LỚN THỨ BA:
     Khi ta thành Chính đẳng Chính giác, ta dùng trí huệ khiến loài hữu tình đều được lợi lạc thụ dụng, và đầy đủ trí tuệ. 
04. NGUYỆN LỚN THỨ TƯ:
     Nếu có chúng sinh nào mê tín tu hành tà đạo, ta làm cho hồi tỉnh, biết quay đầu về với chính đạo. 
05. NGUYỆN LỚN THỨ NĂM:
     Nếu có vô lượng hữu tình tu hành phạm hạnh (tu giới hạnh) trong pháp của ta, thảy đều được giới chẳng thiếu, được tam tụ (luật nghi, thiện pháp, lợi ích chúng sinh); nếu ai phạm giới, niệm danh hiệu ta đều được tịnh giới. 
06. NGUYỆN LỚN THỨ SÁU:
     Nếu loài hữu tình thân thể hèn kém, chẳng đủ các căn, xấu xa, ngu ngốc, mù điếc ngọng câm, chân tay què quặt, lưng còng khập khiễng, hóa hủi hóa điên, bao nhiêu tật khổ, niệm tên ta rồi đều được toại ý, sáng suốt, không còn phiền não. 
07. NGUYỆN LỚN THỨ BẢY:
     Nếu loài hữu tình mắc đủ thứ bệnh, khổ não muôn phần, không chỗ nương thân, không thầy không thuốc, nếu niệm danh hiệu ta mọi bệnh đều lui, tiêu diệt không còn, thân tâm yên vui rồi tu hành đắc đạo Bồ đề. 
08. NGUYỆN LỚN THỨ TÁM:
     Nếu thân nữ mặt mũi xấu xa, không ưa thân nữ, trăm nỗi bức bách, muôn phần chán ngán; niệm danh hiệu ta, hết làm thân nữ chuyển thành nam rồi tu hành đắc đạo Vô thượng.
09. NGUYỆN LỚN THỨ CHÍN:
     Những hữu tình sa vào lưới ma ngoại đạo ác kiến, ta sẽ dắt ra khỏi rừng ác, dẫn vào chính kiến mà tu hạnh Bồ Tát thành Vô thượng Bồ Đề.
10. NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI:
     Những hữu tình vi phạm luật lệ bị bắt giữ giam cầm, hành hạ đánh đập, xử tử mất mạng, lo sầu buồn khổ, nếu niệm danh hiệu ta, do sức oai thần phúc đức của ta thảy đều được giải thoát khỏi khổ. 
11. NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI MỘT:
     Những loài hữu tình bị đói khổ bức bách, không có một miếng mà ăn, nên tạo nghiệp dữ, nếu nghe tên ta niệm danh hiệu ta, sẽ được no đủ, sau được ăn pháp vị mà được yên vui. 
12. NGUYỆN LỚN THỨ MƯỜI HAI:
     Những loài hữu tình nghèo khổ, không đủ áo mặc, thiếu thốn đủ thứ, ở đường ở bụi, muỗi mòng bức rét khổ sở muôn bề,. khi nghe tên ta trì niệm danh hiệu ta sẽ được no đủ yên vui.
3). ĐỨC PHẬT NÓI KINH DƯỢC SƯ:
(Còn tiếp)

ĐỨC PHẬT
DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG 
Toàn Không
(Tiếp theo)
3). ĐỨC PHẬT NÓI KINH DƯỢC SƯ: 
   Những thiện nam tử, thiện nữ nhân có tín tâm, nên phát nguyện sinh sang thế giới của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang. Ngài nói tiếp:
   Có những chúng sinh chỉ ôm lòng tham keo, chẳng biết qủa báo tốt của bố thí, vì ngu si không có tín căn, tích chứa của cải; khi có người xin, tâm họ khó chịu, khi bất đắc dĩ phải bố thí coi như bị cắt thịt họ ra nên rất là buồn tiếc. Lại có kẻ tham lam keo sẻn đến ngay thân họ cũng không dám tiêu dùng huống chi cho cha mẹ vợ con tôi tớ người nghèo v.v…
     Những chúng sanh ấy khi chết đi sinh làm Ngạ qủy, bàng sinh (như con cua) đi ngang; nhưng vì thuở xưa ở đời từng nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nên trong khi ở trong loài ấy tạm nhớ danh hiệu Ngài. Ngay phút nhớ nghĩ liền ra khỏi loài ấy trở lại làm người sợ khổ ác thú chẳng dám ham dục lạc, thích làm bố thí, khen ngợi người bố thí; có gì cho nấy không giữ, cho đến thân mạng cũng không tiếc. 
    Có loài hữu tình phá giới phá luật, có kẻ giữ giới giữ luật nhưng lại có tà kiến (không tin qủa báo, luân hồi …), có kẻ có chính kiến lại không chịu học nên chẳng hiểu nghĩa Kinh. Có kẻ đa văn, học rộng nghe nhiều, lại hay kiêu mạn, khen mình chê người, phỉ báng chính pháp, làm bạn với ma đi vào tà kiến, còn làm cho bao nhiêu người xuống hố sâu, nên phải trôi quanh Địa ngục, Ngạ qủy, Súc sinh. Những người này nếu được nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như lai, bỏ ác làm lành, chẳng đọa chỗ dữ, vì sức thần của Phật. Vì thế nên bỏ ngã mạn, không chê chính pháp, học hỏi để hiểu nghĩa sâu xa, tu tập vẹn toàn hạnh Bồ Tát. 
   Những người làm ác, tham sẻn ghen ghét, khen mình chê người phải đọa trong đường ác, mãn hạn sinh lại thế gian làm thân trâu ngựa thường phải mang nặng, bị đánh đập bức bách, hoặc được làm người nơi nghèo khổ. Nếu xưa đã được nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như lai, nay nhớ lại dốc lòng quy y cung kính, mọi căn được thông lợi, đa văn trí tuệ, dứt hẳn lưới ma, sạch hết phiền não, giải thoát hết thảy sinh già bệnh chết. 
   Những người ngang ngược thích ưa kiện cáo, làm cho náo loạn cả thân miệng ý thường làm nghiệp dữ mưu hại lẫn nhau, lại dùng bùa dùng ngải hại người hại vật; nếu nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bỏ ác làm lành, ác kia đều chẳng thể hại, được an vui tốt đẹp. 
   Khi đắc Vô thượng Bồ Đề, do bản nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang soi thấy các loài hữu tình mắc vô lượng bệnh khổ, muốn cho bệnh kia tiêu trừ nên Ngài vào Đại định diệt khổ, ở trong Đại định rồi trên nhục kế đỉnh đầu phóng đại Quang minh diễn nói thần chú Đà la Ni rằng: 
Nam mô bạc già phạt đế, bệ sái xã, lũ rô bệ lưu ly, bát lạt bà, hát ra xà giã, đát tha yết đa giã, a ra hát đế, sam miểu sam bột đà gia, đát điệt tha, án bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, sam một yết đế sa ha”. 
   Trong Quang minh nói Thần Chú rồi, trái đất chấn động, phóng đại quang minh, hết thảy chúng sinh bệnh khổ đều trừ, được an vui yên ổn. 
   Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhân muốn cứu người bệnh mười phần chết chín, hãy tắm gội sạch sẽ, đánh răng  xúc miệng, tụng Chú nêu trên 108 lần vào thức ăn thuốc uống hoặc nước sạch cho người đó ăn uống, làm nhiều lần mỗi ngày trong nhiều ngày, tất sẽ khỏi bệnh, lại còn được sống lâu không bệnh, sau khi mệnh chung được ngôi bất thoái cho đến khi đắc đạo Bồ Đề. Bởi vậy, thiện nam tín nữ nên thường trì chú Đà La Ni và cúng dường Phật Dược Sư Lưu Ly Quang. 
   Nếu có người siêng năng cung kính cúng dường Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chính Đẳng Chính Giác, hương hoa tụng trì trai giới sớm tối, tâm thanh tịnh không vẩn đục, không giận dữ não hại. Đối với các loài: khởi tâm lợi ích yên vui, từ bi hỉ xả bình đẳng; lại phổ biến giảng thuyết cho người Kinh Dược Sư, như vậy muốn cầu gì cũng được thỏa mãn. 
   Người có điềm gở xuất hiện, hoặc loạn đao binh, nước, lửa, thiên tai, thú dữ, độc trùng v.v…, nếu dốc lòng trì niệm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mọi sự dữ đều qua khỏi. 
   Người hủy phạm giới, nếu chuyên niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, quyết chẳng sinh vào đường ác. 
   Người nữ, sinh nở khó khăn, đau đớn muôn phần, hết lòng niệm danh hiệu, tán thán cung kính cúng dàng Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, mọi đau đớn khó khăn giảm đi tiêu mất, lại sinh con khôi ngô tuấn tú thông minh. 
   Nói rồi, Đức Phật Thích Ca hỏi Tôn giả A Nan là Thị giả của Ngài rằng: “Ta đã khen ngợi về chỗ sâu xa của chư Phật như thế, ông có tin không?” Tôn giả thưa: “Đối với Kinh Phật đã nói, con chẳng dám nghi. Vì ba nghiệp thân miệng ý của Chư Phật thảy đều thanh tịnh, núi có thể đổ, chứ lời Chư Phật nói, không thể nói khác được. 
   Thưa Đức Thế Tôn, có những chúng sinh nghĩ rằng:Làm gì chỉ niệm danh hiệu Dược Sư Như Lai mà được nhiều công đức đến thế, vì chẳng tin sinh ra phỉ báng, người đó ở chỗ đêm dài tối mịt mù, mất hết lợi lạc, đọa đường ác chuyển mãi không cùng tận””. 
   Đức Phật dạy:
   “Những loài hữu tình nếu dốc lòng trì niệm danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lâu dài chẳng sinh nghi ngờ sẽ không khi nào phải đọa vào cõi dữ; làm được thân người đã là khó rồi, biết kính tin Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) còn khó hơn, tin nghe danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lại càng khó hơn nữa”. 
CƯỚC CHÚ: Đức Phật trước khi thuyết Kinh này, Ngài bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ”. Do đó nếu người đọc Kinh này, không suy nghĩ kỹ, lại hiểu tất cả theo nghĩa đen thì sẽ rơi vào MÊ TÍN mà không hay biết. Hy vọng nếu có dịp, chúng tôi sẽ trình bày những lời giải nghĩa Kinh này để cống hiến đến độc giả. 
4). BỒ TÁT NÓI NGHĨA PHẬT THUYẾT:
 (Còn tiếp)

ĐỨC PHẬT
DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG 
Toàn Không
(Tiếp theo)
4). BỒ TÁT NÓI NGHĨA PHẬT THUYẾT: 
   Bấy giờ Bồ Tát Cứu Thoát lễ rồi thưa Phật: “Ở thời tượng pháp sau này, chúng sinh bị hoạn nạn ốm đau gầy mòn, thân thể nhão mềm chỉ còn da bọc xương, cử động không nổi, cái chết gần kề, cha mẹ anh em thân thuộc xúm quanh khóc than. Người ấy vẫn nằm mà thấy Qủy, sứ giả của Diêm vương dẫn mình (thần thức) đến trước Diêm vương tra hỏi, thần thức khai hết đủ cả không thiếu việc chi, theo đó xử đoán. Lúc đó những người thân thuộc người bệnh nếu biết quy y Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chuyên tụng niệm Kinh Dược Sư, thì thần thức có thể trở về tự thấy rõ ràng như trong mộng tỉnh lại như thế, tự nhớ biết các việc thiện báo ác báo. Từ đó về sau  không dám làm việc ác cho đến mãn đời, vì thế cho nên, thiện nam tín nữ nên trì niệm danh hiệu Đức Dược Sư, tùy sức mà cung kính cúng dàng Ngài”. 
   Tôn giả A Nan hỏi Bồ Tát Cứu Thoát: “Thưa Ngài, thiện nam tử thiện nữ nhân cung kính như thế nào?” 
   Bồ Tát trả lời: “Thưa Đại đức, nếu có người đau ốm muốn thoát khỏi bệnh khổ, các người thân thuộc nên vì người ấy, giữ đủ tám phần trai giới (không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không nằm ngồi giường ghế cao sang, không trang điểm coi hát, phải ăn chay không qúa giờ ngọ), trong 7 ngày 7 đêm. Mỗi ngày đêm sáu lần lễ bái cung kính cúng dàng Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; đọc Kinh Dược Sư 49 lần cả thảy, thắp 49 đèn trước 7 hình tượng Phật Dược Sư Lưu Ly Quang (mỗi hình 7 đèn), với lá phướn dài 49 gang tay  trong suốt 49 ngày đèn không tắt. Lại phải phóng sinh 49 loài khác nhau, thì có thể qua tai ách khỏi bị chết uổng. 
   Lại nữa, những nạn nhân dân bệnh dịch chết vô số, nước khác lấn bức, trong nước phản nghịch, mưa gió trái mùa đến mùa chẳng mưa, thiên tai bão lụt liên miên, dân khổ trăm bề. Người đứng đầu đất nước khởi tâm từ bi tha người tù tội, phóng sinh 49 loài, giữ tám phần trai giới trong bảy ngày, cung kính cúng dàng bảy ngày Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Nhờ bản nguyện của Ngài khiến cho cả nước tai họa nhẹ đi, yên ổn. Mưa thuận gió hòa, đồng ruộng tốt tươi, nhân dân no ấm vui mừng, mà người đứng đầu được sống lâu mạnh khỏe tự tại an vui”. 
   Lúc ấy, Tôn giả A Nan lại hỏi: “Thưa Ngài, tại sao mạng đã hết lại có thể tăng thêm được?”. Bồ Tát Cứu Thoát đáp: “Thưa Đại đức, Ngài chẳng nghe Đức Như Lai nói chín thứ chết uổng sao, như có người bệnh tuy nhẹ nhưng không thầy không thuốc, không người trông nom, hoặc gặp thầy cho trái thuốc, không đáng chết mà phải chết uổng. 
   Lại người tin thầy tà nói nhảm sinh sợ hãi chẳng được yên tâm, xem bói nói gở, giết hại chúng sinh để cúng vái ma qủy ban cho ước muốn, mong muốn sống thêm vẫn chẳng thể được, ngu si mê tín thành ra chết uổng. 
   Những kẻ phạm pháp bị tử hình, những kẻ săn bắn rượu chè qúa độ chết uổng một đời. 
   Kẻ chết cháy, người chết đuối, chết vì bị ác thú cắn ăn, chết vì từ trên cao ngã té xuống, vì trúng độc, tai nạn, bão tố, lũ lụt, đói rét v.v… đều là chết uổng cả. 
   Còn những kẻ giết cha me, phá hoại Tam Bảo, phá luật nước, tội rất nặng nề. 
   Tất cả, nếu biết sám hối rồi, dựng đàn tràng cung kính cúng dàng Dược Sư Như Lai và làm các việc phóng sinh, bố thí như đã nói sẽ được tai qua nạn khỏi, tội kia ắt trừ”. 
5). 12 THẦN DƯỢC XOA NGUYỆN: 
   Khi ấy, có mười hai vị Đại Tướng Thần Dược Xoa gồm: Cung Tì La, Phạt Chiết La, Mê Sí La, An Để La, Át Nễ La, San Để La, Nhân Đạt La, Ba Di La, Ma Hổ La, Chân Đạt La, Chiêu Đổ La, Tỳ Yết La, (Xin xem Kinh Dược Sư), mỗi vị có bảy nghìn Dược Xoa, đồng loạt phát nguyện trước Phật Thích Ca rằng: “Thưa Đức Thế Tôn, chúng con nhờ uy lực của Thế Tôn mới được biết như thế. Chúng con và quyến thuộc xin nguyện trước đức Thế Tôn sẽ hộ trì người tụng niệm Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Chỉ cần người đó lấy chỉ năm màu kết thành tên của chúng con, được toại nguyện rồi sau mới cởi ra”. 
   Bấy giờ Đức Phật Thích Ca khen: “Hay lắm! hay lắm! Các Đại Tướng, các ông và các đoàn tùy tùng của các ông vì nhớ báo ân Phật Dược Sư Lưu Ly Quang thường nên cứ làm như thế từ nay cho mãi về sau cho được lợi ích yên vui hết thảy hữu tình”. 
   Và Ngài cho Tôn giả A Nan biết tên Kinh vừa nói xong là “Công đức bản nguyện của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, cũng gọi là “Pháp nói Thần Chú kết nguyện của 12 vị Thần Tướng lợi ích cho hữu tình”, cũng gọi là “Pháp trừ nghiệp chướng”.,. 

__._,_.___

Posted by: Tien Do 
__._,_.___

Posted by: Tien Do
__._,_.___

Posted by: Tien Do 

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List