Popular Posts

Wednesday, April 24, 2019

Ai cũng biết 2 USD là đồng tiền may mắn, nhưng bạn thật sự đã hiểu lý do vì sao chưa?



Subject:  Tiền 2 USD – Đồng tiền may mắn.



Ai cũng biết 2 USD là đồng tiền may mắn, nhưng bạn thật sự đã hiểu lý do vì sao chưa?

See the source image

See the source image

See the source image



            Nhiều người thường có thói quen cất tờ 2 USD trong ví, và không bao giờ lấy ra tiêu xài, vì nghĩ chúng sẽ mang lại may mắn cho mình.

            Vì sao 2 USD được xem là đồng tiền may mắn? Có bao giờ bạn tự đặt câu hỏi này chưa? Dưới đây là câu trả lời.
            Ở nhiều nơi trên thế giới, người ta thường giữ tờ 2 USD trong ví như một cách mang theo may mắn bên người. Ở Việt Nam cũng vậy, vào dịp Năm Mới, không ít người cũng có thói quen lì xì nhau những tờ 2 USD. Vậy vì sao không phải 1 USD hay 5 USD, người ta lại thích những tờ 2 USD, đặc biệt là những tờ được sản xuất vào năm 1976 cho đến vậy?

Tờ 2 USD được xem là tờ tiền may mắn. (Ảnh: Nghê Nhỏ).

            Thực chất, quan niệm tờ 2 USD đem lại may mắn lại bắt nguồn từ một sự kiện không may mắn chút nào. Vào năm 1976, một vụ thảm hoạ máy bay đã xảy ra tại Mỹ, tất cả những hành khách trên chuyến bay đó đều thiệt mạng, duy nhất một người đàn ông giữ lại được mạng sống của mình.
            Khi tìm thấy người đàn ông này, giai thoại kể lại rằng: Trên người ông chẳng còn gì ngoài một tờ 2 đô la đã nhàu nát. Là người duy nhất sống sót, tờ tiền này lại là thứ duy nhất gắn liền với ông, người ta cho rằng chính đồng 2 đô la này là “lá bùa” may mắn, cứu ông thoát khỏi thảm kịch, và sống sót khỏi lưỡi hái tử thần một cách thần kỳ.

Một tai nạn máy bay đã xảy ra và duy nhất chỉ 1 người sống sót. (Ảnh chỉ mang tính biểu tượng).

            Đó là lý do vì sao tờ 2 đô la lại được xem là sự may mắn mà nhiều người hay mang theo bên người. Đặc biệt, những tờ tiền được sản xuất vào năm 1976 chính là những đồng 2 đô la may mắn nhất, và được săn lùng nhiều nhất.

Những tờ được sản xuất vào năm 1976 được xem là may mắn nhất.

            Giờ thì bạn đã biết nguồn gốc của sự may mắn của tờ 2 đô la rồi đấy. Bạn có giữ tờ nào trong ví tiền không? Chúng có mang lại may mắn cho bạn như người ta hay quan niệm?

See the source image





            Ý nghĩa của tờ tiền 2 usd bạn đã biết?

            Tiền 2 usd – đồng tiền hiếm và quý nhất thế giới.

            - Mặc dù là một đồng tiền có mệnh giá thấp, đồng 2 dollars - 2 USD là một trong những đồng tiền hiếm gặp nhất ở Mỹ. Chúng hầu như không còn xuất hiện trong lưu thông hàng ngày. Ý nghĩ về đồng 2 dollar - 2 USD như một đồng tiền hiếm có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu là do mức sản xuất đồng tiền này tại Mỹ rất thấp, chỉ khoảng 1% trong tổng số các tờ tiền được sản xuất tại đây.Ngày nay, tờ 2 USD - 2 dollar được in rất hạn chế và không thường xuyên được in lại theo số series mới như các đồng tiền khác. Đồng tiền này được in theo nhu cầu. Khi hệ thống ngân hàng của Cục Dự trữ Liên bang nhận thấy lượng cung về tờ 2 đô la -  2 dollar quá ít thì các ngân hàng sẽ đề xuất yêu cầu Cục in ấn in thêm. Tuy nhiên, nhu cầu về đồng 2 dollar thường ít đến nỗi nhiều năm người ta mới phải in một lần. Cho đến nay thì tờ tiền 2 USD chỉ được in ấn trong một số năm: 1917, 1918, 1928, 1953, 1963, 1995, 1976, 2003 và 2009. Năm 2009 là thời điểm in đồng 2 đô la cuối cùng tính đến thời điểm hiện tại với số lượng “ nhỏ giọt” và chỉ 12 Tiểu bang trong tổng số 50 Tiểu bang của Mỹ được phép in tờ tiền này.

            - Theo lẽ thường thì những thứ càng cổ càng hiếm lại càng quý giá, mặt khác một số người ngộ nhận rằng: Tờ tiền 2 USD may mắn không còn được lưu hành chính thức nên lặn lội sưu tầm cho bằng được. Trên thực tế đồng tiền này vẫn được coi là một tờ tiền chính thức, nhưng cả người Mỹ và người ngoại quốc đều coi đây là một kỷ vật để họ lưu giữ, và tặng nhau do những ý nghĩa tiếp theo của nó.

                                    Tờ tiền 2 USD 1976 1 trong những tờ tiền may mắn nhất.



                                                                        Tiền 2 USD – Đồng tiền may mắn.

            - May mắn là một khái niệm trừu tượng nhưng bất kể ai cũng muốn nó luôn luôn bên mình. Xuất phát từ những câu chuyện những quan niệm riêng mà không chỉ người Mỹ, công dân các quốc gia khác cũng coi đây là một đồng tiền mang lại sự may mắn, thành thông , thuận buồm xuôi gió trong cuộc sống khi mang tờ tiền may mắn này.

            - Câu chuyện về đồng 2 USD năm 1976: Năm 1976 tại Mỹ xảy ra một vụ tai nạn máy bay nghiêm trọng, mọi người trong chuyến bay đều thiệt mạng, chỉ có một người đàn ông duy nhất sống sót. Giai thoại kể rằng khi cứu được ông người ta thấy trên người ông còn duy nhất một đồng 2 USD, và họ cho rằng chính đồng 2 USD này đã mang lại may mắn cho ông khi đối diện với tử thần. Đồng 2 USD năm 1976 vì thế mà được xem là đồng 2 USD may mắn nhất.

            - Những đồng 2 USD thuộc các năm khác cũng có những dấu hiệu tương tự: 2 USD năm 1917,1928 được quan niệm càng cổ càng may mắn gấp bội, 2 USD năm 1963 in dấu mộc đỏ- biểu tượng của may mắn.

            Quan niệm phương Đông: Người phương Đông xem xét sự vật ở khía cạnh tâm linh thường dựa vào phong thủy. Trong bài “ Chọn tiền may mắn theo phong thủy” chúng tôi có giải thích ý nghĩa của từng con số trong phong thủy, trong đó số 2 là tượng trưng cho sự “có đôi – có cặp” sự hài hòa về mặt âm dương, nên là cội nguồn của vạn vật trong vũ trụ. Ảnh hưởng từ quan niệm của Mỹ, dựa vào ý nghĩa phong thủy, ý nghĩa của 2 USD không chỉ tồn tại trong quan niệm của giới chơi tiền, mà còn có sự lan tỏa tới các Doanh nhân lớn nhỏ, các bà các chị...

See the source image

                                                2 USD- Biểu tượng cho sức mạnh và quyền lực.

            - Mặc dù ý nghĩa này có một chút “võ đoán” nhưng so với các đồng UDS khác, tờ 2 USD còn hấp dẫn ở chỗ: Đây là tờ tiền duy nhất mà mặt sau của nó có in hình Tổng thống và 42 vị quan chức cao cấp  nhất của nước Mỹ, khi ký cùng nhau ký vào bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Mỹ năm 1774. Những con người xuất chúng và tài cao điển hình nhất chốn nghị trường trên toàn thế giới. Khác với những ý nghĩa trên, ý nghĩa của biểu tượng này không mang tính quy ước , nó phụ thuộc vào mong muốn của người sở hữu: Quyền lực, sức mạnh, ý chí, sự ảnh hưởng, thuận buồm xuôi gió...

            - Mặt sau của tờ 2 USD là hình ảnh ngày Độc lập của Mỹ 04/07/1774, có mặt Tổng thống và 41 vị quan chức

See the source image

            Kết: Không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của đồng 2 USD trong những năm gần đây, ngoài xuất xứ ra thì những ý nghĩa của đồng tiền này là một nguyên nhân lớn khiến nhiều người Việt chọn tiền Mỹ để lì xì người thân trong dịp Năm Mới.


            - Không có một căn cứ nào xác định tính chân thực về ý nghĩa của những đồng tiền nhỏ bé này, nhưng mọi thứ quan niệm có “gốc rễ” từ sự chiêm nghiệm từng trải của nhiều người trên nhiều quốc gia, nhiều tầng lớp, sẽ vô cùng đáng tin đó bạn.

                                                                                   


                     Hết.






__._,_.___

Posted by: van tran <

Tuesday, April 23, 2019

Quê hương là mùi… nước mắm!


Subject:  Quê hương là mùi… nước mắm!




    Quê hương là mùi… nước mắm!

Huy Phương.


Sản xuất nước mắm ở Phú Quốc, Việt Nam. (Hình: Getty Images).



   Người ta định nghĩa quê hương bằng nhiều lối, đối với tôi, cũng không là chùm khế ngọt, hay con diều biếc, mà quê hương chính là mùi… nước mắm!
        Đã là người Việt Nam, ai cũng mê nước mắm. Thích thì còn bỏ được, nhưng mê thì có phần đắm đuối, khó xa rời.
        Tôi có ba tháng ở Mỹ năm 1955 theo học một khóa chuyên môn ở Tiểu bang Indiana, thời đó chưa có người Việt nhiều, nhớ nhà thì ít mà nhớ nước mắm thì nhiều. Bởi vậy chúng ta, người đến Mỹ trong vòng hai, ba mươi năm nay, nên thông cảm cho những người Việt đến quận Cam này trước, còn cái mừng nào bằng, mấy tháng sau mới đi Los Angeles, mua được chai nước mắm.
        Chúng ta nghĩ sao về sức mạnh của nước mắm khi mấy bà có “rể Mỹ” khoe, “thằng này mê nước mắm lắm!” Chuyện mê này khó lòng mà dứt ra được.
        Mà phải nước mắm có mùi vị thơm tho gì cho cam! Lỡ có một giọt nước mắm dính vào áo thì mười giọt nước hoa cũng không át mùi nước mắm đi được. Nhưng bữa ăn của người Việt làm sao thiếu được nước mắm.. Trong dĩa cá kho, tô canh, món rau chấm và thêm một chén nước mắm pha, hay nước mắm chanh ớt để bên cạnh. Trong mâm cơm người mình, đi từ căn bản là chén nước mắm với cái trứng vịt luộc, món rau muống, hay cải luộc của nhà nghèo, rồi xa hơn mới có dĩa cá kho, hay tô canh.
        Trong đói nghèo, người ta còn làm được nước mắm giả để lừa con mắt mà không lừa được vị giác. Sau năm 1975, bị tù tập trung cải tạo ngoài Bắc, tù nhân được cho ăn một bữa ba muỗng nước mắm giả. Nhà bếp nấu sôi nước muối trong một cái chảo chung với một nắm lá chuối khô, thứ đã ngả màu nâu vàng, từ đó màu nước mắm đậm lạt là tùy nhà bếp. Sáng kiến này đã cho chúng ta một thứ nước mà màu sắc rất giống nước mắm. Cứ nghĩ nó là nước mắm XHCN đi, nghe mặn trong miệng là được! Trong bao nhiêu thứ chiêu bài giả hiệu, thêm một vài muỗng nước mắm này cũng chẳng sao!
        Đối với tôi, nước mắm là món quà của Trời Đất dành cho người Việt Nam! Những quốc gia có bờ biển dài, nơi nào cũng có kỹ nghệ đánh cá, như: Canada, Indonesia, Nga, Philippinnes, Nhật Bản, kể cả Hoa Kỳ… nhưng không nơi nào có sáng kiến làm được nước mắm, và biết ăn nước mắm như Việt Nam. Trong khi đó chiều dài của bờ biển, chúng ta chỉ được xếp hạng thứ 33 trên thế giới.
        Một nước gần gũi với chúng ta nhất về văn hóa và địa lý là TC, có bờ biển 14,500 km, dài gấp 4 lần Việt Nam mà cũng không biết làm một chất nước chấm từ con cá mà phải ăn… xì dầu! Thế mới biết không phải người ta giàu vì rừng vàng biển bạc, mà có trí tuệ biết khai thác tài nguyên của thiên nhiên.
        Xa quê hương, không cần phải thấy “khói sóng trên sông,” chỉ nghe mùi nước mắm là cũng đủ nhớ nhà. Bạn đi Pháp, sang Ý, lên Bắc Âu hay Bắc Á, qua Úc hay Tân Tây lan, cũng không tìm đâu ra mùi nước mắm, nhưng khi nghe được mùi nước mắm là “cầm được tay, day được cánh” thấy quê nhà bên cạnh rồi.
        Không thể nào nhầm lẫn! Tô phở là của người Việt, tô mì là của người Tàu! Cũng không ai ăn phở với xì dầu, cũng như không ai chan mì với nước mắm! Sau 1,000 năm bị lệ thuộc dân Tàu, dân tộc Việt vẫn không thể nào thích nghi với… xì dầu, mà vẫn nặng lòng với nước mắm!
        Chúng ta không thể phủ nhận rằng, nước mắm truyền thống chính là “tinh hoa của dân tộc,” và cũng là món “quốc hồn quốc túy” của Việt Nam. Người Việt không thể thiếu nước mắm hay nói đến nước mắm là phải nghĩ đến người Việt.
        Cá đem ướp muối trong vòng từ 6 tháng đến hơn một năm, trong những chiếc thùng bằng gỗ lớn, cho ta một thứ nước mắm tinh chất (nhĩ) đợt đầu, và sau đó là nước mắm các hạng, nhưng cũng là chất liệu làm từ cá biển. Vào thời nhiễu nhương, nước mắm bị pha chế bằng các loại phẩm bột màu, và “mùi” nước mắm, mà không cần đến cá biển. Ngày nay hóa chất có đủ loại hương vị, chúng ta có thể dễ tính, uống một ly sinh tố xoài mà không có chút xoài nào, hay một ly cà phê không làm từ hạt cà phê!
        Như vậy nước mắm Việt Nam không thể nào “made in USA” được, mà may ra chúng ta chỉ có một thứ nước pha mùi và pha màu “giống như nước mắm!” tạm gọi là một thứ nước chấm, vì công đoạn ướp cá làm cho cá lên men và các nhà máy sản xuất nước mắm chưa đủ điều kiện vệ sinh thích hợp trong môi trường của nước Mỹ.
        Người ta thấy bỗng nhiên, mới đây, nhà cầm quyền CS Việt Nam đặt chuyện nước mắm Truyền thống và nước mắm Công nghiệp. Một dự thảo về “quy phạm thực hành sản xuất nước mắm” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn CS soạn thảo có nhiều nội dung mang tính chất “bóp nghẹt” các cơ sở nước mắm Truyền thống, có tính cách hướng dẫn, quy định, như cần kiểm soát các loại thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật trong khi nguyên liệu làm nước mắm là cá biển, không thể có thuốc thú y. Câu chuyện giữa các nhà sản xuất nước mắm và chính quyền chưa biết sẽ đi về đâu, nhưng dư luận cho rằng “Nhà Nước CS” đang muốn đưa bàn tay dẹp bỏ loại nước mắm Truyền thống!
        Việt Nam Cộng Sản đã từng kêu gọi dùng tiếng Tàu và bỏ chữ quốc ngữ, và bỏ Tây y dùng thuốc Bắc. Gần đây “quái thai” Bùi Hiền lại đề xuất viết quốc ngữ mới! Không lẽ giờ đây đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trương bỏ nước mắm để ăn… xì dầu cho giống Tàu? (Huy Phương).   ./.

-

__._,_.___

Posted by: van tran <

ĐỨC PHẬT VÀ LA SÁT

ĐỨC PHẬT VÀ LA SÁT
Toàn Không
1). NHÂN DUYÊN:
     Một trời Đức Phật ngự tại rừng trúc Ca Lan Đà thành La Duyệt cùng 500 đệ tử. Khi ấy vua A Xà Thế cho sửa soạn xe rồi đến chỗ Đức Phật, tới nơi đi bộ vào cúi lễ rồi thưa:
- Cúi mong Thế Tôn nhận lời thỉnh của con ở lại đây nhập hạ ba tháng.
     Đức Phật im lặng nhận lời, Vua A Xà Thế thấy Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh, liền từ chỗ ngồi đứng lên cúi lạy rồi lui đi. Vua A Xà Thế tùy thời cúng dàng thức ăn áo mặc, thuốc men v.v...
     Khi ấy, tại thành Tỳ Xá Ly nhân dân chết rất nhiều, có ngày chết vô số người, người nào mặt mũi vàng khè trải qua ba bốn ngày liền chết, không có thuốc nào trị được. Nhân dân trong thành kinh hoàng, họ tập trung bàn luận về sự lạ ấy rằng:
- Thành này rất thịnh đạt, dân chúng giàu có vui sướng, ít có nơi nào sánh kịp. Ngày nay tự nhiên bị tai họa này, đây là do Quỷ Thần La Sát hãm hại. Nếu không có cách nào đối phó ngăn chặn, chắc dân thành này dần dần chết hết, rồi thành này sẽ thành hoang địa mất thôi!
     Lúc ấy có người nói:
- Nghe nói có Sa Môn Cù Đàm hễ đi tới đâu thì những Quỷ Thần tàn ác đều bị hàng phục và chạy trốn. Nếu Sa Môn Cù Đàm đến đây thì tai họa này có thể ngừng. Lại nghe nói Sa Môn Cù Đàm hiện đang ở rừng Ca Lan Đà thành La Duyệt nước Ma Kiệt được Vua A Xà Thế cúng dường, sợ rằng Ngài không đến đây.
     Lại có người khác nói:
- Nghe nói Sa Môn Cù Đàm là người nhân đức từ bi rộng lớn, xem khắp tất cả, cứu độ người yêu cầu, không bỏ chúng sanh, như mẹ đối với con. Nếu có người đến chỗ ấy thưa thỉnh, chắc là Ngài sẽ đến ngay, Vua A Xà Thế chẳng thể giữ chân Ngài được. Vậy ai có đủ uy tín biết nói năng, chịu đến rừng Ca Lan Đà bạch xin Ngài chiếu cố thành Tỳ Xá Ly, thì chúng ta mới hy vọng qua khỏi tai họa này.
     Khi ấy, mọi người nhìn khắp, thấy có Trưởng giả Tối Đại ở trong chúng ấy, họ biết Trưởng giả là người có thể đại diện dân thành Tỳ Xá Ly đi thỉnh Sa Môn Cù Đàm, nên họ đều đồng loạt đề nghị Trưởng giả đại diện đi, Trưởng giả im lặng nhận lời của mọi người, ông về nhà sửa soạn hành trang.
2)- TRƯỞNG GIẢ TỐI ĐẠI CẦU PHẬT:
     Trưởng giả Tối Đại dẫn một người giúp việc đi theo, rồi cùng đi đến rừng Ca Lan Đà. Khi tới nơi, Trưởng giả cúi lễ Phật xong, xưng tên họ và thưa:
- Nhân dân trong thành Tỳ Xá Ly đang gặp nạn lớn, người chết rất nhiều, có ngày chết cả trăm người. Hễ người nào bị vàng da chỉ trong ba bốn ngày thì chết, không có thuốc nào trị khỏi, đây là do La Sát hãm hại. Cúi xin Thế Tôn thương xót tiếp độ chúng con, để cho những người còn sống được yên ổn. Vì chúng con nghe Đức Thế Tôn đi đến đâu Thiên Long Quỷ Thần không dám quấy nhiễu. Kính mong Ngài chiếu cố chúng con, đến thành Tỳ Xá Ly, độ cho chúng con khỏi sợ hãi.
     Đức Phật bảo:
- Ta đã nhận lời của Vua A Xà Thế ở lại đây ba tháng, chư Phật, Như Lai chẳng bao giờ nói hai lời. Nếu Vua A Xà Thế bằng lòng thì Ta sẽ đến đó.
     Trưởng giả thưa:
- Việc này rất khó, chắc chắn Vua A Xà Thế chẳng để Đức Thế Tôn qua nước chúng con đâu, tại sao? Vì Vua A Xà Thế chẳng có tí thiện cảm với nước chúng con. Nếu ông ta trông thấy con là giết ngay, huống là chịu cho việc này. Nếu ông ta nghe được nhân dân nước con bị Quỷ Thần La Sát hại mạng nhiều như thế, chắc là ông ta mừng lắm. Xin Thế Tôn thương xót chúng con.
     Đức Phật bảo:
- Chớ nản lòng, chớ sợ hãi! Ông hãy bình tĩnh đến tâu Vua A Xà Thế như sau: “Như Lai vừa nói với tôi: Như Lai thụ ký cho Vua A Xà Thế hoàn toàn không hư dối không hai lời rằng phụ Vương Ngài vô tội mà bị giết, đáng lẽ phải đọa địa ngục A Tỳ, nhưng ngày nay Vua đã sửa đổi hối lỗi, có lòng tin đối với giáo pháp của Như Lai, nên được giảm tội. Khi Vua qua đời sẽ sinh vào địa ngục Phách Cừu, chết ở đó sẽ sinh lên cõi cõi Tứ Thiên Vương, rồi sinh lên cõi Diệm Thiên, rồi cõi Đâu Suất, cõi Hóa Tự Tại, cõi Tha Hóa Tư Tại, rồi trở lại cõi Tứ Thiên Vương. Trong hai mươi kiếp không đọa đường dữ hằng sinh trong loài Trời, Người. Thân cuối cùng, do lòng tin kiên cố, cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo, thành Bích Chi Phật Trừ Ác” Vua A Xà Thế nghe xong sẽ mừng rỡ mà bảo ông rằng: “Tùy ông xin điều gì, ta sẽ không trái ý
     Trưởng giả Tối Đại thưa:
- Con sẽ nương oai thần của Như Lai để đến gặp Vua A Xà Thế.
     Rồi Trưởng gia cúi đầu lạy Phật, xong lui đến cung Vua.
LỜI BÀN:
     Điều đầu tiên chúng ta để ý là Vua A Xà Thế là người ra lệnh bắt cha giam giữ không cho ăn rồi sau sai người giết, một trọng tội trong ngũ nghịch, đó là: Giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh A La Hán, làm chảy máu Phật, phá hoại Tăng đoàn. Tội ngũ nghịch bị đọa địa ngục A Tỳ là địa ngục chịu cực hình nặng nhất, lâu dài tới một đại kiếp (1 tỉ 344 triệu năm). Nhưng vì Vua đã ăn năn hối cải sám hối tội đã làm, lại làm nhiều việc lành như cúng dàng Phật Tăng, tin sâu giáo pháp của Phật v.v... nên sau khi chết tuy bị đọa địa ngục Phách Cừu, nhưng ít khổ hơn, thời  gian ngắn hơn chừng hơn 100 ngàn năm thôi; cũng vì các việc làm thiện ấy mà sau Vua được sinh cõi Trời cõi Người nhiều đời nhiều kiếp cho tới khi tu hành thành bậc Bích Chi Phật lâu xa sau này.
     Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng làm ác phải bị đọa cõi dữ, làm lành được đến chỗ tốt. Đã biết như thế rồi, thì cố gắng cư xử ở đời sao cho được tốt đẹp, không để cho tham lam sân hận giận hờn tác oai tác quái, không để cho cái ngã cái kiêu mạn hoành hành chúng ta nữa.
3). TRƯỞNG GIẢ TỐI ĐẠI GẶP VUA.
(Còn tiếp)

__._,_.___

Posted by: Tien Do



ĐỨC PHẬT VÀ LA SÁT
Toàn Không
(Tiếp theo)
5). ĐỨC PHẬT VÀ LA SÁT:
     Rồi Đức Phật dẫn đoàn Tỳ Kheo đến thành Tỳ Xá Ly, khi tới nơi, Ngài đứng giữa cửa thành nói kệ:
Nay đã thành Như Lai,
Thế gian cao trọng nhất,
Đem lời chí thành này,
Tỳ Xá Ly không khác.
Lại đem pháp chí thành,
Được đạt đến Niết Bàn,
Đem lời chí thành này,
Tỳ Xá Ly không khác.
Lại đem Tăng chí thành,
Chúng Hiền Thánh đệ nhất,
Đem lời chí thành này,
Tỳ Xá Ly không khác.
Hai chân được an ổn,
Bốn chân cũng như thế,
Đi đường được tốt lành,
Đến nơi cũng lại thế.
Ngày đêm được an ổn,
Không có bị xúc nhiễu,
Đem lời chí thành này,
Khiến Xá Ly không khác.
     Đức Phật nói xong, La Sát Quỷ Thần đều bỏ chạy không yên chỗ, rời khỏi thành Tỳ Xá Ly mà biến đi hết, những người bệnh đều được trừ khỏi, không còn cảnh chết như những ngày trước nữa.
     Bấy giờ Đức Phật đi dạo trên bờ hồ Di Hầu, nhân dân cúng dàng thức ăn uống, giường treo, vật dụng cần thiết v.v..., họ còn thụ Bát Quan Trai Giới nữa.
LỜI BÀN:
     Khi Đức Phật dẫn đoàn Tỳ Kheo đến thành Tỳ Xá Ly, Ngài đứng ngay giữa cổng thành nói kệ, bài kệ này là lời tuyên bố Ngài là bậc Chí Tôn trên trời đất, với Giáo lý cao tột, và chúng Tăng toàn là bậc Thánh Hiền. Đức Phật truyền lệnh tất cả người vật trong thành Tỳ Xá Ly phải được ổn định, không bị khuấy phá tổn thương, do đó, các Ma Quỷ nghe lệnh ấy đều phải im lặng rút lui đi, để lại sự bình an, không còn cảnh chết chóc như mấy ngày trước nữa. Thật là mầu nhiệm biết bao! Đúng là thuốc Thần! Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, một ngôi chí tôn trên trời đất, đạo pháp mênh mông biển khơi hẹp, công đức cao vợi núi non thấp, Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài đã mang lại sự an ổn cho chúng sanh, chúng sinh muôn đời nhớ ơn Ngài.
     Có một điểm cần nêu ra, đó là nếu như ngày nay tại một địa phương nào đó, xảy ra sự việc như thế, chúng ta cho là bệnh “dịch” gây ra bởi một loại vi trùng nào đó, truyền nhiễm từ người này qua người kia, nên mới chết nhiều như thế. Do đó, chúng ta nói rằng thời đó có thể do bệnh “dịch” gây nên, chứ làm gì có Quỷ Thần La Sát nào làm ra. Nói vậy cũng có lý, nhưng chúng ta cũng thấy sau khi Đức Phật nói kệ xong thì nhân dân thành Tỳ Xá Ly không còn chết chóc như trước nữa; đây là sự chứng minh cụ thể, chứ không phải là tin suông, nói hão, chẳng phải là tin mù quáng không có chứng minh đâu.
Thụ Bát Quan Trai Giới là thọ tám giới trong vòng một ngày một đêm, tám giới gồm: Không sát sanh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không ngồi nằm giường ghế cao sang, không dự các cuộc vui ca hát v.v..., và ăn chay không sau buổi trưa.
6)- LỤC SƯ NGOẠI ĐẠO:
     Lúc ấy, trong thành Tỳ Xá Ly đã có sáu Trưởng lão ngoại đạo (Lục Sự ngoại đạo) tên là: Bất Lan Ca Diếp, A Di Chuyên, Cù Da Lâu, Bỉ Hưu Ca Chiên, Tiên Tỉ Lô Trì, Ni Kiền Tử đang ở đó. Họ nhóm họp với nhau bàn luận: “Sa Môn Cù Đàm đến đây được nhân dân cúng dường, còn chúng ta chẳng được gì, chúng ta nên đến luận nghị với ông ta, xem ai thắng?
     Bất Lan Ca Diếp nói:
- Các Bà La Môn không nhận lời ông ta mà đến cật vấn thì chẳng phải việc của Bà La Môn, chúng ta chưa nhận lời cật vấn của Sa Môn Cù Đàm mà đến vấn nạn thì đâu được luận nghị với ông ta.
     A Di Chuyên nói:
- Không thí, không nhận, không người cho, không người nhận, cũng không đời này đời sau, chúng sanh không có quả báo thiện ác.
     Cù Da Lâu nói:
- Ở bên này sông Hằng giết hại người vô số, thịt chất thành núi; ở bên trái sông Hằng tạo các công đức, do đó đều không có quả báo thiện ác.
     Bỉ Hưu Ca Chiên nói:
- Dù cho ở bên trái sông Hằng bố thí, trì giới, tùy thời cung cấp không cho thiếu thốn, cũng chẳng có phúc báo.
     Tiên Tỉ Lô Trì nói:
- Không có nói năng, cũng không có qủa báo của ngôn ngữ, Chỉ có im lặng là sung sướng.
      Ni Kiền Tử nói:
- Có ngôn ngữ cũng có quả báo của ngôn ngữ, Sa Môn Cù Đàm là người, chúng ta cũng là người, Sa Môn Cù Đàm biết chúng ta cũng biết, Sa Môn Cù Đàm có thần thông chúng ta cũng co thần thông. Sa Môn Cù Đàm hiện một Thần túc chúng ta sẽ hiện hai Thần túc, ông ta hiện hai chúng ta hiện bốn, ông ta hiện bốn chúng ta hiện tám; nghĩa là, tùy theo ông ta hiện Thần túc bao nhiêu chúng ta sẽ hiện gấp đôi; chúng ta đủ sức thi thố, không chịu thua ông ta, nếu ông ta không chịu luận nghị với chúng ta, đó là lỗi của ông ta; nhân dân nghe được sẽ không cúng dàng ông ta nữa, và chúng ta sẽ được cúng dàng vì chúng ta thắng.
     Bấy giờ Tỳ Kheo Ni Du Lô dùng Thiên nhĩ nghe được Lục Sư ngoại đạo tụ họp bàn luận như thế, liền bay lên không trung đến trên chỗ họ, nói kệ vọng xuống:
Thầy ta không ai bằng,
Tối Tôn không người hơn,
Ta là đệ tử Ngài,
Tên là Du Lô Ni.
Ngươi nếu có cảnh giới,
Hãy cùng ta nghị luận,
Ta sẽ đáp từng việc,
Như Sư tử chụp nai.
Lại ngoài Thầy ta ra,
Vốn không có Như Lai,
Nay ta Tỳ Kheo Ni,
Đủ hàng phục sáu người.
     Các Ngoại đạo nghe Tỳ Kheo Ni Du Lô nói kệ rõ ràng, chẳng thể ngước nhìn thấy mặt, huống là luận nghị.
     Bấy giờ nhân dân chung quanh trông thấy Tỳ Kheo Ni ở trên không luận nghị mà Lục Sư ngoại đạo không đáp một lời, ai nấy đều cười vui vẻ. Họ thấy rõ ràng Lục Sư đã bị khuất phục.
     Nhóm Lục Sư buồn rầu, âm thầm đi khỏi thành, lúc ấy một số Tỳ Kheo nghe Tỳ Kheo Ni Du Lô tranh luận thắng Lục Sư ngoại đạo, liền đến bạch Phật về nhân duyên ấy. Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
- Tỳ Kheo Ni Du Lô có đại Thần túc, có đại oai Thần, có trí huệ, khó có ai tranh luận nổi với Lục Sư này, chỉ có Như Lai và Tỳ Kheo Ni Du Lô.
LỜI BÀN:
     Trong sáu Luận sư ngoại đạo, ngưòi nói đầu tiên cho rằng chưa có sự nhận lời luận bàn mà đến cật vấn thì không thể được, người này nói đúng; còn bốn người kế tiếp đều không chấp nhận nhân quả nghiệp báo, đây là những người chủ trương “chấp đoạn”, họ cho rằng con người sinh ra là do ngẫu nhiên, tự nhiên như thế. Mọi việc ở đời chỉ là may rủi, gặp may được vui, gặp rủi phải chịu buồn. Sinh già bệnh chết là lẽ tự nhiên, khi chết là hết, chẳng còn gì nữa, sự may rủi cũng theo cái chết mà không còn gì nữa, thân xác thành cát bụi hư vô, không còn một tí gì cả.
     Theo quan điểm “chấp đoạn”, con người sống chỉ nghĩ đến hưởng thụ cho mau, nên đưa đến tình trạng dành giật, không cần biết tới bình đẳng, đạo đức, tôn ty; đây là quan điểm có tính cách buông xuôi, không phải quan điểm của những người trí tuệ, mà giống như cách đối xử hạ đẳng của các loài vật. Bởi vì con người ngoài phần thể xác, còn có phần tinh thần, nên bảo rằng chết là hết thì không đúng, tại sao? Vì phần tinh thần nó vô hình vô tướng, mắt người thường không thể thấy được, nên tưởng rằng không có gì cả, nhưng đối với các bậc Giác ngộ, các vị biết thấy rõ phần tinh thần này.
     Người thứ sáu là một Ni Kiền Tử chủ trương sống theo lối “khổ hạnh”, nhưng người này lại có tâm tranh hơn thua, muốn cùng Đức Phật so tài Thần thông; thiết nghĩ, chỉ với Ni Sư Du Lô, đã không so tài Thần túc được thì nói chi so tài với Phật? 


__._,_.___

Posted by: Tien Do 

Saturday, April 13, 2019

Tháng 4 Đen Người chiến sĩ VNCH - những ngày cuối cùng của cuộc chiến

----- Forwarded Message -----
From: T .H  .
Sent: Monday, April 1, 2019, 2:07:49 PM CDT
Subject: Người chiến sĩ VNCH - những ngày cuối cùng của cuộc chiến

Image result for Tháng 4 Đen Người chiến sĩ VNCH
Tháng 4 Đen

Người chiến sĩ VNCH - những ngày cuối cùng của cuộc chiến


Canh bạc chưa chơi mà hết vốn, Cờ còn nước đánh phải đành thua (*)
Vào ngày cuối cùng của cuộc chiến, khi mà mọi giới đều hiểu rằng không còn gì có thể cứu vãn được nữa thì người chiến sĩ VNCH vẫn chiến đấu dũng cảm. Một vài tài liệu sau đây cho chúng ta khẳng định như thế:
1/ Tài liệu của Không Lực Hoa Kỳ – chương trình di tản “Frequent Wind” có viết rằng: Trong khi phi trường bị tấn công thì 2 chiếc Al (Skyraider chiến đấu có cánh quạt của Không lực VNCH) đã bay lượn trên không phận Saigon để truy lùng các vị trí pháo kích của địch. Một trong hai chiếc bị hỏa tiễn SA-7 bắn hạ.




Trong khi đó, nhiều người đã không e sợ, đổ xô ra ngoài để nhìn một chiếc phi cơ “Rồng lửa” AC-119 đang nhào lộn và xả súng (đại liên 6 nồng Gatling) bắn một vị trí của bộ đội Bắc Việt ở ngay gần cuối hướng đông Tân Sơn Nhất. Vào khoảng 7 giờ sáng 29/4, chiếc phi cơ anh dũng của VNCH đã bị trúng hỏa tiễn SA-7 của địch và bốc cháy rồi đâm nhào xuống mặt đất.
Trong một bức thư của một phi công VNCH gửi cho Clyde Bay ở Trung Tâm Di Tản Nha Trang, kể lại chuyện những phi công của Không Lực VNCH vào sáng ngày 29 tháng 4, vẫn tiếp tục thực hiện các phi vụ tấn công vào các đoàn xe tăng địch, khi chúng tiến về phía thủ đô Saigon. Theo lời của Trung Úy Coleman “ít nhất những người này đã là những chiến sĩ đã chiến đấu một cách anh dũng và hi sinh đến giọt máu cuối cùng của cuộc đời binh nghiệp, trong một trận chiến biết chắc là thua, nhưng vẫn sẵn sàng hi sinh”.
2/ Tài liệu trích trong cuốn Việt Nam và Chiến Lược Domino của Bạch Long (từ trang 312 đến 314) Nhưng sự bất ngờ cho Cộng Sản đã xảy ra ngay tại cửa ngõ vào Saigon. Khoảng gần một ngàn chiến sĩ của Chiến đoàn 3 Biệt Kích Dù và một số biệt kích, Nhảy Dù và quân nhân khác, có nhiệm vụ bảo vệ bộ Tổng Tham Mưu từ ngày 26 tháng 4, đã sẵn sàng chờ “đón” quân Cộng Sản. Trong ngày 29 tháng 4, tướng Lâm Văn Phát đã có can đảm đứng ra nhận chức tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô với mục đích cầm quân chiến đấu bảo vệ Saigon. Tướng Phát đã ra lệnh cho các cánh quân Nhảy dù, Biệt Cách, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến… phải ngăn chận quân Cộng Sản kéo vào Saigon từ hai ngả tư Bảy Hiền và Hàng Xanh… Tướng Phát kể lại rằng ông chỉ còn vỏn vẹn 60 xe tăng M-41 và M-48 với những đơn vị lẻ tẻ để đối đầu với 16 sư đoàn Bắc Việt và 3 sư đoàn Việt Cộng với hàng ngàn xe tăng, đại pháo và tấn công từ hai ngả vào Saigon.
Nhưng dù ở trong tình thế tuyệt vọng như vậy, tướng Phát và những người đầu hàng.. Họ vẫn phải chiến đấu đến cùng! (Cần phải nói rằng các đơn vị lớn Thủy Quân Lục Chiến cực kỳ anh dũng và đã bị tan rã gần hết trước ngày 30 tháng, ở vùng Một và vùng Hai, và trong những trận rút bỏ khác.) Những người lính chiến đấu này không có…radio! Họ không cần biết rằng quân Cộng Sản đang thắng thế. Họ không cần biết tổng thống tạm thời Dương Văn Minh đang sửa soạn đầu hàng, dâng miền Nam cho Cộng Sản. Họ không cần biết rằng tình hình đã hoàn toàn tuyệt vọng, không còn một chút hi vọng ngăn chân quân đội Bắc Việt. Họ chỉ biết chiến đấu chống Cộng và tiêu diệt quân Cộng sản, và hình như họ chưa bao giờ có tư tưởng bỏ chạy hay đầu hàng! Họ hờm súng đợi quân thù Cộng Sản và sẵn sàng nhả đạn. Các xe tăng Cộng Sản hứng những loạt đạn đầu tiên và bất ngờ. Trong thành phố đang hỗn loạn tinh thần, tiếng đạn nổ như mưa bão xen lẫn với tiếng súng lớn, đã làm cho sự hỗn loạn gia tăng.
Trong thời gian thật ngắn khoảng hơn 1 giờ đồng hồ, 17 xe tăng Cộng sản bị trúng đạn cháy đen nằm rải rác từ Ngả tư Bảy Hiền đến cổng trại Phi Long và đến đường Cách Mạng… Pháo tháp xe tăng T-55 bằng thép dầy 12inches (30 phân tây) bị bắn thủng như bằng…bột, chứ không phải bằng thép! Lỗ đạn không lớn lắm. Hình như vào giờ chót người Mỹ viện trợ cho một loại súng bắn xe tăng đặc biệt, loại 106 ly (?), để bắn xe tăng. Đạn xuyên phá qua thép dầy nhất và lực cản của thép đã làm cho nhiệt độ gia tăng tới gần 3000 độ C, nướng chín quân lính Cộng Sản ở trong xe tăng.
Cánh quân Cộng Sản từ Long Khánh kéo về Saigon qua Hàng Xanh, Thị Nghè bọc xuống trước Sở Thú để tiến vào dinh Độc Lập thì bị quân Nhẩy Dù án ngữ. Quân Nhẩy Dù bị dồn về bảo vệ vòng đai Saigon. Họ không còn việc gì khác hơn là chiến đấu đến cùng từ đường vòng đai xa lộ Đại Hàn đến ngã tư Hàng Sanh về đến đại lộ Thống Nhất, nhà thờ Đức Bà. Hầu như những cánh quân Cộng Sản đầu tiên tiến vào Saigon theo ngả này đều bị Nhảy Dù tiêu tiệt hết. Tổng cộng trong khoảng từ 7 giờ sáng đến 10 giờ 15 ngày 30 tháng 4, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, hơn 20,000 quân Bắc Việt, 32 xe tăng và gần 30 quân xa (Molotova) chở đầy lính Cộng Sản bị bắn cháy, chết hết, trong phạm vi thành phố Saigon.
Tất cả hai cánh quân Việt cộng đều khựng lại.
Bộ chỉ huy Cộng Sản cuống cuồng vội giục Dương Văn Minh phải đích thân ra lệnh cho tướng Lâm Văn Phát, thiếu tá Tài để ra lệnh cho Biệt Cách Dù và quân Nhảy Dù ngưng chiến đấu. Tất cả những người lính chiến đấu can trường nhất của VNCH lúc đó mới hiểu rằng miền Nam đã bị kẹt vào cái thế phải thua. Họ ném bỏ súng đạn trút bỏ quần áo trận và lẫn lộn vào dân chúng, tìm đường về nhà.
Một câu chuyện khác do tướng Lâm Văn Phát kể lại là sau khi Dương Văn Minh điện thoại cho ông phải ra lệnh ngưng bắn thì ông xuống dưới nhà. Dưới chân cầu thang, một người Quân Cảnh đã đứng nghiêm chào ông và nói: “Vĩnh biệt thiếu tướng”, rồi rút súng bắn vào đầu tự tử.
 Khi vị tư lệnh cuối cùng của Biệt Khu Thủ Đô đến Tổng Tham Mưu thì thấy chung quanh cột cờ lớn có khoảng hơn 300 binh sĩ Biệt Cách và sĩ quan chỉ huy họ đang đứng thành vòng tròn và hờm súng vào… lưng nhau, sẵn sàng nhả đạn tự tử tập thể. Tướng Phát phải nói với họ trong nước mắt rằng quân đội VNCH đứng vững cho đến giờ chót là nhờ tinh thần kỷ luật. Vậy lúc này đã có lệnh buông súng thì anh em ai về nhà nấy mà lo cho gia đình. Tự tử không có ích lợi gì cho mình cả. Các quân nhân nghe lời, chỉ có một vài sĩ quan trẻ tuổi đã tự tử. Đến 1 giờ trưa, tướng Phát bàn giao Biệt Khu Thủ Đô cho tướng Việt Cộng Ba Hồng. Sau đó tướng Ba Hồng mời tướng Phát đến Tổng Tham Mưu. Tại đây, khoảng 500 chiến xa T. 55 của Cộng quân nằm kín chung quanh cột cờ. Đáng lẽ những chiến xa này đã đi thẳng sang Tây Ninh theo đườngvòng đai Saigon. Nhưng sự đầu hàng của Dương Văn Minh đã thay đổi hết kế hoạch tiến đánh Thái Lan của Cộng Sản (tướng Lâm Văn Phát đã từ trần trong tuổi già tại Santa Ana, California ngày 30 tháng 10, 1998)
Nhưng hai trận đánh trên đây cũng chưa phải là trận đánh cuối cùng trong ngày 30 tháng 4. Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã chiến đấu mãnh liệt từ trong khuôn viên trường cho đến khoảng 2 giờ trưa. Lúc này, Cộng Sản đã cầm chắc cái thắng trong tay nên chúng không muốn chết thêm nữa. Chúng ngưng bắn và điều đình với các em. Các em đòi chúng phải ngưng bắn và rút ra xa để các em tự giải tán. Khoảng ba giờ chiều, các em hát bài quốc ca, làm lễ hạ cờ. Xong rồi bỏ đồng phục, mặc quần áo thường và từ từ ra khỏi trại, nước mắt ràn rụa trên má…
3/ Tài liệu: báo Wall Street Journal số ngày 2 tháng 5 năm 1975, bài bình luận của ký giả Peter Kahn, từng đoạt giải Pulitzer, có tựa đề “Truy Điệu Nam Việt Nam” “…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy… Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc.
Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ. Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương. Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”
4/ Tài liệu của ký giả người Pháp Jean Larteguy, đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng ở Saigon ngày 29 và 30 tháng 4-75. Thứ Hai 28/4/75 Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong những khu vườn. Họ không buồn rầu và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một một thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau và liệng cho nhau những chai Coca Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu này. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. “Và những binh sĩ tuyệt vời này vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao? Ông trả lời: “Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người lính cuối cùng chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”
Sau khi Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng. Larteguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị VNCH tại Saigon, và ghi lại như sau: “Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan này khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.” Larteguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “…Và trong những bộ đồng phục mới, giầy chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Họ ra đi thật hào hùng, đi như diễn binh, chỉ thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng.”
Một đồng nghiệp của Larteguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan: “Các anh có biết là sắp bị giết chết không?” Một thiếu úy trả lời: “Chúng tôi biết chứ!” Vì sao? – Tại vì chúng tôi không chấp nhận Chủ Nghĩa Cộng Sản! “…Các xe tăng đầu tiên của Cộng Sản vào Saigon từ phía đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòa…
Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn này chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều.
Từ ngày hôm trước các đơn vị cộng quân này đã bị chận tại gần Hóc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do
Lữ Đoàn 4 của Sư Đoàn Dù trấn giữ dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị Cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon. Một lần trước trụ sở Cảnh sát Công Lộ, nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng Cộng Sản đề bẹp. Lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính Dù võ trang đại liên và Bazzoka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát. “Đến chiều tối 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đem để rút về đồng bằng…” Pierre Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.-->>
                                                                                                                                                                             http://nguyentran.org/HT/Hinh2/VN-qmok..jpg

Việt Nam Quê Mẹ Oan Khiên - chuyện đọc


( Không biết tác giả)

__._,_.___

Posted by: Nguyen Tan - HTD 

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List