Popular Posts

Tuesday, August 27, 2013

Sức mạnh của lời nói

The power Words
            Sức mạnh của lời nói
 



SỨC MẠNH CỦA MỘT LỜI NÓI
=========================
Thả một hòn sỏi vào trong nước:
trong phút chốc bạn lãng quên.
Nhưng có những gợn sóng nhỏ xoay tròn,
hòa vào con sóng lớn.
Bạn đã xáo động một đại dương hùng vĩ
chỉ bằng một hòn sỏi mà thôi
Thả một lời nói không tốt, không cẩn trọng:
trong phút chốc bay đi.

Nhưng để lại vô vàn gợn sóng lăn tăn xoay tròn, lan tỏa
và không có cách nào lấy lại - một khi bạn đã nói ra.
****************************************************************
Thả một lời nói không tốt, trong phút chốc bạn lãng quên.
Nhưng có những gợn sóng nhỏ xoay tròn mãi.
Có thể bạn đã làm ứa một dòng nước mắt
trên con tim buồn.
Bạn đã xáo động một cuộc đời hạnh phúc
chỉ vì những lời nói kia.
Thả một lời nói vui vẻ và tốt bụng,
chỉ trong giây lát chúng bay đi,
nhưng để lại vô vàn gợn sóng lăn tăn, xoay tròn mãi,
mang hy vọng, niềm vui, an ủi trong mỗi con sóng xô bờ.

Bạn sẽ không ngờ được sức mạnh của một lời nói tốt
bạn đã cho đi.

Thả một lời nói vui vẻ và tốt bụng,
trong giây lát bạn lãng quên.
Nhưng niềm vui dâng tràn,
và những gợn sóng reo vui xoay tròn mãi.
Bạn đã làm cho con sóng được vỗ về trong điệu nhạc êm ái
có thể nghe thấy trên hàng hải lý
từ việc thả một lời nói tốt mà thôi.



BUÔNG XẢ NHẸ NHÀNG 


- Bạn đang cầm cái gì thế?
- Cái tách
- Nặng không?
- Không
- Bạn cầm được bao lâu?
- Chừng 10 phút thôi.
- Tại sao vậy?
- Cái tách thì không nặng, nhưng cầm giữ càng lâu, càng thấy nặng.

SUY NGẪM

Trên đường đời, người đi bộ mang trên vai hay trên lưng một ba lô hành lý vừa sức.
Đường càng dài, người đi bộ cảm thấy hành lý đó càng nặng thêm, cho đến một lúc phải bỏ xuống, nghỉ ngơi.

Đó là nói về phương diện vật chất, thể lực, hay hình tướng bên ngoài.

Về phương diện tâm linh, tinh thần, do sự bất như ý, hay bất trắc trong cuộc sống hàng ngày, con người mang một khối tâm sự nặng nề, khó giải tỏa, khiến cho tâm trí bất an, cuộc sống kém vui.

Có những người vô minh đến mức, họ thề rằng: «sống để dạ, chết mang theo».

Người có trí liền nhận biết điều này càng kéo dài, càng bất lợi cho sức khoẻ thể chất cũng như tâm thần, cho nên tìm cách buông bỏ, xả bỏ, không nhớ nghĩ đến những điều bất như ý đó nữa. Có những chuyện cãi vã nhau, người kia đã quên mất, còn người kém trí thì mang khối tâm sự đó về nhà chia cho chồng (hay vợ) cùng chịu phiền não khổ đau chung.

Người có trí học hạnh của đất, kham nhẫn những điều như ý hay bất như ý người khác khó làm, nhận chịu với tâm từ, bi, hỷ, xả. Nhẫn mà không thấy nhục.

Với sự hiểu biết, người có trí biết thông cảm hoàn cảnh, biết yêu thương người khác, chính là yêu thương bản thân, nên không phiền não, không khổ đau.

 BBT.PHTQ. (trích PHTQ số 20)



CHUYỆN TU HÀNH

- Thế nào gọi là tu?

- Khi mình nghe một câu chuyện về một người nào đó, mình không quen biết, không rõ câu chuyện thực hư ra sao, mình không nên vội tin, nhất là không nên loan truyền câu chuyện đó cho người khác.
Như vậy gọi là tu đó.

- Vâng, con xin cám ơn lời nhắc nhở của Thầy. Nhưng nếu mình biết rõ câu chuyện đó có thực, và biết về người trong câu chuyện, thì mình xử sự ra sao, thưa Thầy ?

- Sống trên đời này, mình còn chưa biết rõ về bản thân mình nữa là, làm sao dám nói rằng mình biết về người khác. Nay mình thương, mình có cảm tình, mình suy nghĩ như thế này. Mai mình ghét, mình mất cảm tình, mình suy nghĩ thế khác. Còn sự việc xảy ra trên đời, thường có nhiều uẩn khúc, thấy vậy mà không phải vậy, người trong cuộc đôi khi còn chưa hiểu rành rẽ ngọn ngành, huống là người bàng quan.

Bởi vậy, nếu muốn yên thân để tu tập, mình chỉ nên quan sát chính bản thân mình, xem coi mình là người thế nào, tốt hay xấu, thiện hay ác, dễ tin hay sáng suốt, mê hay ngộ, tiến hay lùi, không nên nghe, bàn chuyện thị phi, thiên hạ sự, chẳng ích lợi gì cho sự tu tập, chẳng ích lợi gì cho hạnh phúc bản thân và gia đình. Phóng tâm ra nghe bàn chuyện bên ngoài chỉ làm loạn tâm mà thôi. Nên nhiếp tâm quán xét bản thân.
Như vậy gọi là tu đó. ■

Người ngu trên đời này
thường nghe lời đồn nhảm,
tin theo rồi loan truyền
phiền não và khổ đau.
*
Người trí không quan tâm
chuyện thế gian thị phi,
không loan truyền tin đồn
tâm an nhiên tự tại  

Friday, August 23, 2013

Tính ưa cãi cọ, chửi bới của người Việt


 

 

Bị chửi thì khóc, nghe thiên hạ chửu nhau thì cười, nghe nhiều nhàm tai.

Thân chuyển để đọc, chớ học làm chi lở miệng!

JB/HTT

Tính ưa cãi cọ, chửi bới của người Việt

Nếu chúng ta vô ý đi bộ đụng phải người Mỹ, người ta không cần chúng ta xin lỗi, họ xin lỗi trước: “I am sorry”, sự việc coi như được giải quyết một cách lịch sự, nhẹ nhàng.
 
Nhưng nếu chẳng may đụng phải người Việt, sẽ có một cuộc cãi cọ kéo dài không biết bao lâu. Đôi khi hai người đi xe đạp đụng vào nhau, xe không hư, người không hề hấn gì nhưng lại kẻ bể đầu người sứt tai sau một hồi gây lộn. Đứa con khóc thay vì dỗ cho nó nín, chồng trách vợ, vợ trách chồng thành ra cãi nhau.
 
Từ chuyện nhỏ nhặt ấy hai người lôi những chuyện từ ngày xửa ngày xưa ra kể, ra trách, phân trần hàng tiếng đồng hồ mới chấm dứt.

Đó là chuyện nhỏ, những việc lớn hơn người ta bỏ ra cả ngày cả buổi, có khi cả tháng để chửi bới mắng nhiếc đi đến thù hận nhau suốt đời. Chúng ta sống bằng tình cảm quá nhiều, quá nặng chủ quan nên sự phân biệt phải trái không rõ ràng, hễ người nào nói nhiều, chửi, mắng nhiều, nói được nhiều lời cay độc được coi là người giỏi, người thắng.
 
Thắng không căn cứ trên sự đúng, sai làm người ta không cần lý lẽ, cứ nói bừa, nói ngang, nói thế nào cũng được. Do đó tục ngữ có câu: “Một người nói ngang cả làng không lại.”
 
Xa hơn nữa, có khi đem nhau ra trước cửa quan vì một chuyện không đâu.

Sống ở ngoại quốc, chúng ta thấy người ta đối xử với nhau lịch sự, rộng lượng và khôn ngoan hơn chúng ta. Lỡ va chạm nhau, cả hai bên cùng nói “sorry” (xin lỗi), việc không đáng gì vả lại đó là sự sơ suất; trong cơ quan nếu chúng ta vô ý làm hư hỏng đồ vật hay làm sai, người ta nói “don’t worry” (đừng bận tâm) rồi người ta phụ với mình sửa chữa hay chỉ bảo điều sai sót vì việc đã xảy ra rồi có mắng mỏ hay cằn nhằn cũng không lại được, chỉ thêm mất thì giờ và làm buồn người khác.

Hàng xóm có điều không vừa lòng, người ta bán nhà đi ở chỗ khác, cãi nhau mất thì giờ và thêm bực mình. Tôi biết một gia đình người Việt sang đây (Mỹ) nhưng quen lối sống ở Việt Nam, không biết tôn trọng hàng xóm, mở băng Video và DVD cho phát ra hai cái loa cả ngàn oát (watt) bất kể ngày đêm làm cho cái nhà sát bên cạnh 1 năm đổi chủ ba, bốn lần.
 
Trường hợp này ở bên nhà chắc chắn sẽ chửi bới nhau, có khi thưa kiện hay đánh đấm nhau nữa không chừng.

Vấn đề chửi bới của người Việt, đã có nhiều người nói tới như nhà văn Nguyễn công Hoan hay học giả Lê văn Siêu.  
 
Mới đây đồng tác giả Nguyễn thị Tuyết Ngân và Trần ngọc Thêm trong bài “Người Việt Chửi” đăng trên tờ báo Pháp Luật ở Sài Gòn số Xuân Canh Thìn 2000 và đăng lại trong cuốn “Tìm Về Bản Sắc Văn Hoá VN” cho rằng lối chửi của Việt Nam đã bước vào hàng “nghệ thuật” và góp phần làm kho tàng văn hóa VN cổ truyền thêm phong phú (Trần ngọc Thêm TVBSVHVN trang 293, Nhà xuất bản Tổng Hợp TPHCM in lần thứ 4).

Dù đứng ở phía nào hay qua góc độ nào thì chửi bới không thể xếp vào hàng nghệ thuật vì nghệ thuật luôn luôn hướng về cái Thật, cái Tốt, cái Đẹp (Chân – Thiện – Mỹ).
 
Chửi bới là dùng những lời nói cay độc để nguyền rủa, trù ẻo, mạt sát người khác sao gọi là tốt, đẹp được? Chửi bới là qua lời nói muốn đào mồ cuốc mả nhà người ta, bắt ông bà tổ tiên nhà người ta ăn những thứ dơ dáy, ô uế.
 
Muốn băm vằm, xé nát người ta mà nói rằng góp phần làm phong phú nền văn hóa cổ truyền trong khi Văn Hóa mang tính Nhân Bản: thân ái, độ lượng, khoan dung, hòa hợp.

Tóm lại chửi bới là hành động xấu, vô văn hóa đã có từ lâu (nay đã giảm rất nhiều) nên qua thời gian được gọt rũa thành bài bản, có vần điệu, nhịp nhàng đối xứng.
 
Các dân tộc khác không có lối chửi tàn tệ, thâm độc, dằn vặt  (người ta chửi nặng nhất là “đồ con vật (heo, bò, ngựa) hay đồ què, mù, thối tha…”) và cũng không chửi hết ngày này sang ngày khác như chúng ta.

Quê tôi bên bờ sông Hồng, phía trong đê là đồng cấy lúa, ngoài đê gần bờ sông là trang trại hàng năm vào khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch nước lụt dâng lên, mỗi nhà ở trên nền đất đắp cao trông như một hòn đảo.
 
Tôi nhớ hồi còn bé có hai bà hàng xóm mới làm thông gia với nhau được ít lâu đã xảy ra xích mích vì bà bênh con bà, tôi bênh con tôi (vợ chồng trẻ nào mà không có trách móc, cãi cọ vặt). Lúc đầu chỉ trao đổi qua những tiếng bóng gió của bà mẹ vợ  sau biến thành chửi nhau công khai.
 
 Hai nhà ở cách nhau qua một khu vườn độ 50 mét (150 feet) đang bị nước lụt dâng cao làm giới tuyến ngăn cách, mỗi bà ở một bên chửi chõ sang nhà nhau mấy ngày mới dứt. Giờ ăn, giờ ngủ  là những cuộc tạm đình chiến:

- Bà chửi mày bẩn cả miệng, để bà xúc miệng xong bà sẽ đào mồ, đào mả nhà mày lên.

- Quân chết tiệt, đói thì về nốc đi, lấy sức mà nghe tao lôi ông bà, ông vải nhà mày ra tao dạy.

Những lời chửi bới thô lỗ, cay độc nhưng lại có vần, có điệu. Đại khái:

Mả cha mày dưới đất
Tao hất lên trời
Tao phơi ngoài lộ
Cho quạ nó mổ
Cho chó nó tha
Cho ông đi qua
Cho bà đi lại
Vén đá…ị…lên đầu
Nhục ơi…là nhục.

Bà kia không kém:

Thứ quân chua ngoa
Thằng cha mày dại
Tứ đại mày ngu
Tao kẹp vào khu
Tao kẹp vào háng
Tao đánh, tao mắng
Mặt cứ trơ trơ…

Chúng ta vốn kính trọng tổ tiên không hiểu sao người ta cứ thích đem ông bà nhau ra chửi. Mình không trọng Ông bà, cha mẹ người thì người không trọng ông bà, cha mẹ mình.

Sau đây là “bài chửi” mất trộm gà do học giả Lê văn Siêu ghi lại kèm theo lời bình luận:

“- A…con gà của tao nó ở nhà tao thì nó là con gà, nó vào nhà mày thì nó thành con cú, con cáo, thành thần nanh đỏ mỏ nó mổ vào đầu nhà mày. Mày trả con gà của tao thì thôi, mày ăn con gà của tao thì mày xưng cổ nổ hầu, mày chết trẻ đẻ ngược. Mày đi sông đắm đò, mày đi đường chết chợ.
 
Tao chửi cho đến ông tam đại nhà mày trở xuống, cho đến mục mả nhà mày ra mới thôi…” (Lê văn Siêu, Văn Minh VN trang 224).

Sau đây là lời bình của nhà học giả: “Chửi cho đến đầu rau phải múa, chúa đất phải cười.
 
Chửi cứ như là hát hay. Chửi sôi lên sùng sục, đục lên lờ lờ. Chửi mà thành vần, thành điệu lên bổng xuống trầm.” (Lê văn Siêu, VMVN trang 225 ).

Việc chửi bới trên gần như mai một nhưng việc hay cãi cọ vẫn tồn tại ở trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
 
Chúng ta hay chấp nhất những chuyện nhỏ nhặt và không có tinh thần bao dung.

 

 

Wednesday, August 14, 2013

NI CÔ VIỆT NAM "THAY NÂU SỒNG MẶC QUÂN PHỤC"


From: KHÁNG CỘNG CỨU NƯỚC <
Date: 2013/8/14
Subject: NI CÔ VIỆT NAM "THAY NÂU SỒNG MẶC QUÂN PHỤC"
To:


NI CÔ VIỆT NAM "THAY NÂU SỒNG MẶC QUÂN PHỤC"


Theo Tin Của BBC Việt Ngữ

Chính quyền yêu cầu các ni cô diễn văn nghệ nhân ngày kỷ niệm chính trị

Dư luận trong nước đang ồn ào về một buổi văn nghệ ở huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh, trong đó các ni cô xuất hiện trong trang phục bộ đội và cầm súng.

 

Trên mạng xã hội Việt Nam đang lan truyền hình ảnh các ni cô mặc trang phục đời thường trình diễn văn nghệ trên sân khấu mà nhiều người cho là ‘phản cảm’ và ‘báng bổ Phật giáo’.

Tuy nhiên, một vị ni trưởng có liên quan lại nói rằng chương trình này diễn ra ‘hoàn toàn theo ý của chính quyền’ và các ni cô đã trình diễn ‘một cách vô tư’ mà không nghĩ gì đến hậu quả.

 

Sự việc xảy ra hôm thứ Sáu ngày 9/8 tại chùa Pháp Hải, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh, chỉ vài ngày trước khi chư tăng ni ở Việt Nam chấm dứt ba tháng cấm túc tu tập kéo dài từ tháng Tư đến tháng Bảy âm lịch vốn được gọi là An cư kiết hạ.

‘Ngày hội nữ tu’


Theo giới luật nhà Phật, trong ba tháng mùa hạ, chư tăng ni phải tập trung tu tập và hành thiền để tinh tấn về cả giáo pháp và đạo hạnh, hạn chế đi ra ngoài để tránh giẫm đạp sinh linh cũng như tiếp xúc với bên ngoài.

Chùa Pháp Hải là một điểm an cư cho các ni cô và ni sinh trên địa bàn huyện Bình Chánh.

Sự việc đã thu hút sự chú ý của dư luận sau khi trang mạng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vốn thường được gọi là ‘giáo hội nhà nước’, đăng tải phóng sự ảnh về ‘Ngày hội nữ tu’.

Những bức ảnh được đăng tải cho thấy các ni cô không còn vận nâu sồng mà thay vào đó là áo tứ thân, áo dài khăn đóng và những trang phục cách điệu sặc sỡ đang múa hát.

"Phật tử bình luận: “Xưa chỉ có người diễn vai tu sỹ để tỏ lòng ca ngợi chánh pháp, đạo lý. Sao giờ lại có chuyện người tu hành cởi áo cà sa, giả trang trần tục để diễn vai chiến tranh"

Người ký tên Phật tử trên trang nhà của Giáo hội

Thậm chí, trong một tiết mục, các vị nữ tu này còn vận vào trang phục bộ đội thời chiến, đội mũ tai bèo và cầm súng giả lên sân khấu.

Hiện giờ bức ảnh gây tranh cãi này đã được dỡ ra khỏi phóng sự ảnh.

Phông nền của sân khấu ghi rõ đây là sự kiện do ‘Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Bình Chánh’ chủ trì.

Trang mạng của Giáo hội còn cho biết đây là sự kiện này được tổ chức nhân ‘kỷ niệm 65 ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi thi đua ái quốc’ nhằm ‘đẩy mạnh phong trào rèn luyện của nữ tu’ nhưng không thấy đề cập buổi trình diễn này có liên quan gì đến đợt an cư kiết hạ hay không.

Theo phóng sự ảnh này thì đây là ‘lần đầu tiên’ Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Bình Chánh tổ chức trình diễn văn nghệ nhân dịp kết thúc ba tháng mùa hạ.

Thượng tọa Thích Huệ Minh, phó Ban trị sự Phật giáo huyện Bình Chánh, được dẫn lời nói đây là ‘mô hình thật hay.. .cần phải mở rộng trong mùa An cư kiết hạ những năm sau’.


Tuy nhiên, nhiều người không có cùng suy nghĩ với Thượng tọa Thích Huệ Minh.

Cũng chính trên trang nhà của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, phóng sự ảnh này đã nhận nhiều lời chỉ trích.

Một người ký tên là Phật tử bình luận: “Xưa chỉ có người diễn vai tu sỹ để tỏ lòng ca ngợi chánh pháp, đạo lý. Sao giờ lại có chuyện người tu hành cởi áo cà sa, giả trang trần tục để diễn vai chiến tranh?”

“Ngày nay tu giống đời thường quá. Buổi văn nghệ không khác chi ngày hội tòng quân. Chả trách đạo đức thời nay xuống cấp trầm trọng,” một người tên Kiên viết.

Một người khác ký tên là Hoàng Khôi bức xúc: “Đạo Phật mong cầu thoát khỏi thất tình lục dục. Thi thố ăn thua, đàn ca hát xướng, cởi áo nầu sồng khoác áo lính. Các vị có thuộc các giới mà Phật đã dạy cho ni chúng không?”

‘Rất phiền lòng’


Cũng trong phóng sự ảnh này, Ni trưởng Thích Nữ Huệ Ngọc, viện chủ Chùa Pháp Hải, được mô tả là ‘vô cùng hoan hỷ’ về ngày ‘Ngày hội nữ tu’ này. 

Một tiết mục văn nghệ của các ni cô

Đây là hoạt động vào cuối mùa An cư kiết hạ khi các ni cô chuẩn bị trở về tu viện của mình

Tuy nhiên, trao đổi với BBC, Ni trưởng Huệ Ngọc nói bà cảm thấy ‘rất phiền’ khi sự việc để lại dư luận không tốt như thế.

Bà cho biết đây là sự kiện do hội phụ nữ chứ không phải nhà chùa đứng ra tổ chức.

“Họ đề xuất mình có năng khiếu sáng tạo gì nhân ngày 60 năm Bác Hồ kêu gọi,” bà nói, “Nhà chùa chỉ là nơi mượn địa điểm để tổ chức”.

“Bên phụ nữ yêu cầu chủ để ca ngợi đất nước và người phụ nữ nên làm như vậy thôi”.

“Họ nói là chủ đề 60 năm lời kêu gọi của Bác Hồ gì đó. Tôi không rành đâu, tự vì mình tu mình cũng hổng rành các việc đó,” bà nói.

Khi được hỏi các tiết mục trình diễn có liên quan gì đến Phật giáo không, ni trưởng trả lời ‘họ (chính quyền) chỉ yêu cầu cái đó thôi’.

Bà cũng giải thích là các hành giả an cư ‘chỉ vô tình’ nhưng để xảy ra hậu quả như thế là ‘ngoài ý muốn’.

“Họ không nghĩ gì hết (khi tham gia trình diễn),” bà nói.

“Đúng là ra người xuất gia không làm như vậy, không bận những đồ thế (thế gian) như vậy,” ni trưởng phân trần, “Nhưng chỉ còn hai ngày nữa là ra hạ, là ngày chư Phật hoan hỷ nên các vị bên Ban trị sự muốn có một ngày chia tay cho các hành giả nên mới đồng ý.”

Bà cho biết sau khi sự việc xảy ra các hành giả có nói lại cho bà biết những phản ứng của dư luận là ‘rất nặng’ và các vị ni cô ‘cảm thấy rất buồn’.

Sunday, August 11, 2013

Chú Chó Trung Thành


From: ngocdtran
Date: Mon, 1 Jul 2013 12:10:20 -0700
Subject: Chú Chó Trung Th ành

 

 

        Văn Hóa Sống Trên Đời


* Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC


LTS: Phải đặt mình vào các cụ ta xưa khi còn sống ở Động đình Hồ, Cao bằng, Lạng Sơn, Ba Vì, Việt trì

Tuyên Quang, Phú thọ…đời sống còn quá thô sơ chân chất, quanh năm chi có tôm cá bắt được ở các sông ngòi, hồ ao, rau hái trong rừng hoặc vườn sau nhà, gà vịt, lợn, trâu bò còn rất ít không dám giết thịt, vả nghèo thì tiền đâu mà giết gà vịt, lợn bò? Chó nuôi giữ nhà nhưng lúc cần phải dùng nó cho bữa tiệc của con người thì cũng phải đành, chứ ai không thuơng nó. Mời bạn đọc đi sâu vào truyện ngắn sau đây của Nhà văn Bút Xuân TĐN để hiểu được vì sao chúng ta lại có Văn hóa Sống trên đời. Trân trọng.

Trước hết, Văn hóa thường được định nghĩa   như một tập hợp tòan thể các họat động nói chung của con người trên một lục địa, một miền, trong một dân tộc, một bộ tộc v.v...Thí dụ ở thời cổ có Văn hóa Ai Cập, Văn hóa Trung Hoa, Văn hóa Ấn Độ, Văn hóa Mesopotamia, Văn hóa Âu châu, Văn hóa Hi lạp v.v...Ngày nay có Văn hóa Tây phương, Văn hóa Đông phương, Văn hóa châu Mỹ Latinh v.v...

Ăn là một nét đặc thù của Văn hóa vì ăn đứng đầu và quan trọng nhất trong sinh họat của con người. Ngày Tết bàn về  các món ăn là điều rất hợp vì cổ nhân ta thường nói:

       Làm như ngày dưng ăn sao cho hết

       Ăn như ngày Tết lấy gì mà ăn.

Món ăn ngày Tết thì nhiều, rất nhiều, nhớ không xuể kể không hết, nhưng vì là năm con Chó, chúng ta  chỉ  giới hạn một món cờ tây, món sống trên đời, thức ăn khoái khẩu bổ dưỡng đã từng được ca tụng hết mình do nhiều văn nhân, thi sĩ trong văn chương bình dân.

       Sống trên đời ăn miếng dồi chó

       Chết xuống âm phủ biết có hay không?

Chết là bỏ lại tất cả mà vẫn còn nhớ nhỏm cái món thích khẩu ấy, đủ biết nó phải ngon như thế nào!

Tuy nhiên, vì người Việt hiện nay di tản đi khắp cùng thế giới nhập nhiễm nhiều nền Văn hóa địa phương nên khi nói về “Văn hóa Sống trên đời” hay “Văn hóa cờ tây”, chúng ta phải giao hẹn với nhau thế này. Trước nhất phải dùng cái tâm thức thuần túy Việt Nam để cùng bàn bạc vì món cờ tây là một món ăn đặc thù không món ăn Việt hoặc ngọai quốc nào tương tự. Nếu nói chuyện hạ cờ tây với lớp người trẻ Việt đã sinh ra hoặc sinh sống nhiều năm tại Hoa kỳ, Âu châu ... đã nhiễm tư tưởng học thuật Tây phương; các bạn trẻ này sẽ không thể hiểu được vì sao người ta dám...giết chó và ăn thịt chó.

 Thứ hai, nếu bạn đã từng thưởng thức món “hương nhục” ở Việt Nam và nhận biết nó ngon không thua một thứ thịt gì, hoặc có phần trội hơn, thì câu chuyện đang kể bạn nghe đây mới lí thú, bằng không nó chỉ là những dòng chữ chóan cho đầy trang báo mà thôi.

Để cho có đầu đuôi, chúng ta nên ngược dòng từ nguồn gốc. Quí bạn đọc cũng dư biết Bắc Việt chính là cái nôi của nước Việt Nam ta. Nông thôn Bắc Việt, một năm mới có một lần Tết, có nhiều người, một năm mới được ăn thịt một lần vào dịp Tết, thế thì Tết chẳng đáng cho người ta mong chờ, quan trọng hóa và hồi hộp khi trống mõ làng báo tin Giao thừa sao?
 
Chẳng nói đâu xa, chỉ ngay trong thời Pháp thuộc, vật trâu vật bò là chuyện đại sự của làng, của tổng, của huyện; mổ heo khi có đình đám lớn của làng hay tư nhân khá giả. Còn một, hai gia đình, khi có lễ lạc, mừng rỡ chỉ dám hạ cờ tây là cùng vì tiền đâu mà mua heo, mua bò? Cờ tây tiện ở chỗ vừa túi tiền, nó rẻ hơn heo, bò. Bốn gia đình đánh đụng một con tức mỗi phần một đùi là đủ cho một dịp lễ lạc, vợ chồng, con cái no nê hạnh phúc.
 
Cờ tây lại cũng ngon không thua bất cứ thứ thịt gì ngòai chợ, nó lại được tiếng là bổ dưỡng, kiện tì, tráng thận, ích tim. Bằng ấy lí do xác thực, người nông dân Bắc Việt đa số tay làm hàm nhai khi xưa chẳng ăn cờ tây thì ăn cái gì cho có chút thịt thà ngày lễ, ngày tết? Một điều nữa, gia vị cho heo, bò thì tốn chứ gia vị cho cờ tây chỉ kiếm trong vườn. Con cháu gái cứ xách rổ ra vườn đào vài mậm riềng, xắn vài củ chuối non, hái một ít xương xông, mìn tưới, ngò gai, húng quế, húng lủi và nhất là lá mơ tam thể đang leo từng bụi lớn, chọn lá ngon mà hái.
 
Thế là xong! Đỗ xanh và vừng, nhà nào không trữ? Vài đồng bánh đa đem nướng lên. Vài cút rượu đâu mua từ cô hàng rượu bán rong sáng nào không nhởn nhơ khắp giong, khắp xóm trêu nguơi mấy anh bợm nhậu?

       Còn trời, còn nước, con non

       Còn cô bán rượu anh còn say sưa!

                                         (Ca dao)

Dễ dàng vậy và giản dị vậy, lại rất bình dân học vụ, chẳng nhắm vào cờ tây thì còn nhắm cái gì?

Chúng ta cũng cần ghi nhận một điều tối quan trọng. Thịt chó ta khác thịt chó Mỹ, chó bẹc-dê xa lắc xa lơ, một trời một vực về phẩm chất vì chó ta xưa nay chỉ ăn cơm, ăn cám heo, mút mát miếng xương miếng xẩu  của chủ thải ra nên chó ta thịt thơm, dòn cũng ví như thịt gà thả rẫy, gà đi bộ chứ không phải lọai gà nhốt trong chuồng, nuôi thúc cho béo, thịt mủn mùn.
 
Của đáng tội, dù không thanh lắm cũng phải thêm rằng, thỉnh thỏang ban đêm thằng cu Tèo hay cái Đĩ nhớn, Đĩ bé có yếu bụng, mẹ nó chẳng cần phải gọi bố nó nằm chình ình bên cạnh mà cứ việc mắt nhắm mắt mở cầm hai cẳng chân đứa con giơ ra. Vàng, Vện hay Mực đã túc trực từ bao giờ, tự động lo liệu sạch sẽ như lau như li. Xong việc, hai mẹ con lại trùm mền ôm nhau ngủ tiếp không phí đến mươi giây đồng hồ trong khi “bố nó” vẫn cứ ngáy đều như cái bễ lò rèn. Thật là tiện lợi!

Trở lại những năm tôi còn đi dạy học ở Sàigòn, quen biết cũng khá nhiều, dân ở thành cũng đông mà dân miền quê ỏ các tỉnh phụ cận cũng lắm, một số là phụ huynh học sinh có con học tôi tại Sàigòn.

Một bữa thứ bảy mát trời, ba ông bạn đến rủ đi chơi. Hai ông và hai bà  ngồi chung chiếc xe Jeep dân sự với tôi và nhà tôi; còn một ông chở bà xã trên chiếc xe Vespa lái theo sau vì xe của tôi đã quá chật.

Lái xe ra xa lộ Biên hòa, chưa biết có nên đi Lái Thiêu mua ít sầu riêng, măng cụt và soài cát, thì chợt ông bạn ngồi phía sau - Được - nói:

       “Ði Hố Nai kiếm thịt cầy ăn đi cậu! Tớ thấy nhớ thịt cầy rồi.”

Vì chẳng có định kiến, nghe đề nghị, tôi đáp:

       “Ừ thì Hố Nai!”

Xa lộ do nhà thầu Hoa Kỳ RMK làm, phẳng phiu láng bóng như mặt kiếng, chẳng bao lâu chúng tôi đã tới Hố Nai. Hai chiếc xe ngừng trước một ngôi nhà khang trang, sân gạch, tường xây, mái tôn. Hai con chó nhỏ xồ ra sủa inh ỏi làm ông chủ nhà đã có tuổi bước ra:

       “Ủa thầy giáo Vũ! Sao lạ lùng vậy?”

       “Chào bác. Chúng tôi đến thăm hai bác đây. Hai bác và gia đình có khỏe không?”

Ông chủ nhà mời chúng tôi vào phòng khách, bảo đứa con gái nhỏ nấu nước pha trà. Ông là hàng xóm của tôi năm xưa khi tôi có căn nhà ở  khu Chợ Quán, hơn nữa, mấy đứa con ông đã học tôi mấy năm. Sau đó gia đình ông dọn về khu Hố Nai hố bò này nhưng thỉnh thỏang lên Sàigòn ông vẫn ghé thăm chúng tôi.

       “Mời thầy cô giáo và các ông các bà  mời nước.”

Sau khi uống xong được một tuần trà, bác Hạng - tức ông chủ nhà - hỏi tôi:

       “Thầy giáo Vũ đến thăm chúng tôi hôm nay còn có việc gì không?”

Tôi đặt cái tách Nhật xuống khay:

       “Anh em muốn bác cho thưởng thức một bữa nai đồng quê. Tiệm tùng không thiếu nhưng thấy không ngon và sạch sẽ bằng ở nhà làm.”

       “Quá dễ. Để tôi bảo cháu Long lo liệu.”

Tôi móc túi lấy xấp giấy bạc trao vào tay bác Hạng:

       “Bác trao cho anh Long để trả tiền con cầy và mua gia vị.”

Bác Hạng giẫy nẩy:

       “Ấy không, thầy cô giáo với các ông các bà xuống thăm gia đình tôi là quí lắm rồi. Thường ngày cha con tôi cũng mua về giết hòai. Chúng tôi đãi thầy cô giáo và các ông các bà một bữa không được sao?”

       “Được vẫn là được, chỗ bác với chúng tôi mà. Nhưng xin bác cứ cầm cho chúng tôi vui lòng. Lần sau chúng tôi mới dám đến quấy rầy bác nữa.”

Bác Hạng vẫn không cầm nhưng tôi nhất định không nghe, cứ dúi tiền vào tay bác, đóan chừng số tiền ấy cũng đủ để làm bũa tiệc.

Anh Long, con lớn bác Hạng nghe bố dặn dò ở dưới bếp xong lên chào chúng tôi rồi ra đề xe Lam ba bánh chạy đi. Bác Hạng bảo với chúng tôi, tuyến đường xe Lam đưa khách  hôm nay người kia chạy, Long được nghỉ.

Chẳng bao lâu, tôi thấy Long về, khệ nệ vác một cái bao tải. Anh ném ịch cái bao xuống sân gạch và lôi ra cho chúng tôi coi một con chó vàng to trung bình, lông ngắn, tai nhỏ mới khỏang hơn năm, giống chó ta hòan tòan.

 “Nhất bạch, nhì hòang, tam khoang, tứ đốm.” Được lắm đây. Nhưng các thầy lang ta lại cho điểm Mực cùng với bạch đứng đầu sổ:”Nhất bạch, mực, nhì hòang, tam khoang, tứ đốm”vì các cụ nói cái mật con chó mực chữa được nhiều bệnh lắm. Để chiều các cụ “lương y như từ mẫu”, thôi cũng cứ được đi.

Con chó đã bị trói bốn chân và mõm không cựa quậy được, đôi mắt của nó trông thật buồn rầu. Sau khi cho coi, Long đưa chó ra vườn sau, ở đó có bác Hạng gái, vợ Long và mấy đứa em phụ việc mổ chó và nấu nướng. Để cho chúng tôi được tự nhiên, bác Hạng cũng rút về phía nhà bếp.

Cũng như mọi lần đã đến đây ăn, tôi không nghe một tiếng chó kêu vì Long nói, để nó bớt đau đớn, Long đã cho nó một cái vồ vào giữa ót xong mới cắt tiết.

Chỉ hơn tiếng sau, khi chúng tôi đang đánh chắn ở phòng khách giết thì giờ thì chợt nghe mùi chả nướng thơm tưng thơm lừng theo khói từ ngòai sân bay vào. Vợ anh Long và vài cháu gái khác lên bày bàn ăn. Khỏang nửa tiếng sau, bác Hạng mời bọn tôi nhập tiệc. Tôi hỏi bác Hạng:

       “Hôm nay anh chị Long làm có vẻ nhanh dữ. Chỉ mới ba tiếng từ lúc đi bắt chó mà bây giờ đã được ăn?”

       ‘Hôm nay quả nhanh thực vì con chó này tôi đã mua xong và trả tiền cho chủ, Long cứ đến là trói đem về. Còn nếu lại phải đi hỏi dăm, ba nhà mới mua được thì mất thời gian thêm. Việc nấu nướng cũng đã qui họach từ trước. Ai việc nào cứ việc ấy, từ người pha thịt đến người đâm riềng, nhặt rau thơm nên bớt việc mà lại nhanh. Ấy vợ chồng Long nó tính nếu mệt về cái xe ba bánh này thì chúng cho mướn, xong ở nhà mở một quán cầy tơ, ngày giết một con cũng đủ sống. Cái quán ở đầu xa lộ đường vào Biên hòa nghe nói ngày tiêu thụ ba con cơ đấy. Nào mời thầy cô và các ông các bà.”

       “Mời hai bác cùng ngồi ăn cho vui.” Tôi nói.

       “Vâng, tôi xin ngồi tiếp thầy cô và các ông các bà một lát thôi. Tôi ngồi lâu mỏi lưng không chịu được.”

Chúng tôi đã mang theo một chai rượu thuốc  của chú Năm ngã ba Tân Vạn vì có mồi ngon mà thiếu chén rượu “bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi” này thì mồi ngon cũng hỏng. Lại có thêm bia 33 và bia-lây, ai không hạp rượu thì uống bia, các bà không uống  bia thì uống bia-lây. Nhưng quả thực tuy không nói ra, ăn thịt cầy mà uống nước ngọt thì cũng y như mặc áo gấm đi đêm ba mươi, nó phí cả thịt cả áo đi. Thịt cầy chỉ đế, uống đến la-de đã là bết rồi.

Tôi phải xuống bếp cố chèo kéo bằng được Long lên bàn ăn. Long là học trò cũ của tôi những năm lớp 10 và lớp 11, sau đó đi khóa Hạ sĩ quan Đồng đế, bị thương đang khi huấn luyện, được tạm thời về chờ ngày ra Hội đồng Miễn dịch quyết định thương tật.

       “Mời thầy cứ tự nhiên. Con còn bận tay lắm. Con phải coi nồi xáo này để lát quí vị ăn bún.”

       “Cứ để đó cho chị ấy coi giùm. Lên uống với thầy một li đã.”

Long bất đắc dĩ phải để cho vợ coi và lên bàn ngồi, nhưng chỉ uống hết một li la-de là đã cáo lỗi trở xuống bếp.

Một cái bàn lớn đầy những đĩa, những bát. Đầu tiên, theo thông lệ, chúng tôi ăn tiết canh. Những lát gan thái mỏng đặt kín trên mặt đĩa tiết canh đông cứng đã để tủ lạnh một lúc, trên đó là đậu phọng rang đâm nhỏ và lưa thưa mấy lá ngò gai, húng quế. Chúng tôi nâng những cái chén nhỏ đặc biệt để uống rượu rắn hổ, to hơn chén mắt trâu một chút. Uống kiểu này không có uống từ từ mà cứ mỗi chén chỉ tợp một cái ực. Thế mới ngon. Thế mới đã. Vắt chút chanh vào miếng tiết canh, ngắt vài cái lá húng quế, ngò gai, ngò ôm bỏ lên trên,  rồi từ từ và vào miệng. Ôi chao sao nó ngon, nó bùi!
 
Nhất là miếng tiết canh đang ăn lại trúng ngay cái cổ họng con cầy nhai sần sật trong miệng. Miệng nhai nhưng tay vẫn bẻ miếng bánh đa vừa nướng dòn tan, thơm phức ăn kèm. Món tiết canh này nghe đâu đã có từ thời Hồng Bàng vì các cụ ta quí máu huyết lắm. Trâu, bò, lợn, gà, vịt...khi giết các cụ không bỏ huyết đi bao giờ. Quí cũng phải vì máu huyết trong mỗi sinh vật chính là sự sống còn của sinh vật đó. Thiếu huyết, cạn huyết, sinh vật lăn quay ra ngay. Tuy nhiên, về cái “sự cố”đánh tiết canh,  chúng ta còn thua người Lào và người Lào-Hmong một bậc. Chúng ta chỉ ăn tiết canh vịt chứ không ăn tiết canh gà nhưng các người Lào và Lào Hmong lại hãm tiết gà đánh tiết canh thưởng thức cũng y như vịt vậy. Và họ khen rất ngon.

 Xong tiết canh thì đến các thứ khác như chả nướng trên bếp than, có rắc mè lên trên. Những miếng thịt vàng ươm vì có ướp bột nghệ, hành, riềng, mẻ, nước mắm đem nướng trên than, khi mỡ sôi xèo xèo trên mỗi miếng thịt và thịt săn lại, ngả mầu nâu nhạt ấy là chả đã chín. Một hớp rượu, một miếng chả, mảnh bánh đa, mảnh riềng mỏng, vài cọng húng, lá mơ. Đời quả là đáng sống, các cụ ạ!
 
Chắc Lưu Linh, bợm rượu và hai ông Lưu Thần, Nguyễn Triệu lạc vào động Thiên thai xưa kia được tiên cung phụng cũng chỉ ăn ngon đến thế! Ghiền thịt cầy nhà sư giả dạng Lỗ trí Thâm trong chuyện Thủy Hử hay 108 Anh hùng Lương sơn Bạc làm gì có chả nướng, rựa mận mà ăn. Đùi chó luộc, ông cứ bỏ vào tay nải, hễ ngon ngót bụng lại moi ra ngọam, chấm chút muối. Riềng, lá mơ chẳng có, bánh đa thì không, may ra có được vò đế nhưng ăn mộc tồn kiểu đó sao bằng chúng tôi đang thưởng thức với đầy đủ gia vị, rượu ngon ở nhà bác Hạng đây. Yến lão đã là nhất nhưng không hơn bữa hạ cờ tây này được.

Sách kể rằng có mấy nhà sư chân tu có vẻ khi dể chế diễu ông Lỗ khi ông uống rượu và ăn thịt chó tì tì:

Đi tu Phật đã dạy rằng:

Chớ ăn thịt chó, chớ năng liếc đào!

 Ông Lỗ giận lắm, một lần, hai lần rồi ba lần, không nhịn nổi nữa, ông không nói không rằng xô tới dằn ngửa nhà sư kia ra ở ngay sân chùa, thồn đùi chó vào miệng, bắt ăn bằng được, gây ra một cuộc vật lộn thi đấu quyền cước công phu dữ dội, đá cát bay mù mịt làm anh hùng hảo hớn trong giới võ lâm cười vỡ bụng.

Sau tiết canh và chả là đến rựa mận. Cờ tây bảy món mà. Miếng thịt do lửa riu riu quánh lại với nhau thấm đủ các thứ gia vị như riềng, mẻ, xương sông, lá mơ, thơm mùi thơm đặc biệt không thứ thức ăn nào có. Thịt nấu rựa mận còn cả da, vừa nạc vừa mỡ, tuy nhiên chó ta hong hong con - với phụ nữ gọi là mình dây - mỡ ít mà thịt nhiều. Khi ăn ta thong thả vừa nhai vừa ngẫm nghĩ cái bùi béo, thơm tho, mảnh da dòn sần sật và phải chịu rằng các thứ gia vị đã tạo cho miếng thịt cầy một ý vị đằm thắm, một hợp chất hài hòa đến không thể nào làm hơn. Cũng có những người lại thích ăn rựa mận với chút bún trắng tươi, lấy làm vô cùng mãn nguyện.

 Lại đến cái món dồi. Đúng là Sống trên đời. Ruột chó được “ken” có ngghĩa là rửa thật sạch bằng những chất khử mùi hôi nhu chanh, lá khế, muối để những chất lờn, chất dơ theo nước rửa đi ra hết chỉ còn lại bộ ruột dài thòng, mỏng, dai, sạch sẽ từ trên xuống dưới. Nhân bên trong dồi là thịt, mỡ vụn, tiết đọng, là mơ, ngò gai, húng quế và cả đỗ xanh, tất cả đã cà, đã đâm nhỏ trộn với riềng mẻ, mắm tôm, nước mắm... Sau đó, nhân được nhồi vào trong ruột cho đầy, cho chắc. Bịt hai đầu lại, lấy kim châm một ít lỗ thông hơi trên khúc dồi xong cho vào nồi nước luộc đang sôi.

 Sau khi luộc xong, Long còn đem cả khúc dồi quấn vào một thanh tre đem hơ trên bếp than cho đến khi mầu da vàng hực, miếng dồi chắc và khô. Dồi thái ra đặt chung với tim, gan  và khi ăn, ăn nó với thịt luộc cùng một lúc. Dồi và luộc thì phải chấm mắm tôm chanh, đánh cho thật nổi lên, thêm chút đường cho dịu. Cùng là những thứ nhà quê nhà mùa với nhau, mắm tôm chanh sao lại ăn ý hết mình với thịt cầy như thế. Còn nếu ai không quen với mắm tôm thì cứ muối tiêu chanh cũng chẳng sao.

Thịt chó ngon như thế không hổ là thịt chó Việt và các tiền nhân ta, các người đã ăn, đã mê nó không phải là vô lí. Danh bất hư truyền.Chứ cái giống chó bẹc-giê, chó Mỹ, sống để làm cảnh, chết chôn chứ ai dám động vào một miếng thịt hôi rình và nhẽo nhèo nhèo của nó?

Khi chúng tôi đã thấy gần no rồi, sắp sửa buông chén buông đũa thì chị Long khệ nệ bưng lên một thố thịt hầm củ chuối để ăn với bún. Dù là món cuối, bao tử không tiếp nhận được mấy nữa nhưng món hầm ăn với bún này thật ngon, mỗi người cũng phải một tô nhỏ vơi vơi.

Chúng tôi ra khỏi nhà bác Hạng thì trời đã ngả chiều. Trên đường về, các bà còn đòi cho ghé mấy quán bên đường mua bưởi Biên Hòa, thứ bưởi tôi nghĩ ngon nhất thế giới,  cũng như khóm Long An.

Sau ngày 30-4-1975, di tản sang nước Mỹ, tôi có cái may mắn là được ở cùng một thành phố miền Đông Nam cùng với một số quân nhân Hạ sĩ quan và binh sĩ trước kia dưới quyền tôi trong một đơn vị. Kể cả gia đình tôi là bảy, chúng tôi cùng được một nhà thờ Tin Lành bảo trợ từ Guam sang và nhà thờ mướn cho chúng tôi mỗi gia đình một căn trong chúng cư thuộc một khu trung bình không quá giầu cũng không quá nghèo trong thành phố mà mùa Đông tuyết rơi ngập đường đi lên cả foot. 

Có gia đình và bạn bè thật đấy nhưng sao những ngày đầu đến đây, chúng tôi vẫn buồn nẫu ruột. Hầu như ai cũng còn cha già mẹ héo, anh chị em, cháu chắt bỏ lại nơi quê hương. Chúng tôi nao lòng khi nghĩ đến đại đơn vị và các cấp chỉ huy, các bạn cũ  sau khi sẩy đàn tan nghé, những bạn bè nào còn sống, những ai đã nằm xuống và quê hương yêu dấu khi xưa giờ chỉ còn là một nơi tan hoang, điêu tàn, đau khổ cho những người còn đang phải đối diện với những thực tế chua chát não lòng.

Càng đau khổ, chúng tôi càng tựa vào nhau, bám víu vào nhau để tìm lẽ sống bởi xung quanh chỉ tòan là xa lạ, hờ hững, lạnh lùng. Thực ra, giáo dân của giáo xứ bảo trợ đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi: tặng giường, nệm, bàn ghế, nồi niêu bát đĩa, tuy đã dùng nhưng thảy đều còn tốt, còn đẹp. Ngòai những buổi lễ chủ nhật chở chúng tôi đến làm việc phụng vụ tại nhà thờ, họ cũng thay phiên chở chúng tôi đi chợ mua thêm thức ăn, đi bưu điện, đi bác sĩ và cả đi làm.

Sau hơn tháng, chúng tôi được chở đi thi lấy bằng lái xe nhưng chỉ có tôi và một người nữa đậu vì 100 câu hỏi được đặt vào những chiếc máy computer, thi abc khoanh nhưng phải hiểu câu hỏi rồi mới bấm vào câu trả lời trên màn hình. Bữa thi, khi tôi còn đang tiếp tục làm bài thì bỗng cái máy reo lên một hồi chuông dài. Cô thư kí đến bảo tôi đậu rồi vì tôi đã đáp trúng 75 câu. Nếu làm xong 100 câu mà không trúng được 75 thì kể như hỏng. Tôi vui nhưng thấy năm bạn rớt nên cũng ái ngại cho các bạn. Họ là những tài xế rất giỏi trong đơn vị nhưng khổ cái chưa học tiếng Anh bao giờ. Để có đủ trình độ làm bài thi này, tôi không nghĩ chỉ học sáu tháng. Nếu được thi bằng tiếng Việt thì quả là may mắn.

Tôi không hiểu nếu cả bảy người trong nhóm chúng tôi đều đậu thì giáo xứ có đủ xe cũ phát cho anh em chúng tôi mỗi người một chiếc  không nhưng một tuần sau khi Sở Lộ Vận thành phố gửi bằng lái xe cho tôi và Mười thì đồng thời ông chủ tịch Hội đồng giáo xứ cũng giao cho tôi và Mười mỗi người một chiếc xe. Tôi được chiếc Chevrolet, Mười được chiếc Ford, cả hai đều tám máy, bự tổ chảng tuy ghế nệm giữ kĩ còn khá mới. Máy xe còn khá tốt, không có bệnh gì chỉ mỗi tội chúng uống xăng quá ấy là lúc đó xăng chưa tới nửa đô-la một ga-lông.Từ nay, tôi và Mười tình nguyện làm tài xế cho cả bảy gia đình cho đến khi mỗi gia đình có được ít nhất một người tài xế và một chiếc xe.

Chúng tôi đưa nhau đi làm để kiếm sống bằng hai chiếc xe “đầu đời” này. Làm đủ thứ việc khi có người mướn: trồng cây, cắt cỏ, làm sạch vườn tược, tỉa cây, cưa cây, dọn dẹp kho hàng... Khi mới chân ướt chân ráo tới đây, tiếng Anh tiếng U còn quá dở thì không có quyền kén việc mà chỉ có việc kén người miễn sao cho các bà xã có đủ gạo và thức ăn nấu nướng mỗi ngày, đám trẻ nhỏ được cắp sách đến trường là vui rồi.

 Ba tháng đầu, chúng tôi không phải lo tiền nhà vì đã có giáo xứ yểm trợ.

Mỗi thứ bảy, chúng tôi vẫn luân phiên tổ chức ăn uống truyện trò cho đỡ nhớ nhà. Các bà xã bày ra nấu bún bò Huế, phở, bún riêu, rán chả giò, làm nem cuốn. Nhưng ăn mãi các thứ này rồi cũng chán. Một bữa, thượng sĩ Chửng, nói với tôi và cả bọn:

       “Có một món nhớ quá đã lâu không được ăn, ông thầy ơi!”

       “Món gì vậy chú Chửng?” Tôi hỏi.

       “Ông thầy có nhớ ngày xưa thỉnh thỏang ông thầy vẫn bảo tụi tui đến Sở bắt chó đường Yên đổ xin cờ tây về nhậu không?”

       “Sao quên được. Nhưng ở đây đâu có xe bắt chó?”

       “Để tụi em tính, ông thầy.”

Tôi thấy manh nha một cái “sự cố” không nên, không phải bèn chặn ngay:

       “Ấy, cái xứ này người ta trọng mấy con cầy lắm. Họ gọi chúng là “man’s best friend”. Các chú có thèm thì mua giò heo thui lên nấu giả cầy ăn đỡ nhớ. Chớ có đụng vào mấy con khuyển kẻo tù rục xương đó.”

Thấy tôi lo ngại, Năm Gò Quao trấn an ngay:

       “Tụi em nhắc cho vui đấy ông thầy. Làm gì có cái vụ hạ cờ tây ở Mỹ.”

Chửng nhắc làm tôi nhớ ra, anh Q. thú y sĩ được đào luyện từ trường Quân Y là bạn tôi lâu ngày. Chúng tôi học với nhau năm Đệ Nhất tức lớp 12. Sau khi đậu Tú tài II, chúng tôi cùng ghi danh vào trường  Đại học Khoa học. Tôi theo ban Tóan ra làm nghề godautre, còn anh học Lý Hóa Sinh và thi vào trường Quân Y ra bác sĩ Thú y. Chúng tôi gặp lại nhau khi anh được bổ nhiệm về Sở Thú Y đô thành đường Yên Đổ, trong đó có  dịch vụ đi bắt chó lạc.

Ngồi với tôi trong một quán thạch chè đường Phan đình Phùng, Q nói có ngày xe bắt về cả hai, ba chục con chó vô chủ hoặc đi lạc. Chó nhốt lâu ngày rất tốn đồ ăn mà ngân quĩ có hạn nên thường phải giải quyết bằng cách chích thuốc cho ngủ rồi đem chôn tập thể nếu sau hai tuần chủ chó không đến nộp phạt chuộc chó về. Lúc đó,Trung đội của tôi vốn chỉ là một trung đội yểm trợ quân xa đóng ở Sàigòn nhưng cũng có khi chúng tôi đi ra những vùng phụ cận như Tây Ninh, Hậu Nghĩa ...để công tác. Tôi hỏi Q xin cờ tây cho Trung đội ăn thịt, có trở ngại gì không? Q. nói, mặc sức đem xe đến mà bắt. Thế là thỉnh thỏang khi có giờ rỗi rảnh một chút, tôi gọi điện thọai cho Q. xong bảo mấy đệ tử đến bắt chó, nhưng tôi không cho bắt nhiều, chỉ mỗi lần một con, khi nào muốn đãi cả đại đội mới bắt hai con. La-de Quân tiếp vụ, các thứ gia vị tôi bỏ tiền cho anh em đi mua, trực gác đã sắp xếp đâu vào đấy, cả mấy chục người chúng tôi trải bạt ra sân chén chú chén anh vô cùng hào sảng.

Như trên đã nói, tôi đã dặn đi dặn lại. Tất cả vâng vâng dạ dạ ngon lành trước khi ai về nhà nấy.

Nhưng khỏang hơn tuần sau, một bữa thứ bảy đến phiên chú Mười, khi đang ngồi trò chuyện tại bàn ăn, Mười cười cười bảo tôi:

       “Ông thầy lại đây em cho coi cái này.”

Vừa nói Mười vừa lại đứng bên cái tủ lạnh. Tôi theo Mười, vừa đứng trước tủ thì Mười mở tủ ra cho tôi nhìn thấy một cái đầu chó lông cạo sạch sẽ, đang nhe hai hàm răng trắng nhởn như răng ông da đen thuốc đánh răng Hynos ở Sàigòn. Tôi ngạc nhiên nhưng rồi nghĩ liền ra, mấy đệ tử thân mến của tôi bất kể lời tôi dặn đã bắt được con chó này làm thịt. Tôi chưa kịp nói gì thì thì cả bọn đã nhao nhao lên:

       “Tiết hãm đàng hòang ông thầy à. Đánh tiết canh, làm dồi, nướng chả, nấu rựa mận, bó giò, nấu xáo ăn với bún. Thầy trò mình hôm nay phải thiệt say nghen ông thầy!”

Đã đến nước này, tôi có lùi cũng không được mà có khi còn bị đồ đệ chê là ông thầy không chịu chơi, không chịu làm đầu tầu cho đám đàn em. Tuy nhiên tôi nói họ phải rất thận trọng vì nếu hàng xóm biết được thì rầy rà to:

       “Không phải là tôi nhát nhưng các chú phải rất cẩn thận. Nhà mất chó nó sẽ đi tìm, nó mà tìm ra báo Cảnh sát thì ở tù cả lũ, lại mang tiếng với người bản xứ nữa. Đã lỡ rồi thì đành chịu vậy nhưng đây là lần chót, nghe các chú. Vả lại, theo chỗ tôi biết, chó Mỹ thịt mủn và hôi vì chó Mỹ ăn thực phẩm riêng chứ không ngon và thơm như chó ta, ăn cơm như người. Lúc ăn các chú sẽ thấy. Thế các chú bắt nó bằng cách nào?”

       “Tụi em thấy nó đi ở bên đường liền dùng xe cán. Chó cán xe, xe cán chó đấy mà ông thầy.Xong vứt lên xe, đưa về nhà hãy còn nóng hổi, thế là lấy huyết. Không một tiếng kêu. Êm thấm lắm.”

Tôi đưa tiền cho Năm Gò Quao đi mua la-de và gia vị rồi về qua nhà trong khi  Chửng pha thịt làm các món. Mười bắc nồi nước luộc để lấy nước dùng đánh tiết canh. Bà xã của Mười và hai, ba bà khác đã sẵn sàng để phụ. Lúc tôi trở qua thì hai bà đang quạt chả, thơm tưng thơm lừng nhưng khói um lên muốn ngạt thở. Mười bảo không dám đưa ra ngòai sợ lối xóm nghi, bể mánh. Tôi phải chịu là mấy ông đệ tử của tôi làm nhiệm vụ quân nhân - ngày còn ở trong nước - cũng hăng mà nhậu cũng không thua ai.

Buổi chiều hôm đó, chúng tôi quây quần thưởng thức món mộc tồn nơi xứ lạ quê người. Y như tôi nói, phẩm chất thịt chó ta và thịt chó Mỹ một trời một vực. Tôi nhấm nháp chút đỉnh còn chỉ uống cầm chừng nhưng tôi phải ngồi cho anh em vui. Hơn chục người, trẻ con người lớn thưởng thức tận tình các món vừa làm xong chỉ phải cái thiếu gia vị như riềng, rau thơm, lá mơ  mà mãi ít năm sau các chợ Việt ở quận Cam, Cali mới có. Nhưng thôi, được voi đòi tiên, biết thế nào thỏa mãn được mọi thứ. Vừa cầm li la-de nhâm nhi tôi vừa ngẫm nghĩ chắc chủ con chó bị mất đi tìm nó dữ lắm và biết đâu họ không trình Cảnh Sát? Nhưng mọi chuyện đã được bảo mật phòng gian tối đa đến nỗi các bà mẹ phải dặn dò cẩn thận những đứa con đã đi học chớ có nói với bạn hay cô giáo rằng gia đình tôi mới ăn “real hot dog” mà bỏ mạng sa tràng đấy nhé!

Đó là lần đầu và cũng là lần cuối thầy trò tôi  biểu diễn “Văn hóa Sống Trên Đời” ngay trên cái xứ mà cầy tơ được coi trọng rất mực này.

 

Little Saigon, CA Tân Xuân Bính Tuất 2006

GS Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC  

GHI CHÚ: Hot dog (chó nóng) ở Mỹ là một lọai súc-sích làm bằng thịt heo hay bò, chiên hoặc nướng lên ăn kèm bánh mì, khá ngon. Real hot dog: thịt chó thật, không phải súc-sích nữa.

 

 

Bao giờ người Việt mình mới hiểu là không nên ăn thịt chó ?
 
Nhiều con vật còn trung thành hơn con người.
 
 
 
On Thu, 6/27/13, Nhu Nguyet <> wrote:

 
Chú Chó Trung Thành
 

Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg. Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh! Mỗi lần muốn gọ...i, chỉ cần: "Êu, Êu" là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương! Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.

 

Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.

 

Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no. Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. "Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi?" - Mẹ tôi bảo thế.

 

Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người? Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra! Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng!...

 

Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt... Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy? Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng...
 

Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm... Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm?
 
Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò? Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau. Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn. Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại... Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.

 

Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.

Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà!

 

Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay. Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.

 

Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi. Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương sống! Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão! Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm. Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.

 

Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào. Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời! Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người!

Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.

 

Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm!.

 

Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà? Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm...

 

Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về? Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt heo luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.

Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.

 

Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình: Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt...

 

Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi... Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi: Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người...

 

Khổng Văn Đương

  





On Sun, 6/30/13, VietHai Tran <> wrote:

From: VietHai Tran <>
Subject: Re: Chú Chó Trung Thành
Date: Sunday, June 30, 2013, 7:50 AM


Bài viết cảm động “Chú Chó Trung Thành”

 

Nai đồng quê, văn hóa ẩm thực không chính danh

 

Chó BBQ, chó nướng, chó quay da dòn đến món chó luộc mắm tôm truyền thống.

 

Bạn có khi nào ghé qua phố xá Tôn Thọ Tường trong khu Chợ Lớn, Việt Nam ? Phố thương mại vang danh các món BBQ của quận 5 ngày trước có những cửa hiệu bày biện vịt, gà, bồ câu, ngỗng, heo, và sau 75 báo chí mô tả có luôn món chó quay, chó BBQ da dòn với mùi rượu Mai Quế Lộ cùng tiêu tỏi, hành, ngũ vị bay thơm lừng khứu giác. Xơi heo quay tòan mỡ ngậy mỡ sa đe dọa sự an toàn cho con tim, chó hay nai đồng quê barbecued bởi luật tạo hóa cho chó dáng thon thả, bắt mắt đối tượng hơn, không phương phi, dáng sồ sề kém thẩm mỹ, vì kém diet giữ slim shape, giữ eo corp như mấy trự trư bát giới vốn lắm cholesterol. Eo ơi, bỏ quên con tim ngất ngây khứu giác ở phố hàng quay Tôn Thọ Tường mấy hồi...
 
 
Kế đến, thịt chó luộc là mồi nhâu bắt cảm giác cao, còn dồi chó nên dùng kèm với lá mơ, rau sống và mắm tôm, đệm vị riềng,.. Khi chiều xuống, tan sở làm ra, vọt ngay đến điểm hẹn tại một quán thịt chó bình dân ở miệt Ngả Tư Bảy Hiền hay Ngã Ba Ông Tạ cho ta hương vị thòm thèm nai đồng quê. Xơi thịt chó là nên đi kèm với rượu đế hay đặc sản whisky Bà Quẹo; hoặc la-de Con Cọp của hãng BGI, còn bảnh hơn có bia ngoại như Budweiser, Miller, hay Hamm's, do các chú GIs nhảy dù những chuyến hàng chôm từ PX quân đội Huê Kỳ (Military Postal Exchange).
 
Thực khách chuộng món nai đồng quê đánh giá cao loại mồi nhậu này, vì theo họ thì nó là loại bắt rượu nhất. Thịt chó cũng là loại thịt duy nhất có thể gây tính "nghiện", ăn riết hóa nghiền chớ phải giỡn sao ? Nếu đã biết ăn thịt chó nếu một thời gian thiếu vắng không ăn lại thì quả là nhà mùa chua hề lên tỉnh bao giờ cả, ăn hồm trước đến hồn xao xuyến dạ dày, khiến bao tử dày vò đòi nạp mồi ngay ngày hôm sau, để thực khách mãi cái cảm giác thòm thèm xôn xao khi trở lại món thịt chó.
 
 
Tuy nhiên, theo quan niệm của nhiều thực khác chuộng món thịt chó, nhất là đối tượng vốn thích những tụ điểm "chén chú chén anh", ăn thịt chó được dân bợm tửu coi là sẽ bị xui xẻo nên người ta chỉ thường ăn vào những ngày cuối tháng, từ khoảng ngày 22 Âm lịch trở đi nhằm "giải xui". Những ngày cuối năm âm lịch thịt chó rất đắt hàng. uối gtha1n g, cuối năm cái xui phải ra đi, chả nhẽ xui xẻo cắm dùi ở hoài thì làm sao sống nữa đây hỡ trời ? Do thịt chó có tính "ôn" ăn với các gia vị tính nóng đi kèm.            
 
Trong ca dao Việt Nam có gián tiếp nhắc nhở đến món thịt chó cùng gia vị như riềng đi kèm theo:

 

"Con gà cục tác lá chanh

Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi

Con chó khóc đứng khóc ngồi

Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng"

 

thơ về chó và lá mơ,

 

 

"Cho ta ước một bình nguyên đầy chó,

Một ruộng đồng bát ngát lá mơ xanh

Một vườn rau trồng đầy ớt, sả, hành

Một rừng bia rừng rượu ôi xả láng"

 

 

"Lạy ông Giời cho con đùi chó nướng

Chả chìa, rựa mận riềng sả lá mơ

Mộc tồn quay bên dồi thơm ngào ngạt

Tạ ơn Giới hạnh phúc chỉ đấy thôi !"
 
 
Hiện ở Việt Nam số người yêu chuộng mode xơi nai đồng quê càng nhiều hơn, theo lý thuyết kinh tế của Adam Smith hay David Ricardo về thuyết cơ bản cung cầu, nếu cung luôn khiếm hụt so với cầu cao, người cần chó chui từ các nơi khác lặng lẽ tuôn vào để quân bình lý luận thuyết kinh tế; Vì thế nên ngoài việc nuôi chó cho thịt có khi còn phải cho nhập nội chui từ xứ Thái, xứ trường chay rau quả làm chuẩn thì chó theo thuyết cung cầu sẽ tạo ra chó thặng dư mà chó lên bàn tiệc lại ít quá, theo lý thuyết đã dẫn chuyển sự thặng dư nai đồng quê sang cứu bồ đất lâng quốc vậy. Dễ hiểu thôi. Ngoài xứ chay rau quả Thái quốc, hai xứ chay Lào quốc, cùng xứ Chùa Tháp cũng chuộng rau quả nên là nguồn cung ứng nai đồng quê khả tín.

 

Do nhu cầu cao, báo chí bên nhà cùng tin quốc tế loan báo nạn "cẫu tặc", bắt trộm chó cũng hoành hành rất dữ dội, có nơi "cẩu tặc" được mùa ví bọn chúng tinh ranh mát tay. Tuy vậy, cũng có thất bại nặng nề, vì khi ra đi "cẩu tặc" quên cúng tổ hay sao đó để tổ trác te tua. Tin tại Thanh Hóa hai "cẩu tặc" ra tay chôm chó không xem kỹ lịch tử vi, nên một cẩu tặc bị sao Kế Đô chiếu mạng bi dân làng vây đánh chết tươi ngay tại chỗ, "cẩu tặc" thứ hai may mắn hơn được thoát hiểm ra khỏi tử lộ của sao Thái Bạch hay sao La Hầu khi bỏ của (xe gắn máy) chạy lấy người. Tiếc las2 dân làng Thanh Hóa không có đội "Cammando K9 Team" như Huê Kỳ.
 
Sự văn minh của nhân loại chống báng việc ăn thịt chó và giết chó xẻ thịt cho nhu cầu ẩm thực không nên được khuyến khích vì nó bị nhiều xã hội mạnh mẽ lên án và đánh giá là dã man và sự việc như vậy còn có tác dụng khuyến khích nạn bắt trộm chó phát triển nạn tàn sát những người bạn dễ thương của con người. 
 
 
 
Gần đây nhu cầu tiêu thụ chó gia tăng tại việtt nam, tin CNN cho bản tin điều tra không đẹp về quê hương ngày hôm nay luật lệ tơi tả và thú ẩm thực ngon miệng nhưng trên trường quốc tế là tai tiếng bất lợi khi mà nơi đó bây giờ là "Địa ngục trần gian” của loài chó. Nhu cầu thịt chó tăng cao, hằng năm những tay buôn lậu tuồn khoảng 20.000 con chó còn sống từ phía đông bắc Thái Lan qua vào đất Việt để bán cho các nhà hàng tại Việt Nam. Hàng ngàn lồng chó được xếp lên các xe tải.
 
Mỗi chiếc lồng sắt chứa khoảng 20 con hoặc nhiều hơn. Chúng không được uống nước và luôn ở trong chỗ chận hẹp nên trạng thái tranh sống phải tấn công chó bên cạnh vì bị kích động do bản năng sinh tồn. Thậm chí một số con còn chết vì nghẹt thở trong cuộc hành trình vượt biên kéo dài nhiều ngày từ Thái Lan sang đất Việt Nam. Một nhân viên là người đứng đầu tổ chức bảo vệ súc vật châu Á tại Việt Nam cho báo chí biết: “Rõ ràng khi bạn xếp những con chó chồng lên nhau, chúng sẽ cắn nhau vì sự khó chịu. Bất kỳ sự cử động nào trong không gian chật chội đó cũng đều khiến một con chó sẵn sàng cắn lại con bên cạnh”.

 

“Chó là loài động vật rất thông minh. Nếu bạn giết một con ngay trước mắt những con khác, chúng đều biết những gì đang diễn ra”, ông Bendixsen cho biết tiếp. Vì nhu cầu chó bán cao giá tại Việt Nam, vì người Thái ít xơi chó nên những tay buôn chó săn tìm từ những con chó hoang đến chó được nuôi trong gia đình. Chúng sẽ được vận chuyển lậu tới Việt Nam hoặc xa hơn tới thị trường xứ Tàu Ô, nơi thịt chó được tiêu thụ mạnh mẽ.

 

Ông John Dalley làm việc tại cơ quan Soi Dog Foundation có trụ sở tại Phuket, ước tính 98% số lượng chó này đã được thuần hóa và thậm chí một số con vẫn còn đeo vòng ở cổ và đã được huấn luyện để làm theo mệnh lệnh con người. Hơn nữa, điểm đặc biệt, theo ông Dalley, những con chó nuôi thông thường là mục tiêu của những tên săn trộm vì chúng có máu ngoại giao cao, rất thân thiện và bị các mẹ mìn bắt dễ dàng hơn những loại chó khác, tính vốn dữ dằn, hiếu chiến, khó chịu, và ít máu hiếu khách, ít máu lịch sự ngoại giao hơn chó thân mật.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Những tay buôn chó tìm săn mua tất cả các loại chó nòi trong các vụ vận chuyển chó bất hợp pháp bằng đường thủy tại Thái Lan, từ chó săn lông vàng đến chó sục, loại chó săn rất thông minh, lông dài. Một số được những con buôn lậu mua lại, một số khác bị bắt cóc trên hè phố, trong những ngôi đền đài trước cửa tgu72 bi rộn g mở cho những bạn thân của con người và bọtn "cẩu tặc" giăng mắt cú vọ bắt luôn, thậm chí từ những khu công viên hay vườn hoa là tghie6n đường của chó, cda61u chân "cẩu tặc" vẫn bén mảng bám gót theo ra đến những nơi cư dân đông đùc trong phố.

 

Trước đây, giá của những con chó hoang tương đương giá vài đô Obama. Nhưng hiện nay, do nhu cầu tiêu thụ chó ngày một gia tăng, đặc biệt vào mùa đông, thịt chó thông dông y được coi là có tính năng nhiệt cao, một món ăn “làm ấm áp long thể bình an”, ấm áp luôn cho nhiều cơ quan nội tạng dù có tính nhúc nhích hay không. Một con chó tại Thái Lan có thể bán với giá 10 đô Obama. Con số này tăng gấp 6 lần sau khi qua diễn trình hóa phép, chế biến thèm nhỏ dãi, thơm nứt mũi tại các nhà hàng ở Việt Nam.

 

 

Các nhà hoạt động tranh đấu bảo vệ súc vật ước tính mỗi năm số lượng chó được tiêu thụ tại Việt Nam không thôi là hơn 1 triệu con bạn dân, một con số có thể khiến cho bà đào Brigitte Bardot hay bà đào Sophia Loren phải hoảng vía nhăn mặt. Buôn lậu chó hiện đang là ngành kinh doanh thu lợi nhuận nhiều và nhanh đã bùng nổ đối với những nước thuộc khu vực sông Mekong.

 

Tại Thái Lan, ông Dalley cho quan điểm rằng vấn đề này không phải là cuộc tranh cãi đúng sai về vấn đề ăn thịt chó, mà đây là những việc kinh doanh bất chánh,- bất hợp pháp của nhũng tay tội phạm mà trị giá hàng triệu đô la mỗi năm. Một số cảnh quay hình mà các chuyên viên điều tra nhận được thật khủng khiếp. Đó là những hành động vô nhân đạo và là địa ngục trần gian theo đúng nghĩa đen của nó.

 

 

Bài viết trên do tài liệu báo chi trong xứ Việt cũng như các hãng tin quốc tế giờ đây báo động nạn xơi thịt chó gia tăng kinh khủng khiến các tổ chức bảo vệ súc vật trên thế giới đã theo dõi, dán mắt điều tra cái tệ nạn này, ví dụ như tin do CCN cho khúc phim tài liệu, một phóng sự về nạn thương mại, mua bán chó giết lấy thịt.

 

 

 
 
Đây là bài viết dẫn nhập về loài chó vốn là giống súc vật thông minh, có tình nghĩa và gần gủi với con người. Trên quan điểm xã hội học hay dân số học hay phạm vi thực phẩm, vấn đề "sát sanh" hay giết súc vật vì miếng ăn vì sinh tồn hay vì khoái khẩu có 2 mặt của nó, một lập luận cho là "vật dưỡng nhân", một khi đà dân số gia tăng cần thực phẩm, không giết động vật nhu cầu thức ăn sẽ thiếu hụt; Và mặt khác của vấn đề, quan niệm thứ hai cho là lòai chó khi ta nuôi và thương yêu, cảm hóa, thuần hóa chúng bằng con tim bao dung rộng mở thì chó cũng có thể trả lễ lại cho chúng ta. Ví dụ như những người mù do chó làm hướng đạo dẫn đường đi đó đây mỗi ngày hay khi chủ gặp nguy khốn chó xông pha nhào ra bảo vệ chủ được an toàn.

 

 

Đề cập về tình nghĩa của loại chó, GS. Dương Ngọc Sum đã dẫn chứng câu nói bất hủ của vị luật gia Gloria R. Allred, nổi tiếng và chuyên tranh đấu cho nhân quyền khi cho là: "Tôi càng hiểu loài người bao nhiêu, tôi càng thương loài chó bấy nhiêu"; Thực vậy, loài chó vốn trung thành, biểu lộ tình cảm quyến luyến với chủ nhân, trích ngoại ngữ, ("The more I know about men the more I like dogs", "A mesure que je connais les hommes, de plus en plus j'aime bien les chiens!")

 

 

 

 

Sau đây là những bài viết khá cảm động cho thấy loài chò lầ giống vật sống có nghĩa thủy chung và rất tình cảm.

 
Việt Hải Los Angeles
 

 

On Sat, 6/29/13, Sum Duong <
 

Subject: Fw: Bài đọc cảm động /Chú Chó Trung Thành
To: "VietHai Tran" <
Date: Saturday, June 29, 2013, 7:54 AM
     Dear các Em

     Một nhà vân nước ngoài, Thầy không nhớ tên, đã phát biểu (có lẽ quá đáng chăng? Con người cũng có nhiều người

"dễ thương thấy mồ!"):

         -"A mesure que je connais les hommes, de plus en plus j'aime bien les chiens!"

     (Tạm dịch: "Tôi càng hiểu loài người bao nhiêu, tôi càng thương loài chó bấy nhiêu")

      Thầy SUM

     ----- Forwarded Message -----

From: VietHai Tran <
Sent: Thursday, June 27, 2013 10:53 PM
Subject: Re: Bài đọc cảm động /Chú Chó Trung Thành
 
Mes Pensées
 
En parlant de mes amis, nous parlons souvent de nombreuses questions au téléphone, l'un d'eux m'a dit qu'elle est tellement fou de chiens, et elle ne peut pas vivre sans un chien autour d'elle et elle n'a vraiment pas besoin d'un homme à côté d'elle à tous. hic hic ... Je suis très triste pour sa pensée sincère, puisque je n'ai pas de chance dans son choix ... Pourquoi est-il déraisonnable? Chả nhẽ chó hơn người sao?
 
Je ne sais pas sa vraie nature créée par le Dieu céleste, et le but de son existence sur la terre. Je suppose qu'elle est quelqu'un qui a un cœur qui aime et a besoin d'un type spécial de l'amour, aime les animaux et surtout les chiens. En fait, dans mon propre point de vue il n'y a rien de mal à cela, mais sans un homme comment beaucoup plus difficile qu'une femme peut gérer et contrôler dans la vie, dans de nombreux cas, les chiens ne peut pas faire un bon temps, ou une bonne vie dans de nombreux significations que l'homme peut, d'accord nhé ?
 
Alors qu'une femme devrait avoir, dans le même temps, un homme et beaucoup de chiens comme elle veut équilibrer sa vie.
VHLA
 
Chỉ Là Giấc Mơ Qua - Thúy Vi, Như Mai
 
Chỉ Là Giấc Mơ Qua - Họa Mi, Ái Vân::
 

On Thu, 6/27/13, VietHai Tran <viethai712@yahoo.com> wrote:
From: VietHai Tran <viethai712@yahoo.com>
Subject: Re: [tinhbanghuu] Bài đọc cảm động /Chú Chó Trung Thành
Date: Thursday, June 27, 2013, 8:22 PM
Bài đọc cảm động /Chú Chó Trung Thành
 

Bài hay quá Như Nguyệt ơi. Con chó sống có tình có nghĩa, tại sao con người thích mạt sát, phỉ báng danh dự chó nhỉ ? Khi ghét ai, con người nỡ buông tiếng nặng lời thịnh nộ "Đồ chó chết",
http://henrylongnguyen.com/khong-ai-da-do-cho-chet-ca.html
 
hay con người mắng yêu cho chó vô văn học VN luôn nhỉ?
http://phusaonline.free.fr/ButViet/TieuTu/17_Thangchodecuama.htm
 
và tại sao con người lại vô tư mang chó lên bàn tiệc nhỉ ?
http://www.ninh-hoa.com/dacsan-2006/DS2006_HoangTieuCa-MocTonNienKy.htm
 
Brigitte Bardot: "Aimez-moi, aimez mon chien!"
 
 
 
On Thu, 6/27/13, Nhu Nguyet <nhu_nguyet@att.net> wrote:

 Chú Chó Trung Thành
 

Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg. Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh! Mỗi lần muốn gọ...i, chỉ cần: "Êu, Êu" là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương! Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.
 
Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.
 
Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no. Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. "Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi?" - Mẹ tôi bảo thế.
 
Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người? Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra! Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng!...
 
Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt... Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy? Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng...
Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm... Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm? Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò? Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau. Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn. Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại... Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.
 
Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.
Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà!
 
Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay. Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.
 
Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi. Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương sống! Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão! Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm. Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.
 
Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào. Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời! Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người!
Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.
 
Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm!.
 
Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà? Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm...
 
Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về? Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt heo luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.
Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.
 
Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình: Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt...
 
Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi... Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi: Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người...
 
Khổng Văn Đương
 
 
 
 
 
 Câu chuyện về chú chó Hachiko
 
Câu chuyện xảy ra vào năm 1925, tại nhà ga Shibuya. Chú chó Hachiko được giáo sư Ueno của trường đại học Tokyo nuôi dưỡng. Gia đình giáo sư không có con trai (không biết có một người con gái như trong phim hay không) nên ông coi Hachiko như con ruột.
 
Hachiko là 1 chú chó nhỏ ,lông màu trắng chào đời vào tháng 11 năm 1923  ở tỉnh Akita , Nhật Bản.
 
Câu chuyện xảy ra vào năm 1925, tại nhà ga Shibuya.
Chú chó Hachiko được giáo sư Ueno của trường đại học Tokyo nuôi dưỡng. Gia đình giáo sư không có con trai (không biết có một người con gái như trong phim hay không) nên ông coi Hachiko như con ruột.
Hàng ngày như thường lệ, cứ mỗi buổi sáng là Hachiko tiễn giáo sư Ueno Eizaburo đến nhà ga để ông lên tàu đi làm và cả hai đều đi bộ tới nhà ga Shibuya,  chú chó trung thành Hachi, có nick name là Hachiko.  Hachiko không được phép theo giáo sư đến Đại Học Hoàng Gia (nay là Đại Học Tokyo), nơi ông đang giảng dạy, và chiều cũng vậy, cứ đến 3 giờ chiều , Hachiko lại ra nhà ga đợi giáo sư về. Nhưng vào ngày 12 tháng 5 năm đó, giáo sư Ueno đã qua đời sau một cơn đột quỵ khi đang hảng bài trên giảng đường ở trường đại học và mãi mãi không thể trở về được. Còn Hachiko cứ như mọi ngày, vẫn đến nhà ga vào lúc 3 giờ chiều để đón chủ nhânvề. Nhưng hôm đó đã qua 3 giờ rất lâu, bao nhiêu chuyến tàu đã đi qua, trời đã tối mà không thấy giáo sư về. Và Hachiko, chú cho trung thành không hề nản lòng, Hachiko vẫn đứng đợi và đợi.

Hachiko linh cảm rằng có chuyện gì chẳng lành đã xảy ra, tuy vậy nó vẫn ra ga đợi chủ nhân vào lúc 3 giờ chiều mỗi ngày. Chẳng bao lâu sau, những người xung quanh bắt đầu để ý tới sự chờ đợi vô vọng của  Hachiko đối với người chủ nhân đã qua đời của mình. Lần lượt, từ người làm vườn trước đây của giáo sư, đến giám đốc nhà ga và những người dân trong vùng đã cho Hachiko ăn và thay phiên nhau chăm sóc nó. Câu chuyện về chú chó trung thành nhanh chóng được lan truyền khắp nơi và Hachiko được coi như một tấm gương sáng về lòng trung thành. Người ta tìm đến Shibuya chỉ để nhìn Hachiko, cho nó ăn, hoặc nhẹ nhàng xoa đầu vào đầu nó để chúc may mắn. Năm 1932, khi Hachiko đợi chủ nhân được 7 năm, 1 sinh viên của giáo sư Ueno đã viết 1 bài báo kể về chuyện cảm động này và gửi đăng ở 1 tờ báo lớn ở Tokyo . Ngay lập tức có rất nhiều người quan tâm lo lắng cho chú chó trung thành này. Cũng từ Hachiko mà người Nhật thêm vào từ điển từ mới “chukhen” – chú chó nhỏ trung thành .
 

Bên cạnh đó người ta còn có thuyết rằng bởi lẽ cạnh nơi Hachiko ngày ngày vẫn ra ngóng đợi chủ nhân của mình có một nhà hàng thịt nướng và Hichiko rất giỏi trong việc gỡ những miếng thịt ra khỏi que dùng để nướng nên được khách hàng thường cho chú ăn . Vì lẽ đó lý do mà hàng ngày chú ra đây đợi chủ là vì những miếng thịt nướng đó .
Nhiều ngày, nhiều tháng, rồi nhiều năm trôi qua, Hachiko vẫn có mặt đều đặn ở nhà ga vào lúc 3h chiều, mặc dù nó đã bị bệnh viêm khớp và đã quá già yếu rồi. Cuối cùng vào ngày 8 tháng 3 năm 1935 (1 số tài liệu nói là ngày 8 tháng 3 năm 1935), gần 11 năm kể từ ngày nó nhìn thấy chủ nhân lần cuối cùng, người ta tìm thấy Hachiko -lúc đó đã 12 tuổi -nằm gục chết tại chính cái nơi mà nó đã đứng đợi chủ nhân của mình trong suốt nhiều năm.
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++ 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Featured Post

🔥Lisa Pham Khai Dân Trí Ngày- 10/5/2021

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List