Popular Posts

Thursday, March 29, 2018

Chuyện tình cô Y sĩ Công an


Truyện có nhắc nhiều đến nhạc sĩ Nguyễn văn Đông
          


...
Chuyện thật,người thật.......Xin mời đọc.
Chuyện tình cô Y sĩ Công an
(Cựu Nữ Sinh Gia Long)
Chu Tất Tiến
(Tất cả các nhân vật trong truyện đều mang tên thật, trừ Cô Đại úy Y sĩ Công an)

Ngày tôi gặp lại Dung ở Bệnh Viện Chợ Rẫy, cô giật mình, lùi lại như nhìn thấy một bóng ma. Khuôn mặt cô tái hẳn đi, cặp môi xinh xinh cong lên, như định thốt lên một tiếng kêu. Chừng vài giây sau, cô định thần lại, nhìn tôi với cặp mắt sâu thẳm. Trên chiếc áo choàng trắng của Bệnh viện, và giữa luồng ánh sáng của những ngọn đèn trần, làn DA trắng tinh của cô hình như trong hơn và mịn màng hơn.

Tôi cười nhẹ nhàng :

- Chào Dung ! Dung vẫn khỏe chứ ?

Dung không trả lời tôi. Cô vẫn nhìn chăm chăm vào mắt tôi. Một lúc sau, lâu lắm, cô mới thốt lên lời. Giọng cô vẫn nhỏ nhẹ như xưa :

- Anh mới được về hả ?

Tôi gật đầu và mỉm cười. Nhìn dáng Dung trong chiếc áo choàng trắng tinh ấy, tôi lại bồi hồi nhớ lại những ngày xưa, không, không xưa lắm, mới có hơn ba năm thôi, Dung cũng mặc chiếc áo trắng ấy, mà hồn tôi rộn rã, bừng bừng, như muốn bốc cháy.

***

Năm ấy, tôi vừa được chuyển trại về K.30 (*). Thật Ra, trước khi đổi sang K.30, tôi ở Đội 3, nhà 12, K.4. chỉ cách nhà cũ của tôi một lớp hàng rào mỏng. K.30, là trạm Y Tế của cải tạo, nơi điều trị các người tù bị bệnh nặng, trong đó có Nhạc sĩ N.V.Đ và Bác sĩ T.T.A, tác giả loạt bài nổi tiếng trước 1975 “Lương Tâm của Người Thầy Thuốc”. Nhạc sĩ N.V.Đ thì đã bị sưng tất cả các khớp xương tay và chân, không đi đứng được. Mỗi khi ông muốn đi từ nơi này sang nơi khác, phải nhờ anh em cõng. Bác sĩ T.T.A. bị bệnh “Đi cầu không người lái”, nghĩa là khi nào ông chuyển bụng, thì tất cả chất thải cứ tự nhiên toát Ra ngoài vì hậu môn ông không còn khả năng khép kín. Ông phải dùng một nùi giẻ bện lại, và đóng nút như đóng nút chai, nhưng vẫn không thể kềm được khi ông quá mắc. Chỗ nằm của ông hôi thối kinh khủng, ông không thể múc nước tắm một mình và cũng vì đã lớn tuổi, lại yếu, nên không làm vệ sinh Chung quanh giường của mình. Thỉnh thoảng, Bác sĩ Khánh và tôi phải dựng ông đứng dậy, múc nước tắm cho ông và dội giường ông cho trôi phân đi. Ngoài hai nhân vật đặc biệt này là các bệnh nhân kinh niên mãn tính. Tôi nhớ có một anh mới phát giác bị phong cùi qua những mảng đen đặc trên mông, vài anh ho Lao, một anh bị bệnh vẩy-nến rất nặng. Khi anh vẩy-nến tắm, anh trần truồng ngồi cạnh cái giếng, múc nước dội một mình, vì lúc anh bước chầm chậm Ra giếng, là anh em bỏ vô nhà hết, không AI dám tắm Chung với anh, một khối thịt đỏ ửng từ đầu xuống chân, nứt nẻ ngang dọc, ở những khe nứt đó, nước vàng chẩy Ra nhễ nhãi.

Khu K.30 có 4 dẫy nhà, hình chữ W, không kể nhà bếp. Ba dẫy hình chữ U dành cho bệnh nhân. Dẫy giữa chia làm hai. Một đầu là tủ thuốc chứa đầy Xuyên Tâm Liên, phòng khám bệnh, và nơi “giao ban” của các y, Bác sĩ Quân y cũ chịu trách nhiệm chăm sóc các bệnh nhân với một Đại Úy Y Sĩ Công An của trại tù. Hai phần ba của dẫy này là chỗ ngủ của các Y, Bác sĩ và ba người chúng tôi, làm các việc linh tinh, như chẻ củi, gánh nước, phụ bếp, và giúp các bệnh nhân tất cả mọi việc mà Y, Bác sĩ không làm. Lúc tôi tới trại, đã có khoảng hơn 10 bác sĩ, một Nha sĩ, một phụ tá Nha sĩ. Trong số các Bác sĩ điều trị, có Bác sĩ Đàm, Y sĩ trưởng Sư đoàn 18, và một vị Bác sĩ già, nguyên là Y Sĩ của Cố Tổng Thống Diệm, sau này thành Thượng Nghị Sĩ. Mỗi buổi sáng, tất cả các Y, Bác sĩ, nhân viên của K. 30 phải ngồi trên đầu giường của mình và “giao ban” với tay Công An Y Sĩ Trưởng của trại tù, một chức vụ rất lớn, chỉ thua Quản Đốc trại tù, mà có phần hơn, vì anh này chịu trách nhiệm về sức khỏe của toàn thể 5 trại K. tù và tất cả các công an coi trại. Anh at ngồi vào chiếc bàn độc nhất trong phòng, nghe các y sĩ điều trị báo cáo tình hình bệnh nhân và cứu xét đề nghị xin chuyển bệnh nhân ra Bệnh Viện ngoài nếu cần cấp cứu. Tuy chức nghiệp chỉ là Y sĩ, có trình độ như Y tá và đôi khi còn thấp hơn Y tá của chế độ cũ, nhưng anh này có toàn quyền quyết định trên vấn đề Y khoa của các Bác sĩ, cũng như có quyền ký giấy cho tù nhân được ra trại dựa trên tình trạng sức khỏe. Tôi nhớ có một bệnh nhân, xuất huyết nội, được các Bác sĩ đề nghị cho ra ngoài cấp cứu gấp, nhưng tay Y sĩ ỷ mình tốt nghiệp Liên Xô, cứ cho là bệnh trĩ, không cần đi đâu, chỉ cho uống thuốc giảm đau, nên bệnh nhân đã chết sau hai ngày quằn quại. Buổi giao ban kế tiếp, anh Y sĩ này chỉ nói có một câu đơn giản :

- Thôi, kỳ này ta mắc khuyết điểm. Kỳ sau khắc phục !

Thế là một mạng người ra đi, một Sĩ quan chết trong tức tưởi chỉ vì sự phán quyết ấu trĩ của một tay Y tá. Chúng tôi chia phiên ngồi canh xác anh bạn, vì có mấy anh bạn nhát ma, nên tôi nhận luôn ca đêm, từ 12 giờ đến 3 giờ sáng. Trong căn phòng trống lạnh, tôi ngồi cạnh xác anh, bên ngọn đèn dầu leo lét, tay phải luôn xua xịt lũ chuột cống cứ nhào lên định cắn chân tay người chết. Không sợ ma nhưng nước mắt tôi chảy lưng tròng, uất hận cái tên Y sĩ ngu xuẩn kia, cho dù hắn không trực tiếp cầm súng bắn anh em, nhưng cái chết lãng xẹt vì sự ngu xuẩn đó cũng là một điều đáng căm thù. Cho đến một ngày, đời tôi có những đổi thay kịch liệt.

Một buổi sáng chờ đợi giao ban mãi không thấy bóng áo vàng của tay Đại Úy cao cao kia, anh em ngồi chờ, bàn tán mông lung. “Có lẽ hắn bị thượng mã phong, chết mẹ nó đêm qua rồi !”, bác sĩ Đ. nói đùa. Tất cả hùa theo, cười ầm ĩ.

Khoảng nửa tiếng sau, bất ngờ nghe bên ngoài có tiếng xôn xao của các anh em trong hai trại bên cạnh, nhóm chúng tôi đứng hẳn dậy, nhìn ra phía cổng vào và bất ngờ nhận thấy người đang tiến tới chỗ giao ban là hai cô công an áo vàng. Một cô cao, một cô thấp. Cô cao trông lạnh lùng, nghiêm khắc trong khi cô thấp đeo kính trắng có vẻ hiền hơn.

Đang nhớn nhác nhìn ra, chúng tôi không kịp đứng nghiêm lại khi cô cao tới trước bậc thềm, và bước vào trong một cách nhanh nhẹn. Nhìn thấy dáng bộ chúng tôi lu bu, cô cao muốn tỏ uy quyền, nên cảnh cáo liền bằng một giọng Nam Kỳ đặc :

- Các anh đứng trật tự lại. Anh nào báo cáo thì báo cáo đi !

Nghe giọng oai nghiêm của cô, Bác Sĩ Đông là trưởng nhóm Y sĩ, vội đứng nghiêm và lập bập báo cáo :

- Thưa cô…

Vừa nghe xong hai tiếng “Thưa cô”, cô cao chỉnh liền :

- Anh nói cái gì ? Ai cho anh gọi tôi bằng “cô” ? Từ nay, các anh phải “thưa Cán bộ”. Nghe rõ chưa ? Tôi là Đại Úy Dung, Y sĩ trưởng của trại cải tạo này. Tôi thay thế Đại Úy X. đi công tác xa.

Và, chỉ tay về phía cô thấp, cô Đại Úy giới thiệu :

- Còn đây là Y Sĩ Phụng, phụ tá của tôi.

Anh Đông, người Nam, vốn tính hiền hòa, nên khi bị “chỉnh” thì hơi run :

- Dạ, thưa Cán Bộ, vâng !

Người Y sĩ Công an kia nhìn thẳng vào anh Đông, kiêu kỳ :

- Anh tên gì ?

Anh Đông lúng túng thấy rõ :

- Thưa Cán bộ, tôi là Trương Đông, trưởng nhóm chuyên khoa ở đây.

Cô cán bộ nhìn lướt qua từng người trong nhóm với cặp mắt vẫn lạnh lùng :

- Còn các anh kia, từng người báo cáo đi !

Lần lượt, các Y sĩ và ba tên phục vụ chúng tôi báo cáo tên họ. Nghe qua hết một lần, cô Y sĩ cho tất cả ngồi xuống và bắt đầu nghe báo cáo tình hình từng bệnh nhân, trong khi cô Phụng vẫn đứng gần bên, nhìn chúng tôi một cách lạnh lùng.

Nghe xong phần báo cáo, hai cô ra lệnh cho tất cả các Y sĩ hướng dẫn đến từng giường bệnh nhân, hỏi qua tình trạng sức khỏe từng người và ghi ghi chép chép trong sổ tay của các cô. Thái độ của các cô vẫn hoàn toàn băng giá nhưng đã đột nhiên thay đổi khi tới giường của anh nhạc sĩ Đại Tá N.V.Đ. Nhìn thấy anh ngồi trên giường với hai đầu gối co rút lại, những khớp ngón tay đã sưng to, và cả thân thể gầy ốm, trơ xương, nhưng ánh mắt vẫn hiên ngang, nhìn thẳng vào cô Cán bộ Công an với một vẻ thách thức, cô Dung bất ngờ chớp mắt lia lịa. Cô hỏi anh, với giọng xúc động :

- Phải anh là tác giả của các bài Chiều Mưa Biên Giới và Hải Ngoại Thương Ca ?

Người nhạc sĩ tài hoa hơi mím môi, trả lời :

- Phải !

Cả cô Dung và cô Phụng đều mất đi vẻ lạnh lùng. Hai cô liếc nhìn nhau một thoáng rồi cùng quay lại nhìn người Nhạc sĩ. Chừng một phút sau, cô Dung nhìn toán người đi theo sau, nói nhỏ :

- Thôi, đi !

Rồi không cần kiểm tra tiếp nữa, cô bảo nhóm Y sĩ tiếp tục làm việc, còn hai cô ra về. Trên đường đi ra cổng, bóng hai cô chập sát vào nhau, thì thầm.

Bọn chúng tôi ở lại, ồn ào, tán phét. Chúng tôi cùng cho rằng hai cô người Sàigòn, từng nghe nhạc của nhạc sĩ N.V.Đ. nên dù cho là Công an, nhưng vẫn chưa quên hết những mộng mơ của những cô gái áo trắng ngày ấy. Tôi quay lại với anh Đ., cười cười :

- Anh Đ. ơi ! Thế là anh sẽ về sớm hơn anh em đấy ! Anh cứ tin em đi !

Anh Đ. chỉ hơi nhếch môi, thái độ thận trọng cố hữu của anh :

- Không biết đâu, em ạ !

Tôi vẫn cười :

- Em biết chắc mà ! “Cán bộ” mới nhìn thấy anh là run rồi ! Nhất định sẽ ký giấy cho anh về sớm !

Anh Đ. vẫn lắc đầu, không có vẻ lạc quan một chút nào :

- Anh cũng biết mà ! Cấp bậc của anh to quá, khó lắm ! Dầu cho người ta có nể mình, nhưng còn cấp trên. Đâu dễ, em !

(Điều anh nhận xét “đâu dễ” rất đúng. Cho dù có sự can thiệp của cô Dung để đưa anh ra Bệnh viện ngoài đến ba lần, trở đi trở lại mãi đến vài năm sau, anh mới được tha về.)

Còn nhóm chúng tôi, lúc đầu thấy nữ Cán bộ đến quản lý, thì cũng là lạ, nhưng vẫn cứ đề phòng từ lời nói đến cử chỉ, không để cho ai có dịp “đì” mình, nhất là phái nữ. Mỗi ngày, hai cô đều đến một lượt, nghe báo cáo, rồi đi qua từng giường bệnh, xem biểu đồ tiến triển của bệnh nhân, mà quyết định cho ra ngoài điều trị. Khoảng một tháng sau, không thấy cô Phụng đến nữa, chỉ còn mình cô Dung. Thái độ của cô dần dần cởi mở hơn, không còn hằn học như ngày đầu nữa. Giọng nói của cô cũng dễ nghe. Anh em cũng vui vẻ hơn khi thấy cô không khó khăn như tay Đại Úy trước, hễ thấy ai trở bệnh nặng là cho xe díp tới chở ra Bệnh viện bên ngoài ngay. Dĩ nhiên, anh N.V.Đ được ưu tiên ra ngoài ngay. Mỗi lần như vậy, cô ngồi bên cạnh tài xế, dĩ nhiên là một Công an. Bệnh nhân nằm cáng, được đặt song song với chiều dài của xe, anh Y sĩ trực tiếp coi bệnh nhân thì cầm hồ sơ, đi theo, ngồi bên cạnh một tay Công an khác. Những lần ra ngoài như vậy, người sung sướng nhất là vị Y sĩ trực tiếp coi bệnh, đứng chờ sẵn, khi nghe thấy cô ra lệnh :

- Anh Nhân, lên xe đi với tôi !

Hoặc anh Phượng, anh Khánh, anh Lộc, tùy theo bệnh nhân nằm nhà nào thì vị Y sĩ trực nhà đó được đi. Đã nhiều năm quanh quẩn trong tù, chỉ nhìn thấy Công an hay Bộ đội, nay được ra ngoài, hít thở chút không khí tự do, được nhìn thấy “người ta”, thì anh nào cũng thích. Lũ chúng tôi thèm quá chừng, nhưng chỉ biết đứng nhìn bạn mình lên xe.

Ngay cả anh Đào, Nha sĩ, cũng ngẩn ngơ. Rồi chiếc xe chầm chậm lăn bánh qua khỏi những hàng rào kẽm gai chi chít…

Từ những ngày ấy, liên hệ của các anh Y sĩ với cô Dung có phần nhẹ nhàng hơn. Cô không cau có, không ra lệnh như ngày đầu, mà chỉ trao đổi trong phần chuyên môn. Những gì cô không hiểu, cô hỏi với sự kính nể, không như anh chàng Đại úy trước. Còn tôi, chả cần lưu tâm đến cô, vì với phận sự một anh hộ lý, một chàng bổ củi, gánh nước, tôi chẳng có lý do gì lại gần cô. Cứ sau giờ giao ban, tôi đi một mạch ra giếng, gánh đầy nước vào các thùng đựng nước để nấu cơm, rồi làm mọi công việc linh tinh khác. Tôi cứ ngỡ đời tôi rồi tàn tàn như thế cho đến mãn kiếp vì không hy vọng có ngày về cho đến một hôm…

Sau khi làm đủ công việc hàng ngày xong, tôi lôi cây đàn Ghita ra ngồi bậc cửa, dạo vài cung nhạc và tự dưng trong lòng buồn bã, nhớ về người vợ hiền đang cực nhọc nơi nào, tôi hát luôn một bài Trịnh Công Sơn. “Vai em gầy guộc nhỏ, như cánh vạc về chốn xa xôi…” Hát tới câu này, hồn tôi chùng xuống, tôi lặp đi lặp lại hai ba lần. Nước mắt tôi lãng đãng rơi xuống. Vài giọt rớt trên phím đàn. Nhìn thấy giọt nước làm nhòe thân đàn, tôi lấy ngón tay cố chùi cho khô, rồi đột nhiên linh cảm thấy có ai đang nhìn mình, tôi vội ngước lên và thấy Dung đang đứng đó tự hồi nào. Chắc Dung đã nhìn tôi vừa hát vừa khóc. Cô sững người giây lát và chừng như thấy mình có thái độ sai lầm với một tên tù, Dung vội quầy quả bước đi. Tôi cũng bối rối, một phần vì sự ướt lệ của mình, một phần vì tôi đang ở trần, chỉ mặc mỗi cái quần xà loỏn để làm việc.

Ngày hôm sau, khi giao ban, tôi ngồi tránh xa chỗ cô, và không liếc cô một lần. Hình như cô cũng gượng gạo hơn mọi ngày, nên chỉ nói qua loa rồi dọt mất. Thời gian trôi qua, sự việc hôm đó cũng nguôi ngoai. Rồi Tết đến. Theo chỉ thị của cô, anh em phải trang hoàng lại chỗ làm việc cho ra vẻ Tết. Biết tôi có khiếu trang trí, mấy anh y sĩ năn nỉ tôi làm sao cho đẹp. Nổi hứng, tôi đi xin một cái vỏ dừa khô, cưa làm hai, rồi tẩn mẩn dùng dao làm bằng kẽm gai, khắc nổi bên ngoài vỏ dừa hình một Ngư Nhân bơi trong một hồ sen. Tôi lấy một cái nắp sắt, cắm mấy cái đầu đinh ngược lên, rồi đốt bao nylông cho nhỏ xuống đầy cái nắp thành một ổ cắm hoa, bỏ trong vỏ dừa. Sau đó, ra ngoài kiếm mấy bông hoa rau muống, hoa dừa, và lá rau dền, tôi cắm một bình hoa tròn trịa, để trên bàn của cô. Còn trên tường, tôi kiếm giấy nâu đen, cuốn lại thành một cành hoa mai, dán lên tường, sau đó dán thêm vài cánh mai vàng giả, và viết vài chữ thảo “Chúc mừng năm mới” bên cạnh. Thế là phòng họp tự nhiên biến thành… Tết ! Được anh em khen ngợi, lòng tôi cũng vui vui, nhưng không rộn ràng bằng khi cô đến. Nhìn thấy bình cắm hoa đơn sơ nhưng rất lạ, cô cầm lên, hơi thất sắc, hỏi :

- Anh nào làm thế ?

Anh Đông chỉ tay vào tôi ngồi ở cuối hàng. Cô nhìn tôi một lúc lâu, rồi nhìn lên tường, và quay xuống tôi, nói vỏn vẹn hai chữ :

- Đẹp lắm !

Sau đó, cô ngồi ngắm nghía bình hoa mãi đến quên cả tinh thần buổi họp. Anh Đông phải nhắc “Thưa Cán bộ...”, cô mới giật mình, trở lại trao đổi với các anh Y sĩ. Trước khi đứng dậy, đi về, cô còn liếc tôi một lần rồi mới xoay chân.

Dung vừa ra khỏi cổng, anh Nhân cười hí hí :

- Thế là Tiến chết rồi nhé ! Cô để ý rồi, là chỉ có mất mạng thôi !

Cả nhóm cười ồn ào. Tôi chỉ biết nhún vai, cười theo. Trong lòng tự nhiên xôn xao giây phút. Hình ảnh nguời con gái Nam Kỳ, (lúc ấy tự nhiên tôi quên mất cô là Đại Úy Công An), có cặp mắt lá răm, làm tôi vương vấn. Nhưng chỉ trong một vài phút, chợt nhớ đến vợ hiền, con thơ, tôi lắc đầu, xua đuổi mấy tư tưởng hắc ám đi và tiếp tục công việc của mình, như không có gì xẩy ra. Nhưng thực tế, có chuyện xẩy ra. Ngày kế tiếp, sau buổi họp, cô gọi nhỏ anh Đông lại, nói chi đó, rồi đưa cho anh ta một gói quà. Cô vừa bước ra, anh Đông nói ầm lên :

- Lại đây ! Lại đây ! Xem cô tặng quà cho anh Tiến này !

Tất cả xô lại. Trong tay anh Đông là một cuốn vở mới tinh, mấy cây bút chì mầu, và bút Bic, loại quà rất hiếm trong giai đoạn đó. Anh Đông giơ cao món quà và nói :

- Những cái này là cô tặng cho anh Tiến. Không ai được đụng tới.

Anh nói đùa :

- Ai đụng tới quà của anh Tiến là vô “con-nếch” (1) ngồi ngay !

Mọi người cười ầm ĩ. Anh Nhân lại nhắc lại :

- Chết Tiến rồi ! Chết Tiến rồi ! Ông liệu hồn đấy !

Trong nhóm các Y sĩ ở Bệnh xá, Bác sĩ Nhân và tôi là thân nhau nhất. Hai thằng ăn cơm chung với nhau, chiều chiều sau khi ăn cơm, hai thằng hay thả bộ vòng quanh trại, tâm sự vụn. Tụi tôi hợp nhau không chỉ vì tính nết mà còn vì tình đồng môn nữa. Nhân học trên tôi một lớp, và cũng ở nội trú Đắc Lộ trước khi vào Y khoa. Tối hôm ấy, như thường lệ, hai thằng vừa đi vòng vòng vừa nói chuyện. Nhân nửa đùa nửa thật, hỏi tôi:

- Lỡ ra, em mê ông, cho ông về sớm, bắt ông lấy, thì ông tính sao ?

Tôi cười hinh hích, đùa lại :

- Thì lượm luôn, chứ sao ?

Nhân hỏi tới :

- Còn vợ con thì sao ?

Tôi khựng lại, hết đùa :

- Nói vậy chứ không phải vậy ! Làm sao lấy vợ Công an Cộng sản ? Giỡn mặt với tử thần à ?

Hai thằng cười phá lên. Tưởng đùa cho vui. Làm gì có chuyện ái tình với người Cộng Sản !

Mà, nếu tôi đừng đùa thêm nữa, thì chắc câu chuyện cũng không tiến xa hơn. Nhìn cuốn tập Dung tặng và mớ bút chì mầu, tôi không biết xử dụng vào chuyện gì cả. Tự nhiên, Nhân nẩy ra ý nghĩ táo bạo, bảo tôi :

- Ê, sao ông không vẽ cho cô một vài bức tranh, cho cô chết luôn !

Tôi gật gật :

- Có lý ! Có lý !

Hôm sau, khi ngồi bên dưới nghe Dung trao đổi với các bạn, tôi ngồi ngắm Dung và vẽ lia lịa, nhưng có thay đổi. Tóc cô Công An thì ngắn, tôi cho bay lượn lung tung. Áo Dung là bộ quân phục mầu vàng dợn, tôi biến thành áo dài, cho em đi hết lên đồi, lại xuống bờ hồ, rồi thông, rồi hoa, Dung trong cuốn vở của tôi là một thiếu nữ Sàigòn, một mẫu người của thời đại 75 mà các Họa sĩ khác hay vẽ trên các tập nhạc, các cuốn báo tuổi thơ. Tôi vẽ được khoảng 20 tờ, thì lẳng lặng để trên bàn của Dung, trước giờ giao ban. Khi em bước vào, thấy cuốn tập đã cho tôi lúc trước thì ngạc nhiên, không mỉm cười chào ai như lệ thường mà mở luôn ra xem. Càng xem, cặp mắt Dung càng mở lớn. Một nụ cười Mona Lisa nở trên môi. Dung coi tới coi lui mấy lần, rồi mới đặt xuống, hỏi cho có lệ :

- Anh Đông, ai vẽ vậy ?

Anh Đông lấy tay chỉ về phía sau :

- Thưa cô, anh Tiến đó ạ !

(Buổi đầu tiên, Dung bắt mọi người phải gọi cô bằng hai chữ “Cán Bộ”, nhưng dần dần, quen thuộc rồi, cô cũng chẳng bắt bẻ, khi có người quên mà gọi bằng chữ “cô”. Từ đó, anh em quen luôn, cứ gọi bằng “cô”.)

Dung mỉm cười, nhìn xuống chỗ tôi, nói nhỏ vừa đủ nghe :

- Cám ơn anh.

Khi Dung về rồi, cả nhóm xúm lại bàn tán râm ran, vui cười thỏa thích, nhưng không ai đoán được chuyện gì sẽ xẩy ra.

Chuyện xẩy ra lại ngoài ý tưởng tượng của mọi người.

Vài ngày sau, Bác sĩ T.T.A. trở bệnh nặng, Dung quyết định cứu ông bằng cách cho ông ra bệnh viện ngoài. Đợi cho tôi đặt ông vào cáng xong, Nhân lẳng lặng bước tới, tay ôm xấp hồ sơ bệnh lý, chờ cô nói một câu là leo lên xe, vì Bác sĩ T.T.A. là bệnh nhân do anh trông coi. Bất ngờ, cô nói với Nhân :

- Anh Nhân ở lại. Anh Tiến đi với tôi !

Nhân chưng hửng, lúng túng giao tập hồ sơ cho tôi, rồi lui lại. Tôi cũng ú ớ, nhưng nhìn vào mắt Dung, thấy đó là một quyết định không thể thay đổi, tôi vừa mừng vừa run, dợm bước lên phía sau cùng với tay Công an trẻ, như mọi lần Nhân vẫn ngồi thế. Lại bất ngờ nữa, cô ra lệnh :

- Anh Tiến ngồi trên này với tôi !

Tôi hồi hộp chờ Dung ngồi vào ghế xong, mới dám ké né ngồi xuống bên cạnh chiếc ghế xe díp vừa đủ cho một bộ mông. Dung xích vô phía trong rồi lôi tôi ngồi sát vào cô và nói :

- Anh ngồi như thế, thì xe vừa chạy là đã té nhào !

Không còn cách nào hơn, tôi ngồi sát vào Dung. Hai cặp mông như dính với nhau trong lòng chiếc ghế. Xe mở máy chạy. Tôi nhìn liếc từ trước ra sau. Tay tài xế cùng với tay Công an bảo vệ đều mở trừng mắt nhìn tôi, như muốn ăn tươi nuốt sống, nhưng chắc chúng sợ, không dám hó hé, vì Dung là người coi như có quyền thế nhất ở trại này. Ai dám nói hỗn khi biết rằng mình sẽ có ngày mắc bệnh…

Trong khi xe còn trong vòng trại, hàng trăm cặp mắt nhìn theo, ngạc nhiên thấy tôi ngồi như ôm lấy cô Đại Úy Y Sĩ trên chiếc díp… Mà hình như có ôm thật, vì chỗ chật quá, nếu tôi không ôm lấy cô, thì nhất định khi xe cua trái phải, tôi sẽ văng ra khỏi xe ngay. Thật ra, cả hai đứa đều phải bám vào nhau cho khỏi ngã ra ngoài, vì chỉ có một tay Dung là nắm lấy khúc dây bảo vệ đính vào phía trên cửa, còn tay kia thì Dung ôm ngang hông tôi, còn tôi thì tay trái vòng ra sau lưng của Dung, ôm chặt, còn tay phải thì đặt lên đùi Dung…

Gió ơi là gió ! Gió thiên nhiên ! Gió Tự do ! Lần đầu tiên trong mấy năm trời tù ngục, tôi được ôm sát một người thiếu nữ, không cần biết là Công an hay người thường, chỉ cần biết là mùi hương từ thân thể em ngột ngạt mũi tôi, gió thổi tóc em mơn man mặt tôi, mỗi khi xe thắng gấp, môi tôi muốn đụng vào má em, gò má hồng hồng con gái… Thân thể hai đứa như áp lấy nhau. Tôi thì không dám mở miệng trong tình huống như vậy, còn Dung cũng không nói gì nhiều, em đang thưởng thức giây phút êm đềm đó. Chỉ một vài lời trao đổi ngắn ngủi, nhất là có tới bốn cặp mắt, bốn cái tai đang hướng về chúng tôi, những cặp mắt cú vọ của hai tên Công an, một tên tài xế và một tên an ninh.

Chừng khoảng nửa giờ sau, đến cửa Bệnh viện, tôi thở ra và cố ngồi dang ra một chút. Xe ngừng lại trước cửa cấp cứu. Một vài cô Y tá bước ra, đón bệnh. Tôi xuống trước, bước ra phía sau để chuẩn bị bế Bác Sĩ A. sang giường bệnh. Bất ngờ, khi tôi vừa cúi xuống, thò tay vào dưới lưng và mông người bệnh để nhấc ông lên, cái nút bịt hậu môn của ông bật ra… Một dòng phân nóng đầy máu mủ phóng vào mắt mũi, đầu tóc tôi… Kinh hoàng ! Trong một thoáng, tôi chới với, suýt nữa thì ném ông xuống đất, nhưng vì đã quen với dơ dáy của tù ngục, nên chỉ vài giây sau, tôi bình tĩnh bế ông lên và đặt ông vào chiếc giường của Bệnh viện. Đắp chăn cho ông xong, tôi quay lại thấy mấy cô Y tá đang đứng mở to mắt kinh hãi nhìn đầu tóc tôi dàn dụa phân, máu, và mủ. Phân đầy mắt, máu đầy tai, mủ nghẹt lỗ mũi. Tôi vẫn tỉnh bơ hỏi chỗ để rửa mặt. Hai ba cô ú ớ chỉ cho tôi cái vòi nước máy gần đó. Tôi tàn tàn bước đi trong ánh mắt thương cảm của Dung. Em đứng nhìn tôi ngơ ngẩn. Thái độ tự tin của tôi chắc làm tim em rung động thêm một nhịp. Bài hát họ Trịnh, những bức tranh tôi vẽ cho em, chiếc bình hoa tự chế đã làm cho trái tim khô của cô Công an đập sai nhịp, nhưng cảnh “người hùng” bình tĩnh bế bệnh nhân đi tỉnh bơ trong phân và máu mủ đầy người làm cho em hoàn toàn khuất phục. Có lẽ lúc đó, hình ảnh tôi tràn ngập trái tim em khiến em quên hết sự cách biệt cực kỳ giữa một Công an Cộng Sản và một anh tù thuộc chế độ cũ. Và từ đó, một xáo trộn mới đã đẩy đưa cô tới một quyết định quan trọng vô cùng, thay đổi toàn bộ cuộc đời cô... Nhưng chuyện đó, để sau sẽ kể tiếp.

Rửa ráy tay chân, đầu tóc, và quần áo xong, tôi ngồi ngoài trời, hong người cho khô và chờ em. Mãi không thấy em ra, tôi bước vào phòng khám bệnh, ngồi chờ. Vừa lúc đó, một phụ nữ trẻ tiến đến bàn Bác sĩ chẩn bệnh, cởi nút áo ra và xin Bác sĩ tìm cách gắn giùm núm vú vào, vì mới bị ông chồng ghen cắn gần đứt. Núm vú vẫn còn tòng teng chưa rơi xuống. Ông Bác sĩ lắc đầu, cười, và viết giấy cho người kém may này vào phòng trong, chờ khâu lại. Tôi đang nín cười vì cảnh tượng tức cười của người phụ nữ trẻ đưa bầu vú no tròn cho ông Bác Sĩ xem, thì em bước ra, thấy cảnh ấy, em cũng cười hích hích rồi ra dấu cho tôi rời đi. Đã tưởng là sẽ về trại ngay, nào ngờ em nói với tay Công an tài xế của em đưa tôi vào chợ chính của Thị xã ! Tới cửa chợ Biên Hòa, em chờ tôi bước xuống, rồi quay lại nói với hai tên Công an bảo vệ của em :

- Các đồng chí đi đâu thì đi, khoảng 1 tiếng đồng hồ nữa thì quay lại đón tôi !

Trời ! Một tên tù được đi với cô Đại Úy Y Sĩ Công An em vào trong lồng chợ. Hai tay Công an thì ở lại, coi xe ! Tôi run run đi cạnh em, bộ quần áo trây di “ngụy” của tôi sóng vai cùng với áo vàng và quân hàm Đại úy làm hầu như cả chợ xôn xao. Nhưng em cũng tỉnh bơ, dắt tôi, vâng, em nắm tay tôi bước lại quầy bán đường, đậu và mua cho tôi mấy kí đường, mấy kí đậu. Vào thời gian đó, đậu, đường với người tù là vàng, là ngọc, còn da thịt đàn bà là chăn, là gối trên chốn thiên đình. Tôi như hoa mắt đi, không nói được lời nào, trong khi em kể tôi nghe đủ thứ chuyện. Em kể cho tôi nghe, em vốn là Nữ sinh Gia Long, gia đình em là dạng “nằm vùng”, ba em là Bí thư đảng ủy. Vừa học xong Tú Tài 1, em theo lời ba má và anh chị, bỏ vào bưng, hoạt động trong hệ thống Y tế. Em đươc đi học Y tế dưới sự hướng dẫn của một Bác sĩ Công an tốt nghiệp Liên Xô, sau 75, em trở lại Thành phố, học thêm Y tá rồi làm Công an, được thăng lên làm Y sĩ. Em cứ kể, tôi cứ nghe, thỉnh thoảng chỉ chen vào một lời. “Vâng, thưa chị !”

Em nhăn mặt :

- Sao anh cứ gọi em bằng “chị” ? Em không thích tiếng đó đâu !

Tôi ú ớ :

- Vâng, chị, à… cô...

Em nguýt tôi một cái muốn xiêu đình, đổ quán :

- Không được gọi bằng cô luôn !

Tôi nín lặng, không trả lời. Chừng như thấy bắt bí tôi như vậy đã đủ, em hát nho nhỏ cho tôi nghe về những bản nhạc vàng hồi ấy, em coi trên đời này không có ai, chỉ có em và tôi. Em nói về nhạc sĩ N.V.Đ và những bản nhạc mà em mê mẩn. Em bảo em đã làm mọi phương cách cho anh Đ. về sớm, nhưng vì lon lá của anh to quá, tới mức Đại Tá lận, nên cấp trên còn chần chừ ! Ngày cuối trước 30 tháng Tư, anh Đ. còn là Phụ Tá Tổng Tham Mưu Trưởng ! Khó cho em lắm, nhưng em sẽ cố. Vì em cùng với lũ bạn em ở Gia Long là những người mê nhạc anh Đ. nên em thuộc mấy bài tủ và thỉnh thoảng, bây giờ, vẫn lén hát một mình.

Trong khi em nói, thì người tôi như bay bay. Một phần vì từ lâu quá rồi, tôi không được thấy.. người ta, không thấy ông già, bà cả, không thấy thiếu nữ ngồi bán bánh bên chợ, không thấy trẻ em cầm mẹt bánh, kẹo chào mời, không thấy nhà cửa, không thấy gió Tự Do, nên người lâng lâng. Một phần nữa là với sức trai nửa chừng xuân, còn xung động dữ dội, nên khi đi sát cạnh một thiếu nữ tươi nở, giọng nói ngọt ngào, mơn man bên má, trí tưởng tôi cũng lượn bay mây gió. Tôi quên cả hình ảnh vợ, con, quên thân phận tù đầy, quên tất cả. Mãi cho đến khi em bảo nhỏ tôi “Mình phải về !”, tôi mới sực nhìn lại bộ quần áo tù của mình mà thở dài.

Trên đường về, cũng lại hai thân thể áp sát nhau, nhưng em hay quay sang tôi nhiều hơn làm bộ ngực em đụng chạm nhiều lần vào tay tôi nóng bỏng. Hình như tình yêu làm em không còn biết e ngại hai cặp mắt cú vọ đàng sau của tay Công an bảo vệ…

Lúc về trại, xuống xe, là đuôi mắt dõi theo nhau mãi. Bạn bè rú lên cười khi thấy tôi đi lãng đãng vào trại, hai chân như không chạm đất.

Anh Đ. chỉ tay vào tôi, nói rất to :

- Coi kìa ! Chu Tất Tiến đang ngất ngư con tầu đi !

Tôi cười mím chi, chẵng biết nói gì ! Vì có gì đâu để nói !

Một tuần lễ qua đi, tôi dần dần quên Dung vì làm việc liên tu bất tận. Bất ngờ, một buổi trưa, tay Công an trẻ, quản giáo của chúng tôi, bước vào, gọi tôi, nói một câu ngắn gọn :

- Anh Tiến lên gặp chị Dung có việc !

Tôi ngớ ngẩn :

- Gặp ở đâu ?

Tay công an nhún vai :

- Cứ đi ra ngoài cổng gác, báo cáo với anh trực là lên gặp Cán Bộ Dung, rồi đi thẳng mãi, tới ngã ba, quẹo phải, đi một hồi, thấy một căn nhà, chung quanh có vườn trồng chuối thì quẹo vào.

Tôi gật đầu và bước vào trong mặc quần áo. Tay quản giáo chờ tôi ở cổng, dặn thêm lần nữa :

- Nhớ hễ gặp rào cản thì cứ nói là gặp cán bộ Dung thì người ta cho đi !

Nói xong, hắn bỏ đi, không thèm nhìn lại. Anh Đ. kéo tay tôi lại, cười hí hí :

- Phen này, có bị mất trinh, thì nhớ tường trình sự việc, nghe chưa !

Tôi ráng cười không thành tiếng, mà lòng hồi hộp kinh khủng. Làm đúng như lời tay quản giáo dặn, tới chỗ nào có rào cản, là tôi chỉ cần nói mấy chữ thần chú “Cán bộ Dung” kia, là lập tức cổng mở ra ngay, không có một lời thắc mắc. Tên của em nghe vang lừng trong trại rồi. Thật tình, tôi không sợ bị kẹt, mà chỉ sợ chính mình ! Đầu óc tôi làm việc mâu thuẫn như điên giữa hai tên Thiện và Ác. Tên Thiện cho biết là lên gặp em là chỉ để nói chuyện ái tình. Mà nói chuyện ái tình giữa một chàng trai ba mươi mấy với một em xấp xỉ ba mươi trong một môi trường khép kín, thì nhất định là phải tới mục hai thân thể xáp vào nhau… Như thế, thì tôi phản bội vợ tôi mất rồi. Không lẽ lại bỏ bê người đã mấy năm chịu đựng khốn khổ, thăm nuôi tôi? Không được! Nhưng, ngược lại, tên Ác bảo tôi rằng đây là cơ hội hiếm có để tôi có thể được tha về ! Ở tù “Mút chỉ cà tha”, tự do không có, chả biết lúc nào bị “bụp”. Lấy vợ là Đại úy Y Sĩ Công An thì như mặc áo có “Hộ tâm Kính” bảo vệ rồi, chả đứa nào dám đụng chạm đến mình trong xã hội này ! Nhào dô ! Em lại đẹp, lại nõn nường, thân thể nóng bỏng của em làm cho bất cứ tên đàn ông nào cũng phải chẩy nước dãi, em lại chả đòi hỏi điều kiện chi… Nhào dô ! Như thế, hai tên Thiện và Ác ở hai vai cứ đánh nhau linh tinh làm tôi mệt nhoài.

Đến chỗ có một căn nhà ba gian, nằm giữa một hàng rào cây trái bao quanh, tôi gần như run bắn người. Phen này chắc chết quá ! Thoát không nổi ái tình rồi ! Tôi lập bập đi vào truớc cửa. Từ trong nhà, trông thấy tôi, Dung nhanh nhẹn bước ra ngay. Trời ơi là trời ! Chân tôi như nhũn ra, tim tôi đập mạnh như trống làng, mắt tôi muốn hoa lên. Dung mặc áo choàng Bệnh viện trắng xóa, đứng ngay bậc cửa. Ngay phía bên kia tường là một khung cửa sổ mở rộng.

Ánh sáng ban trưa chiếu thẳng từ cánh cửa đó vào người Dung, xuyên qua hết, để cho tôi nhìn thấy Dung không mặc đồ lót. Nguyên vẹn thân thể của Dung hiện rõ từng nét, như một thân hình Venus đang hiện diện ngay trước mắt tôi, đẹp không thể tả. Bộ ngực no tròn căng lên dưới áo. Và cặp mông cũng căng tròn, bụng, và cặp chân xuôi nét…Ôi ! Tôi run rẩy, chân bước không tới. Dung cười cười :

- Vào đi, anh ! Đừng để ai thấy anh đứng ngoài !

Lời mời mọc này còn làm tôi nổi gai ốc lên nữa. Tôi lập cập bước vào trong. Căn nhà đơn giản, chẳng có gì ngoài một chiếc giường đôi, trải chiếu hoa, một tấm chăn để ngay ngắn trên đầu, một cái bàn gỗ làm việc, với gương lược. Một cái tủ đựng đồ dựng cuối phòng. Một kệ đựng sách. Vài chiếc ghế đẩu. Thế thôi. Không có hình “Bác”. Không có khẩu hiệu, cờ quạt gì cả. Dung chỉ chiếc ghế đẩu cạnh giường, mỉm cười :

- Anh ngồi đi !

Tôi lắp bắp :

- Chị... chị... Dung bảo tôi làm gì ?

Vẫn nụ cười bí hiểm của Venus, Dung hỏi lại :

- Anh muốn làm gì ?

Tôi đứng lên, đi lanh quanh, không biết làm gì, đành tới kệ sách :

- Dung... đọc những sách này ư ?

Dung tiến lại gần tôi, đứng ngay sau lưng. Bộ ngực Dung nhọn hoắt áp vào lưng tôi. Hơi thở em nóng bỏng. Dung không nói không rằng, chỉ với tay lấy một cuốn sách trước mắt tôi, làm cho ngực em áp mạnh vào người tôi hơn. Tự nhiên, tôi hốt hoảng, xoay lưng lại, đi vội ra phía sau. Nhìn thấy có một lu nước và một cái gáo, tôi múc vội một gáo, dội ào lên đầu. Cơn nóng trong người của một thanh niên cường tráng hừng hực như một núi lửa. Người tôi căng cứng. Tôi ngước mắt lên trời, cầu Chúa ! Lạy Chúa ! Cứu con với ! Lạy Chúa ! Cứu con với ! Con sắp chết rồi ! Con sắp phạm tội rồi ! Con chịu hết nổi ! Không còn vợ, không có con, chỉ có ái tình đang sôi sục trong con ! Cứu con với ! Ngài ơi !

Trong lúc tôi lầm bầm cầu nguyện, Dung đứng nhìn tôi, khúc khích cười. Em gọi tôi :

- Đừng đứng đấy, anh ! Lên nhà ! Tụi nó thấy...

Dù biết rằng nhà em ở một chỗ xa đường, và không có tên nào dám láng cháng lại gần nhà Cán bộ Dung, tôi vẫn run run bước lên rồi đi lanh quanh, né em. Dung cứ đi theo tôi như bóng với hình, như mèo vờn chuột. Tôi không dám nhìn em, nhìn thân thể em nõn nà, nóng bỏng. Tôi sợ tôi phản bội vợ con. sợ tôi đưa tay ra, kéo Dung lại, không phải kéo, mà là giật, là ném, là ôm chầm, là ghì lấy, là môi chạm môi, da đụng da… Trời ơi ! Chúa ơi !

Một lúc lâu sau, dùng hết sức tàn, tôi mới dám nhìn em, thều thào như người sắp chết :

- Dung… Dung… cho tôi về nhe ! Anh em đang chờ !

Nói một câu vô ý nghĩa như vậy mà cũng làm Dung cười. Nhưng dường như muốn cho cá cắn câu sâu hơn, Dung thả cho tôi về.

Tôi lại lập cập đi lạc vào đúng trại Công an. Hai ba tên nhào ra, hỏi cung, giữ tôi lại một lúc, rồi cũng cho đi.

Về tới cổng trại, báo cáo cảnh vệ xong, vào đến nơi là một băng bạn bè ập tới, sờ soạng, hỏi thăm ríu rít, rồi cười ầm ĩ. Tôi chỉ cười trừ và lăn lên giường. Muốn xỉu ! Bác sĩ Nhân gào to :

- Anh em ơi ! Tiến nó mất trinh rồi !

Tôi cười không nổi…

Một tuần sau, em lại cho người gọi tôi lên nữa. Lần này, tôi chuẩn bị sẵn. Vừa vào tới nơi là tôi ra luôn phía sau, cười cười :

- Để tôi kéo nước giếng cho Dung tắm..

Nói giỡn cho em vui, nhưng tôi kéo nước thục mạng, nhất định không lên nhà. Em đứng nhìn tôi, thở dài thườn thượt cho đến khi tôi đòi về.

Trò chơi mèo chuột này không thể kéo dài. Trận chiến giữa Ông Thiện và ông Ác đã chấm dứt, với ông Ác thua mềm. Tôi quyết định dứt khoát. Tôi không thể là kẻ phản bội ! Lần sau, em cho người đưa giấy xuống, viết ngắn gọn : “Anh phải lên ngay. Có chuyện cần giải quyết.”

Đọc xong thư, tôi thẫn thờ, phen này Dung nhất định hiến thân cho tôi, và nếu tôi lên, tôi nhất định sẽ chiều theo ý Dung, nhưng ngược lại, tôi nghiến răng trả lời tay Công an đưa thư :

- Nhờ anh nói lại với Cán Bộ Dung, hôm nay có vài bệnh nhân cần săn sóc đặc biệt. Ngày khác, tôi xin lên làm việc.

Thế là tôi thắng. Dung thua. Em giận. Giận điên người ! Một tên tù cải tạo có là quái gì mà dám chống lại cả một mời mọc ngon lành như vậy. Làm tàng ! Phách ! Lối ! Em không thèm đến giao ban nữa. Mặc cho bệnh nhân chết rấp đi ! Mấy anh Y sĩ cuống lên, gửi hết thông điệp này đến thông điệp khác qua tay quản giáo, mời cô xuống gấp, không có anh em đang nguy hiểm. Mãi rồi Dung mới tàn tàn xuống, mà xuống không đúng giờ. Không may cho em, vừa bước vào trại bệnh, lại gặp ngay tôi đang đứng săn sóc bệnh nhân. Em giật mình, mở lớn mắt nhìn tôi, rồi bước lùi ra sân, không chẩn bệnh nữa ! Nhân, bác sĩ trực, hốt hoảng. Nếu Dung bỏ về, thì người bệnh sẽ chết ! Tôi cũng hoảng, chạy một mạch vòng ra đằng trước, chặn Dung lại :

- Dung !

Tôi gọi khẩn cấp. Em lờ đi, không nghe. Tôi gọi lần thứ hai :

- Dung ! Cho …anh nói !

Nghe tiếng “anh”, Dung mới chịu đứng lại, nhưng không nhìn tôi. Không lẽ lại quay mặt em lại giữa chốn đông người, lỡ em trở mặt, kêu lính nhốt mình thì đời tàn, tôi cứ nhìn vào lưng Dung, nói một mạch :

- Dung, dù sao đi nữa, anh cũng cám ơn Dung. Nhưng có nhiều chuyện không thể nói được trong lúc này. Chỉ xin Dung từ bi, giúp cho anh bạn ra ngoài trị bệnh, không có thì anh ấy chết mất. Anh cám ơn Dung vô cùng.

Dung đứng cắn môi suy nghĩ một lúc rồi ra lệnh :

- Anh Nhân, đi với tôi, đưa người bệnh ra ngoài.

Rồi Dung đi thẳng, vẫn không nhìn tôi một lần.

Giây phút đó, là giây phút cuối cùng tôi còn gặp Dung. Em bẽ bàng, em giận tôi kinh hoàng. Em chỉ thỉnh thoảng đến, khi có lời cầu cứu, và khi đến, thì đứng ở cổng trại, không bước vào.

Tôi chỉ cười thầm. Cám ơn Chúa, cho con an toàn xa lộ. Những tưởng không còn thấy chữ Dung trong tôi nữa. Bất ngờ, vài tháng sau, khi đang đứng làm than, anh em gọi tôi rối rít :

- Ra đây ! Ra đây ! Trời đất ơi ! Thế là hết rồi nhé !

Tôi chạy vội ra để nhìn thấy một chiếc Corolla trắng chạy tàn tàn trên con đường cạnh trại tù. Trên xe là Dung và người tài xế là Th., một Thiếu tá, Kỹ sư công binh, vừa mới được thả ra hai ngày trước một cách đột ngột ! Bạn bè cười ầm :

- Cái tên kia ! Sao dám ngồi vào chỗ của Tiến hả ?

Anh Đ. vỗ vai tôi, hát ghẹo :

- Thôi là hết, em đi đường em… ha ha ha…

Tôi không nói chi, chỉ cười.

Hôm sau nữa, thấy tay thiếu tá Th. mang hòm xiểng đi vào trại, trình diện trạm gác xong, là lê đồ đi đâu đó, chắc là kiếm chỗ ở. Anh ta lấy được em, được thả về, và được làm công nhân viên ngay trong trại tù! Lòng tôi hơi đau, tiêng tiếc, nhưng rồi tự an ủi. Tái Ông thất mã, chưa chắc ai hên ai xui. Tôi biết Dung vì muốn trả thù tôi, đã khều tay Th. này, lấy cho bõ ghét !

Đúng như câu “Tái Ông được ngựa, chưa chắc đã là Hên”. Một thời gian sau, không thấy dáng em, mà một cô khác đến tiếp quản. Th. cũng không thấy nữa. Đột nhiên, một chiều, đứng dựa hàng rào nói chõ qua bên kia là bên đi lao động ở Tống Lê Chân mới về, tôi được một anh bạn kể cho tôi nghe một chuyện không thể tưởng tượng được. Đang cuốc đất, bạn tôi thấy ngay anh Trung Tá Công An, Quản Lý Trại Giam của chúng tôi, cũng đang cuốc đất như tù ở bên kia hàng rào tù hình sự! Không tin nổi mắt mình, một số bạn chạy ra, hỏi thăm. Anh Trung Tá, trưởng trại tù bây giờ cũng là Tù nhân, cười cười :

- Có chi là lạ ! Đời mà !

Sau đó, qua mấy gói thuốc ba số Năm đưa cho tay Công an quản giáo, mới được biết là chỉ vì chịu chơi, nhận làm chứng cho đám cưới của Dung và Th., một tù cải tạo, mà anh Trung Tá này bị lột lon, đi tù chung với đám hình sự ! Còn Dung, bị mất Đảng tịch, mất lon Đại Úy, mất chức vụ Y sĩ, bị tống về bệnh viện Chợ Rẫy, làm y tá thường ! Tay Th., chấp nhận bỏ vợ hai con để lấy cô công an thất tình, cũng mất việc ngay, bây giờ chắc đang đạp xích lô ná thở !

Tôi buồn cho Dung, buồn cho một mối tình điên, nhưng cũng cảm phục em, đã chấp nhận chơi là chơi hết mình, không biết sợ !

Ngay sau khi được thả về, đầu năm 1981, tôi đi tìm em ở Bệnh viện Chợ Rẫy. Hỏi thăm tên Dung, ai cũng biết. Lên lầu, tôi vào phòng trực, nhắn cho gặp cô Dung. Vài phút sau, Dung bước vào. Vừa nhìn thấy tôi, em giật mình, lùi lại, mắt mở to như thấy ma…Trong tấm áo choàng trắng, tôi thấy rõ cô nữ sinh Gia Long run rẩy.

Tôi cười nhẹ, hỏi thăm Dung vài câu. Em chỉ trả lời vắn tắt, nhưng mắt em càng lúc càng sâu thăm thẳm. Tôi hỏi địa chỉ. Em cho ngay và nói nhỏ :

- Anh tới trước 7 giờ tối.

Buổi tối, tôi đến khu Nguyễn Tri Phương, tìm mãi mới thấy nhà em. Gõ cửa, em ra mở ngay, vẫn đôi mắt làm tôi xao xuyến. Tôi giơ tay bắt tay Dung, em nắm lấy, không muốn buông. Nếu không có hai đứa nhỏ líu tíu chạy ra, có lẽ bàn tay Dung còn nằm trong tay tôi mãi. Chỉ vào hai đứa nhỏ, tôi cười :

- Con của bố Th. phải không ?

Dung không gật, không lắc, chỉ nhìn. Sao mà mắt em sâu hơn tất cả các cặp mắt mà tôi đã gặp. Mắt em chứa cả triệu câu nói, câu hờn, câu trách, câu buồn thảm, thương đau. Nhìn cảnh nhà em, tôi đoán cũng không khá. Vợ y tá, chồng đạp xích lô, có chi mà giầu nổi.

Trong câu chuyện, Dung chỉ trách tôi có mỗi một câu :

- Anh độc ác quá ! Em... thù anh !

Tôi cúi xuống, nói nhỏ :

- Tôi... Anh... xin lỗi Dung ! Mình gặp nhau quá trễ.

Hai đứa nhìn nhau im lặng. Một giọt nước mắt chợt lăn ra từ khóe mắt em. Lòng tôi bồi hồi, xao xuyến, cũng như ngày xưa, chỉ muốn ôm chầm em vào lòng, muốn hôn lên cặp môi căng mọng kia... để trả nợ em, trả mối ân tình sâu đậm của em, cũng vì tôi mà đời Dung tàn tạ. Nhưng tay tôi vẫn cứng khô. Tôi không thể làm gì hơn, ngoài một câu nói vô nghĩa :

- Dung, đừng khóc. Tôi... Anh…

Biết là càng ngồi, nỗi buồn càng sâu, tôi đứng dậy, đi về. Dung không tiễn tôi, chỉ có đôi mắt lá dăm theo tôi đến mãi cuối đường. Trời hôm đó không mưa mà áo tôi ướt đẫm.
Chu Tất Tiến.

Ghi chú : Nhân vật nữ chính vẫn ở Sàigòn, nên không tiện nêu tên thật. Tên trại Tù cũng không thể kể, chỉ những ai biết K.30 thì rõ. Bác sĩ Đ. và nhạc sĩ N.V.Đ. vẫn còn ở Việt Nam. Các bác sĩ Khánh, Lộc, Đông, đã qua Mỹ, nhưng không biết ở đâu. Nha Sĩ Đào ở Thủ Đô Tị Nạn. Riêng Bác sĩ Nhân đã chết sau mấy lần vượt biên không thành và còn bị từ chối đi diện bảo lãnh. Vợ anh ở Canada đã lấy chồng khác, không chịu bảo lãnh. Anh mất trước khi có diện H.O



__._,_.___

Posted by: Truc Chi 

Monday, March 19, 2018

1-MUỐN SỐNG hạnh phúc, GHI NHỚ 5 CHỮ ĐỪNG




1-MUỐN SỐNG hạnh phúc, GHI NHỚ 5 CHỮ ĐỪNG

Con người muốn được sống hạnh phúc, thanh thản mà trong tâm lại vẫn cứ ôm giữ các loại tâm tranh đấu, oán hận thì vĩnh viễn không thể nào đạt được. Hãy ghi nhớ 5 thứ “đừng” sau đây để cuộc sống không phải vướng bận điều gì nữa!

Cái đừng thứ nhất: Có tiền đừng keo kiệt 
•        Tiền khi sinh chẳng mang theo đến, khi tử chẳng mang theo đi. Sức khỏe mới là thứ quan trọng hơn nhiều, có sức khỏe thì mới có tất cả.
•        Trong dân gian có câu nói: “Không sợ kiếm ít tiền, chỉ sợ chết sớm”. Có sức khỏe thì ngại gì không kiếm được tiền. Vì sức khỏe, khi nào cần chi tiêu thì hãy chi tiêu, có tiền đừng keo kiệt.

Cái đừng thứ hai: Có phúc đừng chờ đợi 
•        Con cháu đều có phúc của con cháu, đừng quá vì con cháu mà biến mình thành thân trâu ngựa. Nên tranh thủ thời gian hưởng thụ cuộc sống, đừng vì con cháu mà làm việc quá sức, làm cố quá là sát thủ nguy hiểm nhất của sức khỏe.

Cái đừng thứ ba: Có tình yêu đừng buông bỏ 
•        Cuộc đời thật ngắn ngủi, tình yêu lại không dễ tìm kiếm, cho dù yêu hay được yêu đều là duyên phận, đều nên đón nhận, ngày hôm nay bạn buông bỏ, thì kiếp này nó sẽ không bao giờ đến với bạn nữa.

Cái đừng thứ tư: Tức giận đừng để trong lòng  
•        Trong cuộc đời, ai cũng có thể phải gặp những chuyện khó khăn hay không vừa ý, đừng nên vì thế mà “nộ khí xung thiên”. Tức giận là tồn tại khách quan, không nên giữ ở trong lòng, nín thở thì khí sẽ ứ tắc, khí ứ tắc thì sẽ sinh bệnh.
•        Gặp phải những sự việc khiến ta tức giận, hãy tìm người để khai thông nó, thổ lộ ra hết, như vậy sẽ gỡ bỏ nó nhanh hơn, nội tâm sẽ yên bình trở lại.
•        Bạn bè chính là công cụ “tốt nhất, cũng là nguồn động lực, khích lệ tinh thần, tiếp thêm sức mạnh tốt nhất cho bạn.

Cái đừng thứ năm: Có thù hận đừng ghi nhớ  
•        Lòng dạ khoáng đạt, dùng thiện lương nhân ái để đối đãi, không để ý những chuyện nhỏ, gạt bỏ ân oán, cũng không để thù hận trong lòng. Hãy làm cho mỗi ngày trong cuộc đời của bạn là một ngày vui sống..
•        Người xưa sống được trường thọ vì họ có “tam bất thức”, chính là không cần biết 3 điều, không quan tâm ân oán, không quan tâm tuổi tác, không quan tâm bệnh.


Thursday, March 15, 2018

Lời cuối cho một cuộc tình…

 

 

Lời cuối cho một cuộc tình…

TS.Mai Thanh Truyết














-
Hôm nay, tuy là “lời cuối cho một cuộc tình” nhưng điều đó không có nghĩa là cuộc tình đã chấm dứt, vì mối tình giữa tôi và em vẫn chưa thể nào đi đến kết cuộc được khi mà Đất và Nước đang còn điêu linh, 92 triệu người dân (không kể 4 triệu đảng viên cs) đang còn dưới ách cai trị của… cường quyền.

*
Sáng nay, sau khi vừa thảo xong lá thư từ nhiệm để chuẩn bị gửi lên Ban quản trị của công ty trong vài ngày sắp tới, tôi ngồi bất động bên ly trà nóng. Đây là một quyết định manh nha từ đầu năm 2011. Bụng bảo dạ là đã đến lúc phải nghĩ và “về hưu”; nhưng với ý nghĩ, một khi về hưu rồi, việc tranh đấu có thể bị hạn chế trong di chuyển, trao đổi, tài trợ v..v... vì tình trạng tài chánh không cho phép. Nhưng cuối cùng, lý trí vẫn cương quyết bảo vệ quyết định… về hưu để có điều kiện thời gian rộng rãi hơn để tiếp tục chiến đấu dù tái chánh có bị hạn chế!.

Lá thư đã được thảo xong ngay sau đó và trong vài ngày tới tôi sẽ rời khỏi căn phòng nầy… từ giã chiếc áo blouse màu trắng mà tôi đã mặc từ năm 1963 cho đến bây giờ.

Tôi sắp sửa từ bỏ nó như đang làm thủ tục “ly dị” một người tình!

Dĩ nhiên là có rất nhiều ray rứt, suy tư ngay cả khi về nhà hay trằn trọc trong đêm thâu. Một quyết định thật khó khăn khi từ bỏ một công việc hết sức nhàn rỗi; nhàn rỗi đến nỗi có thể nói là tôi dùng gần hết “8 giờ vàng ngọc” của sở để: viết bài, đọc tài liệu, liên lạc email và điện thoại đó đây, thậm chí ngay cả những buổi phỏng vấn của truyền thông như báo chí, radio v.v…

Bao nhiêu năm qua, tôi đã “lợi dụng” nơi nầy để chuyển tải những thông tin về Việt Nam, hy vọng bà con nơi quê nhà tiếp cận được để tự cứu lấy mình trước những vấn nạn môi trường vây kín cuộc sống của họ. Những vấn nạn mà những người quản lý đất nước không lo nỗi để bảo vệ người dân như ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, cùng nhiều vấn đề xã hội khác của quê hương.

1. Trở về thời còn “yêu”

Nhìn lại bức hình trên, hình chụp vào năm 1991 tại một Đại hội của công ty CWM Inc. tại Dallas, quy tụ 22 phòng thí nghiệm khắp nơi trên đất Mỹ về. Trong thời gian nầy tôi đang quản lý một phòng thí nghiệm với khoảng 30 nhân viên làm việc trong một diện tích gần 8.000 mét vuông, trong đó gồm 2 Ph.D., 4 Master, và hơn 10 Cử nhân và số thí nghiệm viên còn lại. Đây là một phòng thí nghiệm được chứng nhận theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ (accredited laboratory) lớn nhứt của công ty dùng để phân tích và chứng nhận tất cả các chất phế thải lỏng và rắn và quyết định phải thanh lọc (treat) như thế nào..

Nơi đây cũng là một trung tâm huấn luyện về QA/QC cho các trưởng phòng thí nghiệm rãi rác ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ của công ty. Hàng ngày, nơi đây tiếp nhận trên 300 mẫu phế thải kỹ nghệ đến từ khắp nơi và cần được phân tích từ fingerprint (phân tích nhanh) cho đến phân tích toàn diện. Hàng ngày, bãi rác cũng phải tiếp nhận trên dưới 300 xe với trọng tải 80.000 lbs (trọng lượng tối đa tính luôn sức nặng của xe do DOT cho phép). Nói như vậy cho thấy sự bận rộn của nhân viên như thế nào. Đó là chưa kể đến một bộ phận chuyên làm và thử nghiệm các “công thức” (recipe) để giải quyết thanh lọc phế thải rắn độc hại bằng phương pháp macro-encapsulation. Sau khi thành công trong phòng thí nghiệm, nghĩa là hàm lượng các hóa chất độc hại có trong phế thải dưới định mức quy định của EPA (Cơ quan Bảo vệ Môi trường). Công thức trên sẽ được áp dụng và mỗi “mẻ” xử lý là 20 tấn…

Phòng thí nghiệm nằm trên một ngọn đồi cao, do đó theo luật lệ, cần phải theo dõi mức độ ô nhiễm của không khí ở các khu dân cư nằm trong đường bán kính 15 dậm Anh.

2. Quản lý (manage) một chất phế thải

Viết đến đây để cho bà con thấy việc quản lý chất phế thải rất phức tạp và gồm nhiều giai đoạn, cần nhiều nhân lực chuyên môn về phân tích, quản lý, an toàn lao động và nhiều công việc linh tinh khác. Thủ tục thanh tra từ EPA liên bang và tiểu bang cũng như giám sát của thành phố đi đến kiểm tra có định kỳ cũng như bất thình lình (random) (tôi không dùng chữ đột xuất của Việt Nam bây giờ) xảy ra thường xuyên.

Mỗi phế thải sau khi được thanh lọc, sẽ được mang ra đổ ngoài bãi rác (landfill) và hồ sơ, lý lịch cùng địa điểm “chôn rác” phải được giữ trong vòng 5 năm. Nếu có khiếu nại hay cần kiểm soát lại, chúng ta có thể lấy mẫu để phân tích và chứng minh. Nó không giản dị như quan điểm hiện có ở Việt Nam, là chuyển tải từ nơi xuất phát như nhà ở hay công xưởng… rồi chở ra đổ vào một bãi đất trống mặc cho ruồi muỗi, nước rỉ (leachate) chảy tràn lan khắp nơi…nghĩa là rác và những hệ lụy của rác trong bãi vẫn… an nhiên tự tại cùng tuế nguyệt!


Bãi rác chứa 13 triệu tấn rác ở West Covina, CA đang được biến đổi để thiết lập một dự án xây dựng sân golf trên đỉnh và một trung tâm nghỉ mát gồm khách sạn, khu thương mại, sân quần vợt, đường cho ngựa chạy v.v…

3. Trông người mà nghĩ đến ta!

Trong những ngày còn lại bên chiếc máy computer cũ kỹ, tôi cố gắng trang trải ra đây một số suy nghĩ riêng tư của mình, chia xẻ cùng bạn đọc. Trên một mảng tường, tôi dán những hình ảnh “thời gian” trong đó hình ảnh cây phong trước phòng thí nghiệm đã được tôi chụp hàng năm vào tuần lễ đấu tiên của tháng 11, mùa cây bắt đầu thay đổi màu lá…để thấy lại thời tiết…lạnh nhiều hay lạnh ít của trời đất qua sự thay đổi màu sắc của lá. Trong hình, chiếc hình cuối cùng phía dưới bên tay mặt được chụp vào thứ sáu đầu tiên của tháng 11/2011, lá phong màu đỏ nhưng hơi “tái” hơn, vì năm đó tiết trời lạnh sớm!


Rồi đây, trong vài ngày nữa tôi phải giã từ một khung cảnh thân thương mười bảy năm qua nơi mảng tường nầy.

Giã từ! Từ giã! Ly biệt! Biệt ly!

4. Chiếc áo blouse màu trắng

Thực sự tôi đã bắt đầu mặc chiếc áo thân thương màu trắng nầy từ năm 1963 khi còn là một cậu sinh viên năm thứ nhứt trường Y khoa Sài Gòn.. Những kỷ niệm nơi số 228 đường Trần Quý Cáp góc đường Lê Quý Đôn, nơi sau nầy, CSBV biến thành nhà triển lãm tội ác Mỹ Ngụy với chiếc máy bay Mỹ “to đùng”. Nhưng hôm nay, tội ác của Mỹ đâu không thấy mà chỉ thấy những lời “xin-cho” (cố hữu trong não trạng của người cộng sản) người Hoa Kỳ vào lại Việt Nam để làm đối trọng với Trung Cộng. Còn tội ác của Ngụy (!) ư? Nếu còn, chỉ là những lời “van xin” khúc ruột ngàn dặm (?) đem đô la về xây dựng đất nước!

- Kỷ niệm nơi Cơ thể Học viện với Thầy Nguyễn Hữu, Thầy Trần Anh. Tôi có gặp lại Thầy Hữu khi Thầy lưu vong qua Pháp và tội nghiệp thay cho Thầy phải mở một quán ăn nhỏ và bị thất bại. Sau đó, Thầy nhờ một anh học trò cũ phụ tá cho Thầy ở Cơ thể học viện. Đó là BS Nguyễn Mộng Hùng nằm trong nhóm mỗ tim nổi tiếng thời bấy giờ của BS Bernard. BS Hùng đã vận động cho Thầy vào một chân “assistant”.

- Sau Cơ thể học viện, rồi đến bịnh viện Chợ Rẫy với Thầy Đặng Văn Chiếu, bịnh viện Từ Dũ với Thầy Hồng (quên họ của Thầy rồi), Bình Dân với Thầy Út, và bịnh viện Nguyễn Văn Học với Thầy Trần Văn Lữ Y…

- Tuổi thanh niên của tôi lúc nầy thể hiện qua một việc làm nho nhỏ trong chiếc áo trắng vào giữa năm 1963, giai đoạn gay cấn của Đệ nhứt Cộng hòa vì phải đối đầu với giặc ngoài là Việt Cộng và “thù” trong là những người Việt sống trong lãnh địa quốc gia (dưới vỹ tuyến 17) xâu xé nhau, gây bất ổn cho chế độ Cộng hòa lúc bấy giờ. Anh bạn thân thiết của tôi là Hoàng Cơ Trường và tôi đã làm công tác chích ngừa cho dân chúng ở những vùng bất an ninh như Cần Giuộc, Cần Đước, và Long Đinh. Hai anh em cùng đi trên chiếc mobylette vàng của tôi dong ruổi trên các đường mòn hẻo lánh nhưng không hề biết sợ những bất trắc có thể mang đến cho mình do việt cộng phục kích! (xin có vài giây phút tưởng niệm đến anh bạn Trường của tôi).

- Sau đó, tôi lại mang chiếc áo trắng thân thương qua Pháp. Những ngày làm học trò, những ngày làm assistant laboratoire, rồi assistant délégée ở Institut de Chimie, Besancon. Chiếc áo trắng trong giai đoạn nầy chính thức mang lại cho tôi lương bổng hàng tháng, để từ đó tôi có thể lo cho vợ con.

- Về lại Việt Nam, cũng với chiếc áo blouse trắng cố hữu của tôi lại “phất phơ” nơi Ban hóa học trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn và Đại học Cao Đài Tây Ninh. Trong thời gian ngắn ngủi chưa đầy hai năm làm việc ở hai nơi nầy, chiếc áo trắng cũng đã giúp tôi làm một số việc nho nhỏ như gieo cấy ý thức trách nhiệm của sinh viên qua việc bảo quản phòng ốc của trường Sư phạm… bằng cách huy động những ngày đi lau chùi và rửa…nhà vệ sinh của trường!

Nơi Cao Đài, niềm hãnh diện của tôi trong chiếc áo trắng là xây dựng và thiết lập các phòng thí nghiệm hóa học, vật lý, sinh thực động vật trong một thời gian kỷ lục, từ việc thiết kế xây dựng, “đi xin” và thu mua các máy móc và dụng cụ, ở ngoài khu nội ô Cao Đài. Từ đó, sinh viên có điều kiện thực tập bên cạnh Chợ Long Hoa, cửa số 1, vì trong nội ô, các việc thí nghiệm nhứt là mổ xẻ động vật là một cấm kỵ của đạo. Việc làm nầy, tôi đã nhờ sự phụ giúp của một số giảng nghiệm viên trẻ mà tôi đã thu dụng, đồng ý với đường lối mở mang và phát triển trên. Xin cám ơn các anh em đã đóng góp một việc làm không nhỏ cho Viện Đại học Cao Đài.

Ngày nay, dù nơi đây không còn là một đại học đúng nghĩa dưới chế độ mới, nhưng sự hình thành và phát triển đại học đã khơi mào cho người dân nơi đây thấu hiểu được tầm quan trọng của giáo dục và tin tưởng vào tương lai con em của một miền đất khô cằn Tây Ninh.

5. “Dấn thân” vào chốn bùn nhơ

Sau ngày “giải phóng”, chiếc áo trắng vẫn tiếp tục đeo đuổi tôi, nhưng lần nầy dưới một hình thái khác… là làm việc cho chế độ mới một cách bất đắc dĩ. Trong giai đoạn nầy, thực sự tôi có vấn đề với “chiếc áo trắng của tôi”. Sở dĩ tôi gọi là có vấn đề vì chiếc áo trắng tôi mặc trong lúc nầy chỉ là một hành động miễn cưỡng để bảo vệ an ninh cho bản thân và gia đình mà thôi.

Thật sự là tôi đã tạm thời “ly hôn” trong trí óc với người tình của tôi ở giai đoạn “sống chung với “lũ””, giống như chính sách “sống chung với lũ” của VC đề ra cho bà con Đồng bằng Sông Cửu Long vì những sai trái trong việc xây dựng đê bao mà không có điều nghiên làm cho lũ lụt ở miền nầy ngày càng trầm trọng và phức tạp hơn lên.

Cuộc ly hôn tạm thời nầy chấm dứt ngay sau khi tôi thực hiện thành công “giấc mơ ra biển lớn”. vào cuối năm 1982.

6. Làm lại từ đầu

Từ ngày đặt chân đến vùng đất tự do, chiếc áo trắng đã được tôi nâng niu trở lại thực sự với sức bật của tuổi trung niên, với những việc làm ở Medical School ở Minnesota sau ba năm làm postdoctorate qua đề tài nghiên cứu về các màng của tế bào máu hồng huyết cầu (Red blood cell). Thực hiện được hai báo cáo khoa học (publication) bằng cách chứng minh chính màng (membrane) thứ tư tên Actin 4.1 của hồng huyết cầu là nơi chuyên chở Oxy, và Phosphate đi khắp nơi trong cơ thể. Nơi đây cũng là nơi dừng chân của một gốc tự do (free radical) NO (nitroso…), và gốc tự do nầy chính là nguyên tố trung gian để chuyển tải các hóa chất cần thiết (hay chữa bịnh) lên óc. Đây là một phương pháp trị liệu tương đối còn mới mẻ vừa mới được khám phá từ năm 2015.

Rời Minnesota, người tình của tôi vẫn còn trung thành và dường như có một duyên (hay nghiệp nào đó), khiến tôi mang người tình vào một nơi không mấy “vệ sinh”. Đó là, người tình và tôi cùng đưa nhau sống chung trong các bãi rác kỹ nghệ và rác sinh hoạt gia đình…từ năm 1987 cho đến giây phút hiện tại đang ngồi “gỏ mõ” bằng hai ngón tay cho bài viết nầy. (tuy chỉ “gỏ mõ” bằng hai ngón tay, nhưng tôi rất hãnh diện và chấp nhận “thi đấu” với các “bạn già” của tôi để …thi đánh máy!).

Mười bảy năm ngồi ở văn phòng nầy. Chiếc ghế trong hình là chiếc thứ ba tôi đã thay tại nơi đây.


Mười bảy năm qua với tất cả vui buồn trong những lần bị “thanh tra” (inspection) thình lình (random) do EPA Region 9 đến từ San Francisco, hay DTSC (Department of Toxic Substance Control) từ Sacramento, hay từ AQMD (Air Quality Management District) từ Los Angeles, Sanitation District of LA, hoặc Health Department của City West Covina, CA.

Tội nghiệp em tôi, trong suốt 24 năm sau cùng nầy, em tôi phải chịu đựng tất cả những mùi xú uế trên cõi đời ô trọc nầy khi em theo tôi đi cùng khắp các nơi tôi làm việc. Khứu giác của tôi rất nhạy cảm, tôi có khả năng ngửi được những mùi quen thuộc của những hóa chất hiện diện trong chất phế thải. Chính nhờ có một khứu giác “tốt” như trên, cho nên tôi mới “ngửi” và “ngộ” được là vùng không khí đang bao trùm Việt Nam ngày hôm nay đang bị phủ đầy hóa chất độc hại phát sinh ra từ chất độc “cơ chế chuyên chính vô sản”. Điều nầy không giống như Madison Nguyễn ngày nào trong khi đi viếng thăm bãi rác Đa Phước mà vẫn thấy… mùi thơm của tiền tài và chủ nghĩa! Xin nói thêm là bãi rác Đa Phước đang trên đà suy thái vì “cha” đở đầu là Lê Thanh Hải bị “điều” ra Hà Nội, và TGĐ David Dương không còn cơ hội về “quản lý” nữa từ năm 2017.

Trở lại với bãi rác CWM Inc., Kettleman City, chính nhờ khả năng “ngửi” trên làm cho tôi giải quyết công việc chuyên môn một cách nhanh chóng. Nào là mùi các hóa chất sát trùng, hóa chất trừ nấm mốc, hóa chất diệt cỏ dại trong đó có chất 2,4,5-T, một thành phần trong hỗn hợp của chất Da Cam. Tôi, qua mùi, dễ dàng phân biệt được hóa chất nào dẫn xuất từ Arsenic, hay Phtalate, Phosphate, hoặc Carbamate v.v... Chính những sự tiếp xúc nầy làm cho em tôi bị “ô nhiễm”, nhưng với một tình yêu sắt son, em vẫn trung thanh sắc son với tôi, và âm thầm chịu đựng như nội dung của bài mưỡu Mẹ Mốc trong văn chương việt Nam.

7. Mối tình con

Con số 17 năm ở chiếc ghế trên làm tôi nhớ lại một mối tình học trò ở tuổi 17, khi học Đệ nhị ban B. Năm đó, toàn hội đồng thi cho ban B chỉ có khoảng 1000 thí sinh, và tôi đi thi ở trường tiểu học Bàn Cờ. Ở Việt Nam, số thứ tự của thí sinh được sắp xếp theo tên, chứ không theo họ, và phòng thi của tôi lại đối diện với phòng thi của nàng vì nàng có tên bắt đầu bằng chữ Th… Vào hôm thi toán, tôi cố gắng làm xong trong vòng hai giờ đồng hồ (trong 4 giờ thi) để rồi nộp bài và đi ra để xem có thể giúp nàng được gì không! Nhìn nàng cuối đầu đăm chiêu và sau đó ngước lên bắt gặp được ánh mắt của tôi, nàng lắc đầu. Lần đầu tiên tôi cảm thấy “bất lực” trong việc phụ giúp người mình “thương”! Viết những dòng chữ nầy, tôi muốn ghi lại một chút kỷ niệm của thời niên thiếu và tôi không ân hận và cảm thấy “tội lỗi” gì cả vì lúc đó tôi chưa… kết duyên với người tình áo trắng của tôi.

8. Tạm dừng

Thưa các bạn,


Chỉ còn một vài ngày nữa tôi sẽ rời nơi đây.

Chắc chắn tôi sẽ mang một chiếc áo trắng còn mới và sạch mang về nhà.

Chiếc áo trắng bây giờ sẽ về hưu trong vài ngày nữa, sẽ không cùng tôi mang tiền hàng tháng về, nhưng tôi tin rằng, người tình của tôi sẽ không bỏ tôi và tôi cũng chằng bao giờ phụ em trong những ngày còn lại trong đời.

Hôm nay, tuy là “lời cuối cho một cuộc tình” nhưng điều đó không có nghĩa là cuộc tình đã chấm dứt, vì mối tình giữa tôi và em vẫn chưa thể nào đi đến kết cuộc được khi mà Đất và Nước đang còn điêu linh, 92 triệu người dân (không kể 4 triệu đảng viên cs) đang còn dưới ách cai trị của… cường quyền.

Vì sao?

Vì, dù sao, dù sao đi nữa, tôi vẫn… yêu em (lời của bài hát Niệm Khúc Cuối). Đã 48 năm hương lửa bên nhau, em và tôi không thể nào đoạn tuyệt với nhau được. Và dĩ nhiên là phải có tiếp nối. Tiếp nối trong một giai đoạn thăng hoa mới của cuộc đời trong tương lai.

Chắc chắn em và tôi sẽ bước những bước song hành trên con đường về Quê Hương dưới ánh bình minh rực sáng.

On recommence par le commencement!
Một ngày mới sắp sửa bắt đầu.
Em và tôi cùng nhau chuẩn bị lên đường.

Nhuận sắc và Sửa chữa

Trích từ sách “Tâm tình Người Con Việt” – 2012

Mùa Quốc hận 2018


TS.Mai Thanh Truyết

__._,_.___

Posted by: "Patrick Willay" 

Wednesday, March 14, 2018

CÓ ĐÊM NÀO BUỒN BẰNG ĐÊM BA MƯƠI


----- Forwarded Message -----
From: L. Nguyen <>
To: "atran08>
Sent: Sunday, March 4, 2018, 5:04:51 AM EST
Subject: PHA^`N VII (KTTT 109): DU* THI. DIE^~M BUO^`N: CÓ ĐÊM NÀO BUỒN BẰNG ĐÊM BA MƯƠI (Giải Nhất Giải Năm Đinh Dậu 2017 của PTHC2000))



 

   
Giải Nhất Giải Năm Đinh Dậu 2017 của Phong Trào Hiến Chương 2000 
(Phần I: Thơ Văn. Người trúng Giải: Dư Thị Diễm Buồn. Điểm số chung cho Phần I: 10/10):
 

CÓ ĐÊM NÀO BUỒN
BẰNG ĐÊM BA MƯƠI


Dư Thị Diễm Buồn


Trong ngôi nhà nhỏ nằm trên ven bờ sông dài xa tít mù xa. Không biết con sông nầy bắt nguồn từ đâu và đi về đâu mà dài ngút ngàn, và quanh năm nước ngọt, trong xanh như dòng nước Sông Cửu Long nơi quê nhà. Mười mấy năm rồi sống ở đây, nhưng ba người họ không thấy trên sông có sóng to gió lớn. Về mùa giông bão thì mặt nước sông chỉ chao động, sóng dập dồn để rồi sau cơn mưa gió thì mặt sông trở lại hiền lành bình bình, yên yên trơ gan cùng thời tiết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của xứ nầy.
Ngoài xóm xa nhà họ ở, có chợ làng nằm trên mấy con đường cái (xa lộ) xuyên qua các tỉnh (tiểu bang) xe cộ chạy qua lại không ngớt. Chung quanh nhà họ, có trồng nhiều loại hoa, như là: đỗ quyên, thược dược, bông bụp, huỳnh cúc, vạn thọ… cùng các giống hồng bông to, thơm ngát vào sáng tinh sương, màu sắc rực rỡ kiêu sa đài các.
Ngôi nhà nầy họ mua của một gia đình người bản xứ sống ở đây lâu đời từ khi gia chủ còn thiếu niên với cha mẹ... Bây giờ họ lớn tuổi rồi không canh tác được nữa, nên chủ nhà bán rẻ lại, để vào sống trong chung cư không xa lắm của người già ở ngoài chợ quận. Nhà được xây trên vuông đất rộng chừng bốn mẫu. Xứ nầy nhà dù ở thành phố hay thôn quê cùng cốc đều phải đầy đủ tiện nghi như: phòng ngủ, phòng ăn, phòng tắm, phòng gia đình, nhà  bếp... (đó là luật của sớ kiều chánh). Bên ngoài nhìn vào người ta cứ tưởng là cái nông trại nhỏ, chớ không nghĩ đó là nhà ở bình thường của thôn dân.
Trong nhà có ba người lớn, hai nam, một nữ trẻ nhứt cũng khoảng sáu mươi hơn, còn hai người đàn ông tuổi đời cũng gần “thất thập cổ lai hy” rồi. Cái tuổi mà ở xứ sở quê hương nghèo vì chiến tranh nối tiếp chiến tranh triền miên, vì ngoại bang xâm lấn, vì cuộc nội chiến của hai miền Nam Cộng Hòa và miền Bắc Cộng sản, thì họ thuộc về tuổi thọ. Còn trên những xứ giàu tiền bạc, có thừa vật chất, tự do, tâm hồn sẽ thoải mái ung dung như  ở Âu, Mỹ... thì tuổi của họ cũng chưa phải là già mà mới vào trung niên thôi. Người đàn ông trong nhà đó là ông, vợ ông là Bùi Hoàng Lan mà láng giềng gọi theo tên chồng là Nhân. Người đàn ông kia là anh ruột của bà Nhân, đó là ông Bùi Vĩnh Bảo, trọng tuổi nhứt nhà.
Trên vuông đất, ngoài ngôi nhà ở giữa, phía sau hè còn có cái chuồng nuôi bốn con chó mực cao lớn, thuộc loại chó săn. Mặt mày chúng lúc nào trông cũng dữ dằn, như sắp cắn xé đối phương trước mặt. Chúng đánh hơi lạ lanh lẹ, sủa giỏi chớ không bạ đâu cắn phá đó, hoặc bạ đâu sủa đó, hay tru tréo cả ngày. Đất nhà rộng mênh mông, nên họ nuôi nhiều loại gia súc khác như: vịt, ngỗng, gà đi bộ (nuôi thả ăn lúa, bắp, côn trùng), gà lôi... thường để lấy trứng, để ăn thịt chớ không có bán. Trong chuồng heo còn có mấy con háo ăn, ú-na ú-nần kêu la eng éc tối ngày khi chúng muốn ra hay đói.
Vợ chồng ông Nhân, và ông Bảo, cả ba người họ đều siêng năng trồng thêm các loại rau thơm để ăn sống, cải, bầu, mướp, bí, khổ qua… Gia đình họ ở miền Nam nước Mỹ, nên thời tiết dễ chịu không quá lạnh như mùa đông ở Chicago, và cũng không nóng thái quá vào mùa hè như ở vùng sa mạc Arizona... Họ còn trồng các loại cây ăn trái như cam, bưởi, táo Mỹ (apple), xá lị, táo Tàu, hồng giòn, hồng mềm, ổi, mận… Gầy giống các loại gia súc hoặc rau cải, cây ăn trái... bằng cách là mua, đổi chác hay dân bản xứ trong vùng gần nhà cho. Nếu nói chòm xóm ở gần, chớ thật ra chẳng gần chút nào, nhà nầy cách nhà kia lái xe cũng phải mười lăm, hai mươi phút mới tới nơi.
Đến mùa cá lên, hai ông đi câu, đi bắt ở dọc theo sông sau nhà. Cá bắt được lớp ăn tươi, lớp phơi khô hoặc làm sạch sẽ giữ trong ngăn đá để dành ăn dài dài. Cho nên quanh năm suốt tháng, vợ ông Nhân ít khi tốn nhiều tiền để mua cá, trứng gà, trứng vịt, hay gà vịt… ở chợ, ở tiệm như những gia đình khác. Bà Lan thỉnh thoảng đi chợ Tàu, chợ Phi (trong vùng chưa có chợ Việt) mua gia dụng nấu ăn mà chợ Mỹ không có bán, hoặc hiếm thấy bán. Bà mua đồ hàng nằm (những đồ giữ lâu ngày) như là nước mắm, tôm khô, bún, hủ tíu, mì, cải bắc thảo, tương, chao…
Ở đây gia đình họ ăn cá thịt tươi, còn tôm thì đông lạnh từ vùng biển chở lên bán. Đi chợ bà hay mua thịt ba chỉ để dành luộc làm gỏi cuốn, trộn gỏi khô… Thịt đùi để kho rệu với trứng, với cá. Giò heo để hầm với măng, củ cải tươi, hoặc măng khô, cải phơi khô…

Sau bữa cơm chiều hôm nay có canh hầm giò heo với củ cải trắng, cá rô phi chiên sốt chua ngọt thêm rau cần, hành lá và ngò. Thịt kho rệu, có trứng vịt và cá, món ăn nầy sẽ kèm với dưa giá, cải làm dưa... Gỏi thì có trái su, dưa leo, củ cải đỏ, củ cải trắng xắt mỏng trộn tôm, thịt ba rọi. Ngoài ra còn có bánh tét, bánh ít... mà chiều hôm qua bà Lan gói còn anh và chồng ngồi phụ ngồi cột dây.... cho đến nửa đêm mới nấu bốn năm giờ đến khi trời gần sáng bánh mới chín vớt ra treo lủng lẳng trên sào ngoài hiên nhà.
Gia đình bà Lan có bữa ăn tươm tất, vì hôm nay là ngày cuối của năm Ba Mươi Tết Nguyên Đán. Bà nấu mâm cơm cúng rước ông bà chiều nay về mừng năm mới với cháu con. Hàng ngày thì họ ăn uống đạm bạc nấu các món cá, rau nhiều hơn thịt. Không phải không có tiền, hoặc tiếc tiền, hay hà tiện không dám ăn, mà kiêng cử vì tuổi tác, cơ thể yếu ăn nhiều thịt thà dầu mỡ dễ sanh bịnh: đường cao, mỡ cao, áp huyết cao... Cho nên để giữ gìn sức khỏe khi nấu nướng bà cũng tránh những thức ăn có nhiều chất béo, ngọt quá, hoặc quá mặn... Họ còn mua máy (treadmill) tập trong nhà, để phòng khi thời tiết nóng, lạnh, gió, mưa không tiện đi bộ trên con đường mòn có cây cối rậm rạp, lá hoa tươi thắm... vào mùa hè mát mẻ dọc theo bờ sông sau nhà, hay con đường cho người đi bộ và xe đạp chạy gần lộ lớn. Tùy thời tiết có khi sẽ tập trong nhà.
Bôn đào khỏi quê cha đất tổ đã mấy mươi năm rồi, nhưng vào những ngày Tết, ngày kỵ cơm cha mẹ vợ ông Nhân luôn nấu món nầy, món kia cúng bái như lúc chưa rời nước. Nhà thường nhật chỉ có ba người, mà nấu ê hề các món ăn, vì bà luôn nghĩ biết đâu bất chợt có thể tối nay, hoặc mai hai con bà, có đứa sẽ ghé qua, hoặc cả hai anh em nó sẽ về thăm. Bỗng bà nhẹ thở dài, mắt đỏ, lòng già cảm thấy hiu quanh nhớ thương con dâng trào.... Hai đứa con về thăm cha mẹ không bao giờ có hẹn trước, mà chợt đi, chợt đến... bởi trong hành trình nghề nghiệp luôn được bảo mật những việc làm của chúng.
Cái hương vị của chiều Ba Mươi Tết, cùng không khí đùm bọc thương yêu của vợ chồng, anh em nương tựa sống chung mái nhà lúc tuổi về chiều ở xứ người, khiến cho họ cảm thấy ấm cúng và càng thương yêu nhau hơn.
Ăn cơm chiều xong thì mặt trời đã lấp ló ở dãy đồi sau nhà. Ông Nhân chồng bà Lan lúi húi đốt lò sưởi rồi ngồi uống nước trà xem báo. Ông Bảo anh bà ngồi xem tin tức trong truyền hình, còn bà Lan thì lục đục ở bếp thu dọn, chùi rửa chén bát, nồi niêu... để úp vào kệ, vào tủ gọn gàng tươm tất cho nhà cửa sáng sủa trong những ngày đầu năm mới...
Nơi bà Lan đứng rửa chén kế bên khung cửa sổ lớn, nhìn thấy được con sông xanh xuôi chảy lửng lờ, in đáy nước những cụm mây vàng, trắng, tím, hường, lam loang loáng trên sóng nước lã chã. Sóng vỗ theo chiều gió vi vu, đưa âm thanh lào xào của cành lá cây hai bên bờ sông va chạm vào nhau. Ôi màu nắng chiều đẹp rực rỡ, thắp sáng cả vùng toàn cây liên kiều (forsythia, họ gọi là mai Mỹ) bên kia sông đã nở hoa vàng ối cả một cánh rừng thưa... như huỳnh mai của quê hương xa lắc xa lơ của bà.
Cứ mỗi lần hoa liên kiều nhánh cành trụi lá, và khi những nụ hoa chi chit xanh ngã vàng  trên nhánh... thì bà Nhân biết sắp đến Tết Nguyên Đán. Tuần trước đi chợ bà đã mua các loại bánh mứt, nhang, đèn, trà, quả … để cúng ông bà trong ba ngày Tết. Và cả ngày nay bà cũng luôn dõi mắt ra đường Cái... cố kiếm tìm thấp thoáng bóng hình hai đứa con trai có về với gia đình trong đêm trừ tịch không? Bà nhớ chúng về thăm ông bà đâu giữa năm, đến nay cũng hơn sáu tháng rồi... vẫn chưa tin tức gì của chúng cả. Bà cảm thấy nhớ thương con vắng nhà, chớ không buồn hay hối hận khi chúng chọn cái nghề tiếp nối con đường, mà cha mẹ đã đi qua còn dang dỡ!
Bỗng bà Lan chép miệng thở dài lẩm bẩm một mình:
-  Mèn ơi, mới đó mà đã mấy mươi năm, kể từ khi vợ chồng trốn chạy bỏ quê hương xứ sở! Và trên quê người, sau những năm tháng dài bươn chải, vợ chồng bà chọn được cái nhà vừa ý, để sống hưu trí ở làng quê bé nhỏ êm đềm ít người lai vãng nầy. Thiệt cuộc đời bà như một truyện phim dài, một cuốn tiểu thuyết dầy chưa có đoạn kết... Bởi có những sự việc mình những tưởng nó biến mất trong tâm hồn theo thời gian, theo năm tháng thăng trầm của dòng đời! Nhưng không, nó vẫn nằm yên trong ký ức, để rồi chiều nay, dòng hồi tưởng mãnh liệt cuồn cuộn sống lại trong lòng bà, như mới xảy ra mấy hôm trước đây thôi…

Năm đó Bé Bùi Hoàng Lan khoảng bốn tuổi, vào đêm Ba Mươi Tết Nguyên Đán, trời tối đen như nhuộm mực Tàu. Hoàng Lan ngon giấc ngủ nằm chèo queo nghiêng mình ôm gối nhỏ quay lưng vào mẹ. Bỗng dưng bị những tiếng động mạnh khiến cô giựt mình thức giấc! Nhưng nhà tối thui vì chiếc đèn ngủ lúc nào cũng máng trên cây cột sau cửa buồng đà tắt ngấm tự bao giờ! Cô nghe tiếng sột soạt, và nước chảy thấm ỉ ỉ... từ từ ướt cả lưng? Trong giấc ngủ chưa tỉnh, chập chờn cô định gọi ba, nhưng bàn tay lạnh ngắt của mẹ chụp kín vào miệng như ngầm bảo đừng lên tiếng...
Khi trời sáng, Hoàng Lan được vợ chú Sáu làm vườn dắt ra sàn lẵng múc nước ở rạch lên tắm rửa, thay áo quần sạch sẽ cho cô. Nhưng trên mình mẩy, ngón tay, ngón chân cô vẫn còn nhiều chỗ máu dính khô cứng!
Nhà hôm nay đông người hơn mọi ngày... Có những người Lan biết mặt như bác Bảy Tửng có ghe bán thuốc bắc bên kia sông, ông Năm Sầu Riêng bán bánh kẹo ở nhà máy chà lúa, bà Sáu thợ may áo dài, và vài người ở xóm trong, vài người lạ khác cô chưa lần gặp?
Lan vẫn nhớ, đó là ngày cuối cùng của năm, ngày Ba Mươi Tết Nguyên Đán! Đó cũng là ngày cuối cùng cô được nhìn thấy mặt cha mẹ nằm trong cổ quan tài sơn đỏ, và khi chiếc nắp đóng lại với hai hàng bạch lạp sáng lung linh! Cô dẫy dụa, khóc và thét gào khan cả cổ! Tuổi thơ không hiểu nhiều... nhưng linh cảm cho biết cô sẽ không còn thấy cha mẹ nữa... Bởi có những kẻ độc ác nào đó đêm qua nhẫn tâm đã giết chết cha mẹ cô rồi!
Và kể từ hôm đó Hoàng Lan trở thành đứa bé mồ côi! Cô không có dòng họ bên nội cũng như bên ngoại vì chưa lần nào gặp hoặc nghe cha mẹ nhắc đến... Vì ba má cô là con một, mà ông bà hai bên đã qua đời từ lâu. Chắc còn họ hàng ở đâu đó, nhưng cô không thấy tới lui hay nghe cha mẹ kể về chú bác, cô dì hay cậu mợ... thăm viếng bao giờ.
Hoàng Lan chỉ biết vợ chồng bác Lê Thành Tài ở Sài Gòn là anh em kết nghĩa với ba má. Hai bác là người thân duy nhứt mà năm nào vào ngày Tết hay ngày giỗ đều dắt con về thăm. Có khi họ ở lại chơi năm mười bữa, hay nửa tháng với gia đình cô.
Mỗi lần đến thăm, hai bác luôn đem về sách báo đặc biệt nhứt là báo xuân cho ba, và quà bánh, hàng vải cho mọi người trong gia đình. Khi ở đây, bác trai đi vườn, thăm ruộng với ba. Mẹ và bác gái thì quấn quít bên nhau, hai bà nội trợ thường trổ tài nấu nướng các món, cho hai gia đình có những bữa ăn ngon. Họ đỗ bánh xèo nhưn tôm, thịt gà bằm nhuyễn, có củ sắn xắt dài như cộng giá. Cà nhà dùng đọt điều, lá cách non, đọt bằng lăng, hay cải bẹ xanh... đựng trong cái rổ đươn bằng tre có rau húng cây, húng lủi, rau cần dầy lá, ngò rí, dắp cá, tía tô... Nhìn rổ rau xanh non nhẵn tươi hơn hớn, bác Tài gái mỉm cười, khen: “...rổ rau xanh tươi phơi phới như cả mùa xuân...” rau cuốn với bánh xèo, chấm với nước mắm chua ngọt và dầm ớt cay cay... Người miền Nam ưa thích lắm...
Trên mâm cơm, thường thì ba và bác trai khề khà chung rượu trắng, còn má và bác gái vừa cuốn bánh cho Lan, cho anh Nhân (con trai của hai bác) cùng những món ngon khác... Họ ăn uống nói cười thật vui vẻ và lúc nào cũng thân tình đối xử với nhau như anh chị em ruột thịt...
Mấy người lớn luôn kể lại, nhắc lại những câu chuyện ngày xưa vui vẻ và ai nấy cùng cười ngặt nghẽo. Khi nhắc đến những chuyện buồn thì mẹ và bác gái rướm nước mắt, còn bác trai và ba của Lan thở dài có vẻ bùi ngùi, đôi khi như ngao ngán lắm...
Mấy người lớn còn to nhỏ chuyện trò, cười nói, thì anh Lê Thành Nhân con trai bác cùng với Bùi Hoàng Lan đi bắt dế, bắt chim hay thả diều với lũ trẻ hàng xóm gần chùa Phật kế bên nhà ở trong làng. Anh thường cõng Lan nhảy qua những mương cạn nước cỏ mọc um tùm vì Lan sợ kiến, sợ chuột, sợ rắn... không dám đi qua. Anh cũng đi bắt cào cào, và hái trái chín hoặc nhổ cỏ đuôi chồn thắt hình con chó, con cào cào... cho, Lan thích lắm.

Ngày ba má Hoàng Lan qua đời! Chú Sáu làm vườn lật đật đi Sài Gòn  báo tin cho vợ chồng bác Lê Thành Tài hay. Họ bươn bả xuống lo chôn cất cha mẹ của Hoàng Lan trong lặng lẽ!
Sau lễ tang cha mẹ, cô cũng rời xa nơi chôn nhau cắt rún về sống với gia đình Bác Tài!
Ông Tài làm thư ký bên Tòa Hành Chánh Gia Định. Bà Tài làm giáo viên dạy ở trường Tiểu học Phan Đình Phùng. Nhà họ ở đường Nguyễn Thiện Thuật, nên không xa sở làm của ông bà. Hai bác sống đời công chức bình đạm, bác Tài gái là một phụ nữ đức hạnh, mô phạm, bác Tài trai hiền lành đạo đức, không so đo hoặc tranh giành với ai... Nên gia đình ông bà có đời sống rất là an vui, và hạnh phúc. Vợ chồng ông chỉ có người con trai độc nhứt là Lê Thành Nhân lớn hơn Hoàng Lan bốn tuổi.
Nhà ít người, vợ chồng ông Tài không nhiều con cái. Hoàng Lan con của bạn chí thân, nay gặp cảnh tang thương để con bé trở thành mồ côi không nơi nương tựa, nên ông bà đem về dưỡng nuôi xem như con ruột của mình. Để tiện việc học hành, và sớm nhạt nhòa nỗi đau thương của đứa bé, ông bà Tài đã đứng ra làm thế vì khai sanh cho Hoàng Lan. Kể từ đó cô có cái tên mới là Lê Hoàng Lan Chi (họ của bác Tài).
Lê Thành Nhân con trai của ông bà đang học lớp Đệ lục ở trường Trung học Trương Vĩnh Ký, còn Lan Chi mới học lớp hai trường của bà Tài đang dạy. Vì thế hàng ngày Lan Chi lẻo đẻo bên mẹ (bác Tài gái) hai buổi đến trường.
Dù sống đầy đủ về vật chất và tình thương bên cha mẹ nuôi, nhưng những đêm trở giấc, Lan Chi không làm sao khỏi thầm rơi lệ nhớ lại những ngày tháng bên cha mẹ ruột sống an bình ở làng quê!
Cô nhớ mẹ mình có mái tóc đen, thật dài gần chấm đất. Bà thường gội đầu bằng lá liễu nấu với tro bếp lóng lấy nước trong để nguội. Cứ mỗi lần gội đầu cho mẹ, thì mẹ gội đầu cho con.
Mẹ cô thường bảo:
-  Chải đầu khi tóc còn ướt thì dễ và ít bị đứt, bị rụng.
Khi ngồi chải tóc cho con, mẹ hay thỏ thẻ rằng:
-  Bé Hoàng Lan của mẹ da trắng mịn như lụa tơ tầm. Mặt mày sáng sủa thanh tú giống bà nội. Bởi con giống ba, mà ba con thì giống bà nội đó mà! Con có tóc mây giống mẹ vừa đen vừa nhiều... Bé Lan của mẹ sau nầy trổ mã sẽ là một cô gái xinh đẹp. Con được sinh ra trong gia đình nầy... thật cảm ơn Trời cao đã ban cho cha mẹ niềm vui, niềm hạnh phúc vô cùng to lớn... sau ngày anh con rời nhà, để cha mẹ khắc khoải nhớ thương và chờ mong trong tuyệt vọng!
Rồi mẹ trìu mến hôn lên tóc Lan. Ba cô thì luôn bận rộn coi sóc và làm với thợ thầy nhứt là đến mùa lúa, mùa trái cây, mùa khoai, mùa đậu, mùa cà… Quanh năm suốt tháng ít khi rãnh tay, bởi ông siêng năng cần mẫn lo vườn ruộng, giữ gìn đất vườn mấy đời của ông cha để lại. Dù ông Bùi Đỉnh Đạm (ba của Hoàng Lan) sinh ra và lớn trong gia đình khá giả, riêng ông và bà thuở chưa lấy nhau có ăn học sống ở thị thành... Nhưng vợ chồng ông thích nếp sống bình dị ở thôn quê, là những người hiền lành luôn đối xử tốt với kẻ ăn người ở làm việc sanh lợi cho mình.
Hoàng Lan là đứa con gái độc nhứt của ông bà. Dĩ nhiên là cô luôn được cha mẹ cưng chiều. Và ông cũng luôn nhắc nhở vợ để ý, dạy dỗ con trong việc học hành:
-  Má nó thấy con Hoàng Lan tháng nầy học hành có khá không? Tuần rồi gặp cô giáo của con, anh có hỏi thăm thì cô bảo con mình yếu toán. Ngày xưa khi còn đi học, anh nhớ em là con gái mà giỏi toán nhứt lớp. Vậy em hãy dạy kèm toán cho con đi...
Bà Đạm mỉm cười nhìn chồng để lộ chiếc răng khểnh thật có duyên. Rồi xoay qua nói với con gái mình, nhưng cố tình chọc ghẹo chồng:
-  Bé Lan có biết không? Ba con ngày xưa đi học mà lười biếng không chịu nổi.. Ổng chỉ vào lớp mới học bài, mới làm bài, dù thông minh nhưng vì gấp rút thì dễ bị sai... Cho nên ba con thường bị hai cái hột vịt, và cuối tháng nào cũng đội sổ bìa đen (hạng chót).
Nói đến đây, mẹ liếc ba rồi cười chúm chím tiếp:
-  Ba con chỉ giỏi có làm luận văn và viết thư... thôi.
Ông Đạm cười hề hề:
-  Nhờ thế mà ba mới cưới được má con...
Thật sự lúc ấy Hoàng Lan khờ ịt với chuyện kể của hai người! Nay nhớ lại, ngày đó đã qua quá lâu rồi, mọi sự việc đã đổi thay, giờ đây cô thân cút côi sống với dưỡng phụ và dưỡng mẫu. Nhưng Hoàng Lan có cảm tưởng như lúc nào cha mẹ cũng đang lẩn quẩn đâu đây, rất gần... khiến cô không sao dễ dàng quên đi lúc sống chung với cha mẹ mình.
Cô vẫn nhớ và không sao quên được ngày đó lúc ba mẹ còn sinh thời, có lần đi học về gặp cơn mưa lớn, nước sông dâng lên ngập đường ngập sá, cô chạy theo chúng bạn lượm xoài ở vườn ông Cả Tám.... Ôi xoài non, xoài cứng... rụng lềnh khênh đầy đất, và dưới mương cạn lé đé nước... có từng chùm trái còn nguyên, có trái bị bể tung nằm trên bờ phơi ruột trắng... Trong khi trời đang gầm gừ, giông gió thổi mạnh, làm cây cối quằn quại ngã nghiêng... những tia chớp sáng chóa mắt, rồi những tiếng sét nổ ầm ầm như long trời lở đất, gò nỗng cũng muốn bay đi.
Tan trường đã lâu, trời bị mây đen che phủ tối mờ mịt. Ba má cô sốt ruột mong ngóng, nhưng con gái đi học vẫn chưa về. Sợ con té sông, té rạch nên ông cùng người ăn kẻ ở trong nhà xách nón, mang áo mưa, đốt đuốc đỏ trời chạy bổ đi tìm khắp nơi… Sau khi tìm được con, cha cô nổi giận lôi đình, đánh cho một trận đòn nên thân.
Ông còn hầm hét:
-  Ở nhà trái cây tươi ngon thiếu gì không ăn, tan trường con không về nhà, mà chạy theo lũ bạn đi lượm xoài đầy cặp, đầy túi áo, để cả nhà lo sợ…
Bị cha đánh đau quá, Hoàng Lan thiệt giận và ghét cha mình lắm. Cô định bụng là từ nay không thèm ngó mặt ông nữa!
Nhưng hôm sau, trời còn lờ mờ sáng. Cô đang nằm trong mùng nghe tiếng cha thì thầm với mẹ. Bởi mọi khi sáng sớm cha cô đã đi ruộng chiều tối mới về đến nhà. Không biết tại sao hôm nay ông đi ruộng lại trở về nhà sớm như vậy? Bỗng nghe cha cô bảo với mẹ:
-  Hoàng Lan chưa thức hả? Mùa nước năm nay lớn quá, nước tràn ào ào qua bờ mẫu, anh bắt được mớ cá nhảy ngược và mấy con cua kình càng (loại cua đồng có hai càng lớn, màu tím sậm, ngọt thịt) còn sống vội đem về đây, Hoàng Lan ưa cua nầy lắm, chút nữa con thức dậy, em nướng cho con ăn nghe. Tội nghiệp, hôm qua nóng nẩy anh đã đánh con nhiều chắc là đau lắm! Anh thiệt hối hận, em nhớ pha nước muối xức mấy vết roi cho con, thôi anh trở ra ruộng đây!
Cơn hờn giận tan biến, Hoàng Lan nhảy xuống giường, phóng đến ôm chầm lấy cha khóc nức nở!

Ngày đó cách nay đã mấy mươi năm rồi! Giờ đây Hoàng Lan cũng là Lan Chi đã thành thiếu nữ duyên dáng dễ nhìn. Bề ngoài cô mềm mại yểu điệu như liễu, như mai, nhưng tâm hồn cuồn cuộn nhiệt tình, mạnh dạn như cây tùng, cây bá. Cô còn có tánh nhẫn nại, cương quyết và chắc tâm chẳng kém nam giới.
Cha mẹ nuôi của cô đã ở lứa tuổi ngoài năm mươi. Họ có cuộc sống an vui đề huề bên hai con. Trước đó, Lan Chi nghĩ rằng đậu phần hai, anh Nhân chắc sẽ theo học về Hành chánh, hoặc Sư phạm để nối nghiệp cha mẹ mới đúng. Nhưng khi xong Tú tài hai thì anh tình nguyện vào trường Võ bị Đà Lạt. Sau những năm tháng thụ huấn quân sự, huấn luyện ngành chuyên môn ở trong nước “Quân trường đổ mồ hôi/ Chiến trường bớt đổ máu...” anh còn được ra tu nghiệp ở xứ người…
Khi trở về nước, Lê Thành Nhân như con đại bàng có đôi cánh sắt, bay lượn trên bầu trời cao rộng muôn hồng ngàn tía của quê Nam tươi đẹp gấm vóc. Anh như cá gặp nước như rồng gặp mây, xông xáo bôn ba trên Bốn Vùng Chiến Thuật. Trong các vùng giới tuyến, khắp các ải địa đầu từ Nam ra tận miền Bắcgiáp biên giới Việt Hoa! Toán quân anh đã âm thầm thao túng trong lòng đất địch như chỗ không người, như vùng trời tự do quen thuộc của miền Nam...
Riêng Lan Chi, cái chết tức tưởi không lý do minh bạch của cha mẹ luôn nằm trong tâm tưởng, và nung đúc đốt cháy tâm hồn tuổi thơ dại của cô cho đến trường thành... nên cô đã âm thầm quyết chọn cho mình cái nghề, mà thuở đó ít có phụ nữ để ý đến! Yến Tử là bí danh trong “Biệt Đội Thiên Nga” của Lan Chi. Hôm nay cô đang ngồi hỏi cung kẻ địch vừa ra đầu thú mười ngày trước đây! Nhiệm vụ mà cô đã được thượng cấp giao phó cho.
Nghiêm giọng, cô bảo:
-  Anh tên là gì, bao nhiêu tuổi? Cha mẹ, quê quán ở đâu và có bao nhiêu anh chị em? Hãy nên khai thật, và khai rõ để chúng tôi có thể giúp anh một cách hữu hiệu hơn...
Người đàn ông ăn mặc xốc xếch, lem luốc cát bụi, có làn da trắng xanh, cánh tay bị thương còn treo trên chiếc khăn xếp xéo máng trên cổ. Thân hình gầy gò tiều tụy, nhưng nét mặt ông ta trầm tỉnh cương quyết, cao ngạo, giọng nói cứng chắc. Mắt là cửa sổ của linh hồn... cho nên ông không sao giấu được nỗi u hoài hiu hắt... ẩn hiện trong đôi mắt đó.
Kinh nghiệm và trực giác đã cho cô biết rằng. Hắn ta không phải là một người bình thường như là một tên để sai vặt, để liên lạc hoặc làm những việc bình thường khác... Tướng mạo đó, ánh mắt đó ngầm cho cô biết hắn phải là một cán bộ đã đạt được nhiều thành quả, hoặc là một cấp chỉ huy…
Ông ta đang ngồi đối diện với Yến Tử trong căn phòng nhỏ đơn sơ. Nhưng đã được trang bị những chiếc máy tinh vi thu hình, thu tiếng nói… Sẽ chiếu ra, phát ra và truyền đi qua phòng khác tất cả những hành động và lời đối đáp của cả hai người. Cô nghĩ, hắn ta là người từng trải, nên cũng đã thừa biết việc nầy…
Đối diện với một phụ nữ trẻ tuổi có đôi mắt trong sáng, lanh lợi, cái miệng nhỏ rất duyên dáng ở nụ cười. Ông ta không nói gì, nhưng cũng thầm đoán được ít nhiều về người đối diện. Nhìn sâu vào mắt cô, ông trầm tỉnh, rồi mím môi trả lời:
-  Thưa cô, tôi đã ra đầu thú, thì không còn có lý do gì phải giấu giếm nữa mà không khai thật. Tôi đã khai tất cả theo mọi câu hỏi trong giấy tờ bao nhiêu lần, và gần như mỗi ngày…
-  Tôi biết! Nhưng tôi muốn chính miệng ông nói ra trước mặt tôi!
Ông ta hơi khựng! Bởi người phụ nữ có vẻ yếu đuối nhưng giọng nói và đôi mắt hết sức sắc bén! Ông ôn tồn bảo:
-  Cô muốn biết phần nào trước, thì xin hỏi. Tôi sẽ thành thật trả lời tất cả những gì tôi có và tôi biết…
Yến Tử vờ như sửa lại cổ áo, nhưng thật ra cô đã nhanh tay bấm mở chiếc nút của máy thu âm và thu hình nhỏ đã gắn trên đó:
-  Được, Sáu Trường Sơn là bí danh của ông phải không? Ông tên thật là gì, quê quán ở đâu…
Mặt Yến Tử đang hỏi cung nhưng có vẻ đăm chiêu suy nghĩ khi nghe tên đảng viên Việt cộng ra chiêu hồi, mà thượng cấp vừa gởi đến để cô lấy khẩu cung. Người nầy từ miền Bắc về, đang ngồi trước mặt cô khai thân thế của mình... Đã mấy lần như dợm hỏi nhưng lại thôi, cô nghĩ để sau nầy tìm hiểu rõ hơn hẳn hay, không gấp gáp gì!
Nhân viên ngồi làm việc bên trong đang theo dõi từng cử chỉ của hai người, họ hết sức lấy làm lạ, nhứt là xếp của cô? Ông nghĩ, đây đâu phải lần đầu tiên cô tiếp xúc với những tên cán bộ Việt Cộng chiêu hồi có tầm vóc như hắn? Yến Tử là nhân viên của Cục Tình báo giỏi nhất, đã mấy năm kinh nghiệm... và đang giữ trọng trách trong công việc nầy! Cô ta là người luôn hoàn thành nhiệm vụ của mình ngoài dự tính của cấp trên, cả trong những lần địch cài người phản gián cũng không thoát được cô…
Tên Sáu Trường Sơn nầy bị toán Thám kích của A3 bắn gãy tay từ giữa tháng rồi. Hắn ta ra chiêu hồi, đang giữ trong biệt khu được bảo vệ an toàn và bảo mật. Trong trung tâm đều biết trong lúc A3 cùng đồng đội theo dõi địch quân trên đường từ Bù Đớp di chuyển về miền Thủ Thừa mà cả tháng nay bám sát để bắt sống. Và họ cố tình chừa một kẻ hở cho kẻ địch ra đầu thú! Hai bên trải qua trận ác chiến dữ dội một mất một còn. Những tay mơ nằm vùng đã bị hốt trọn ổ cùng với hai tên khác (từ miền Bắc vào) ba tên bị bắn chết. Còn tên cáo già Trường Sơn nầy có lẽ cùng đường đưa tay xin chiêu hồi, thì bị đàn em của A3 bắn gãy tay.
Kẻ bắn tên Sáu Trường Sơn đưa tay lên chào, rồi nghiêm chỉnh báo cáo trước mặt thượng cấp:
-  Thưa Thượng cấp những con cá câu bắt được phải chặt kỳ, chặt vi hoặc đập đầu. Để chúng nguyên vẹn lành mạnh nếu lỡ tay sẽ xẩy mất! Em chưa thịt nó để trả thù cho đồng đội là nó may mắn lắm rồi.... Thưa thượng cấp, em xin chịu xử phạt theo quân kỷ...
Lạnh lùng lầm lì nhìn đàn em, người chỉ huy lùng bùng trong cổ họng:
-  Không thi hành đúng chỉ thị của thượng cấp mà còn ngụy biện? Anh hãy xuống làm việc với ban Hai đi (ban an ninh)…

Cuộc chiến quốc Cộng mỗi ngày càng sôi động gay go. Thanh niên tình nguyện tòng quân diệt giặc. Quân nhân trừ bị ở các ngành nghề, về hành chánh cũng được gọi tái ngũ...
Trong thời chiến chinh, sinh mạng của quân nhân thật mong manh! Nhưng người người vẫn tiếp nối đi làm phận sự và nghĩa vụ của mình. “Đất nước lâm nguy/ Thất phu hữu trách” Họ có nại hà chi những trận đánh lẻ tẻ, hay trận đánh lớn... Biết bao nhiêu chiến sĩ miền Nam đã hy sinh vì bảo vệ gia đình và lãnh thổ! Còn giặc thì bất chấp mọi thủ đoạn, pháo kích vào thành phố, trường học, đặt mìn giật sập cầu, đào đường sá… Gây tóc tang thương vong không biết bao nhiêu người dân vô tội!
Rồi cũng vào chiều ngày Ba Mươi Tết năm đó, Yến Tử đang ngồi bực tức thở dài! Bởi việc khai thác lấy khẩu cung tên cán bộ Việt Cộng Sáu Trường Sơn chưa xong, thì nay cô lại được lệnh điều đi làm công việc khác!
Công tác của cô lần nầy là giúp cho chiến hữu A3 (bí danh thượng cấp của cô) đang bị thương nặng! Mà cô có nhiệm vụ phải lo và giữ an ninh cho A3. Cô bực bội, tức tối tự hỏi: “Tại sao cấp trên cắt đặt cho cô làm một chuyện không phải là chuyên nghiệp của mình? Trong quá trình công tác cấp trên giao cho, lúc nào cô cũng thi hành suôn sẻ, chưa vấp phải điều gì sai trái hay tắc trách! Cô cũng đâu phải là bác sĩ, không phải là y tá, không phải là trợ tá... thì cô biết gì để săn sóc một thương binh mà giao cho cô nhiệm vụ vô duyên nầy?”
Cô lật đật đi tìm xếp để hỏi cho rõ nguyên nhân? Nhưng đến nơi thì thư ký bảo là thượng cấp đã đi công tác! Yến Tử hết sức bực mình, lòng buồn bã trở lại phòng làm việc... bởi dù muốn dù không, cô cũng phải thu xếp mọi giấy tờ cần thiết để bàn giao cho người khác!
Bàn giao xong mọi việc, Yến Tử uể oải ra về! Cô lầm bầm lén rủa:“Thiệt tình, ngày mai mình sẽ đi nuôi ông thần thừ A3 trời đánh thánh đâm nào đây?” Tức mình, cô cũng không thèm thắc mắc hỏi thăm kẻ đó là ai, có mặt tròn mặt méo ra sao? Nhưng cho dù cô có hỏi cũng không ai biết, và dù có biết chắc chắn họ cũng không nói với cô! Đã bao năm rồi, từ ngày làm tình báo, cô chỉ nhận việc qua giấy tờ, hoặc mật mã truyền đạt qua một người khác rồi thi hành!
Trong lòng Yến Tử đang ấm ức và không phục đây nè! vì sự bất ngờ thay đổi việc làm chưa xong nầy. Cô chép miệng thở dài thườn thượt, nhưng đành phải chịu thôi, mình chỉ còn có nước là thi hành lệnh trên chớ biết làm sao bây giờ!
Đã mấy năm lăn lộn trong nghề, có khi Yến Tử công tác ở những nơi phồn hoa đô hội, khi thì trà trộn trong đám dân bụi đời theo đám ăn chơi như phòng trà, vũ trường, khi ở các quán rượu (bar) của Mỹ và Việt. Khi cô theo toán quân lên vùng cao nguyên, khi làm thường dân bán buôn trong vùng quê hẻo lánh xa làng, xa chợ... Nguy hiểm và gian nan bao phủ trùng trùng, nhưng cô không lùi bước không đắn đo. Vì con đường nầy cô đã chọn, nên không chút do dự hay ngại ngùng, cứ hướng về phía trước mà thi hành, mà tiến tới...
Quê Nam nơi nào cũng cây xanh lá thắm, hiền hòa êm đềm tươi đẹp. Cận vùng Đồng Tháp Mười cô đã đi qua bao nhiêu ruộng lúa chín sai hột, oằn bông, vàng cả cánh đồng bao la bát ngát không thấy đâu là bờ mẫu, đâu là ranh. Đồng Tháp thưa thớt dân cư, nhưng nhiều ruộng nương, kinh rạch, ao, đìa… Nguồn tôm cá thủy sản trời cho không làm sao hết được. Cá nhiều đến nỗi dùng cái chén cô cũng có thể vớt được những con cá sặc bướm hám ăn, lúc ngồi rửa chén ở cầu ao.
Yến Tử theo cha mẹ nuôi sống ở thành thị đã hơn 20 năm rồi. Nhưng miền quê nơi chôn nhau cắt rún đầy ấp ngọt ngào tuổi thơ bên cha mẹ vẫn còn rõ nét trong trí nhớ. Cô luôn thầm mơ ngày nào quê hương tàn bóng giặc, sẽ trở về sống đời còn lại bên miếng vườn nhỏ của ông cha để lại cho cháu con, để gần gũi bên mồ mả mẹ cha. Đôi lúc cô nghĩ rằng: Chắc  tròn đời kiếp nầy mình sẽ không thương yêu ai ngoài hai đấng sanh thành, cùng anh và cha mẹ nuôi! 
Nghĩ vẫn nghĩ vơ, khi ra khỏi nhiệm sở thì phố xá đã lên đèn. Sài Gòn bao giờ cũng “ngựa xe như nước, áo quần như nêm”. Và vầng trăng lưỡi liềm nằm vắt vẻo trên nền trời tối đen, xa xa lấm tấm chi chít những giề sao. Nhưng trăng non và sao li ti trên cõi trời tối đó, không thể nào làm mờ nhạt ánh đèn điện muôn màu rực rỡ, nhấp nhánh của Sài Thành hoa lệ mệnh danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”.
Cô thong thả đi bên lề đường gần khu chợ Bến Thành, và qua ngang công viên Quách Thị Trang. Theo phố sá dọc ngang hai bên đường là những hàng quán buôn bán sầm uất quanh năm, từ sáng sớm cho đến giờ giới nghiêm. Trên các cửa tiệm nầy là những căn lầu cao bốn năm tầng, được chủ ngăn chia làm nhiều phòng cho Mỹ mướn. Đây là một trong những khu phố về đêm ồn ào và nhiều màu sắc nhứt của Sài Gòn.
Nhìn các hàng quán bán nhiều các món ăn, phải bình thường thì cô ghé qua ăn xong rồi về tắm rửa leo lên giường tìm giấc ngủ bình yên, trong những khi không muốn ăn cơm nhà. Nhưng hôm nay gặp bực bội đã no rồi, còn ăn gì được nữa mà ăn! Yến Tử nhớ đến ba má ở nhà, cô ghé hàng bán chè, bánh quen thuộc thường mua. Ông bà không sanh ra cô, nhưng đã nuôi nấng hoạn dưỡng và thương yêu cô như cha mẹ ruột của mình, không hề câu nệ hay có những lời lẽ nghi kỵ con ruột, con nuôi.
Cô dừng lại mua mỗi thứ hai, ba phần, nào là chè khoai môn chan nước cốt dừa, bánh da lợn, bánh khoai mì nướng, khoai nấu, chuối bao nếp nướng, chuối chiên… Để khi buồn miệng ông bà có mà ăn liền.
Nghe tiếng chuông, nhìn ra cửa thấy con về đến, bà Tài vui vẻ bước ra đon đả hỏi:
-  Sao hôm nay con về sớm vậy? Chắc chưa ăn gì phải không, thôi hãy vào ăn cơm luôn đi, mẹ đã nấu xong rồi.
Lan Chi bước vào cửa, chào mẹ, chào cha:
-  Thưa ba con về rồi.
Ông Tài ở nhà sau đi lên thấy con:
-  Mấy thuở con về đúng giờ cơm. Mẹ nó lấy thêm chén đũa con ăn luôn cho vui.
Ông chợt nhẹ giọng, rồi quay sang vợ:
-  Từ ngày anh em bây ra trường đi làm đến nay. Gia đình bốn người mình ít khi có dịp được ngồi chung ăn cơm chiều như thuở các con còn đi học. Cái thằng Nhân cả tháng rồi ba cũng không thấy mặt mũi nó? Đi công tác ở đâu mà lâu quá vậy? Ờ, bà à con có nói với bà là đi đâu, và chừng nào về không?
Bà Tài vừa bới cơm vào chén, vừa nhìn chồng cười :
-  Thằng con đi công tác đây đâu phải lần đầu mà ông lo. Nó là con trai mà lo làm chi cho mệt...
-  Con trai hay con gái gì cũng vậy! Cha mẹ lo cho con là bổn phận là thiên chức mà. Tui cũng biết nam nhi chí tại bốn  phương...
Bỗng ông dừng lại, rồi bảo:
-  Mà nầy, con đã lớn rồi bà có nhắm chỗ nào để cưới vợ cho nó chưa? Con gái bà giáo Hào trông cũng xinh lắm. Hay con gái út của anh Thẩm phán Trung? Con nhỏ vừa xong Cán sự điều dưỡng, đang làm ở bệnh viện Hồng Bàng ngoài Chợ Lớn đó… Con cái lớn phải dựng vợ gả chồng chớ, để nó lông bông hoài không tốt đâu đó...
Bà Tài cười tươi, nhưng cũng nói :
-  Bộ tui không sốt ruột sao! Tui thật sự muốn cưới vợ cho nó lắm. Nhưng mỗi lần nhắc đến chuyện vợ con, thì nó lắc đầu quầy quậy như đỉa gặp vôi. Thiệt là bực mình hết sức, lần nầy về nhứt định tôi bắt nó phải lấy vợ mới được...
Rồi bà mỉm cười, nhìn qua Lan Chi :
-  Còn con gái của mẹ, chừng nào mới chịu lấy chồng đây? Con đã hăm mấy tuổi rồi nghen. Phải tính chuyện hôn nhơn đi con, nhớ lúc còn đi học thì anh em bây nói chưa có sự nghiệp. Nay đã có công ăn việc làm vững chắc rồi, thì phải nghĩ đến chuyện chồng con đi chớ, kẻo trễ thì lỡ thời đó con.
    Lòng thương yêu lo lắng của cha mẹ, Lan Chi cảm thấy ấm lòng và cảm động, nhưng cô bảo:
- Phải có người chịu thương con mới được chớ ba mẹ. Nhưng thật lòng hiện nay con chưa nghĩ hay có ý muốn lập gia đình. Sống với ba mẹ như vậy là hạnh phúc nhứt đời rồi, còn có gia đình riêng chi cho thêm mệt!
Ông Tài đưa chén cho vợ bới thêm cơm, cười nói:
-  Ba mẹ thèm ẵm cháu lắm, hai anh em bây cũng đã lớn. Thằng Nhân Tết nầy cũng ngoài ba mươi chớ còn nhỏ nhích gì nữa. Còn con thì cũng đã đến tuổi lập gia đình rồi. Nếu không thích mai mối, vậy thì có quen với ai cứ nói, để ba má tìm hiểu gia đình người ta mà gả con.
Lan Chi nhỏ nhẹ, bẽn lẽn cúi mặt:
-  Cảm ơn ba mẹ lo, con hứa nếu quen với ai sẽ báo cho ba mẹ biết.
Ăn cơm xong, Lan Chi phụ mẹ rửa chén bát rồi đi tắm. Dòng nước trong mát từ chiếc đuốt chảy ra, làm cô cảm thấy dễ chịu vô cùng. Cộng vào lòng thương yêu sự lo lắng chân tình của ông bà Tài đã khiến cho cô không còn khó chịu khi nghĩ đến sáng ngày mai phải đi săn sóc một kẻ “Vô duyên không tiền thưởng/ Không lạp xưởng mà cho…” nào đó bị thương! Nghĩ đến đây cô bật cười thành tiếng, và cảm thấy thỏa thích hả hê cho những ý nghĩ rủa xả chí lý dễ thương của mình! 
Thường ngày đi làm việc Lan Chi mặc quần tây cho gọn và dễ dàng đi đứng. Hôm nay đi nuôi người bịnh nằm môt chỗ? Cô chưa biết mặt, biết tên, và cũng không biết họ già trẻ bé lớn, nặng nhẹ ra sao? Còn mẹ cô thì ngạc nhiên vì lâu quá không thấy con gái mặc áo dài.
Nên khi thấy cô diện chiếc áo dài màu hồng phấn, quần sa-teng trắng, giầy và xách tay trắng. Tóc đen mượt mà xõa trên vai dài gần chiếc eo thon, trông cô duyên dáng thướt tha quá. Bà đi sau con tỏ ý hài lòng tủm tỉm cười chớ không nói gì, khi trong lòng đang rộn niềm vui. Bởi bà thầm nghĩ hôm nay con gái mình bỗng dưng thay đổi cách ăn mặc, chắc con nhỏ đã có người yêu mà còn mắc cỡ chưa dám nói ra...
Yến Tử đến trình giấy tờ cá nhân và giấy giới thiệu của cấp trên cho ban an ninh biết lý do và thời gian mình ra vào ở khu dành cho bịnh nhân đặc biệt nầy! Nhân viên trực cho biết, A3 vừa xong ca mổ cắt bỏ chân trái từ ống quyển trở xuống. Bịnh nhân còn nằm trong phòng giải phẩu để theo dõi. Phải chờ hai giờ sau mới chuyển đến phòng hồi sức.
Cô thở dài, nghe nao lòng khi nghĩ đến chắc là anh ta bị thương nặng lắm! Nhưng bỏ đi, vì hơi sức đâu cô lo chuyện người dưng, chỉ cần tròn bổn phận cấp trên giao phó là đủ rồi. Nhìn đồng hồ tay cô thở ra, giờ thì chỉ có nước ngồi đây chờ đợi thôi.

Lan Chi định thần, cảm thấy mình mẫy toát mồ hôi lạnh, khi nhìn rõ bịnh nhân cô phải chăm sóc và giữ an ninh! Trời ơi, nếu không biết anh ta thì khi đến đây thấy người nằm mê, chỉ còn hơi thở thoi thóp là A3 cô phải chăm sóc. Đó là bí danh của anh chớ ngoài ra không biết gì nữa hết!
Vì bí mật của nghề nghiệp bắt buộc như thế! Không ai biết ai, có khi ngồi gần bên nhau, làm việc với nhau hằng mấy năm trời nhưng sự bảo mật, họ không bao giờ biết người đó là có bí danh đó, có công tác đó… nhứt là những công việc riêng tư của mỗi người.
Tâm hồn Yến Tử bấn loạn! Hai tay cô đeo cứng thành giường bịnh, cho khỏi ngã quỵ! Đã hơn ba năm, phải đã ngoài ba năm từ ngày về nhận việc anh là thượng cấp, mà cô không hề hay biết gì hết! Cô cảm thấy tâm tư xác xao, mỏi mệt, và cơ thể rã rời! Còn anh (A3) nằm đó bất động, mắt nhắm nghiền, mặt tái xanh như xác chết! Trên người anh chằng chịt nào ống dẫn nước tiểu, ống vô nước biển, ống chuyền máu… toát mồ hôi, châu thân như rả rời... và nỗi lo sợ khiến cô muốn ngất xỉu!
Yến Tử giựt mình kéo nhẹ tay áo để xem đồng hồ, cô mới biết mình đã dựa đầu vào thành giường thiếp đi gần mười lăm phút. Dù bước chân chim của y tá lanh lẹ, lăng xăng nhẹ nhàng vào theo dõi bịnh nhân... nhưng cũng đã làm cho cô tỉnh giấc ngủ không thoải mái!
Bỗng cô thấy bịnh nhân chớp đôi mi mắt mấp máy, lờ đờ, vô hồn... Yến Tử nắm chặt tay, và kề miệng mình sát bên tai anh, khẽ hỏi:
-  Anh đã tỉnh rồi! Anh đã tỉnh rồi phải không? Em là Lan Chi đây… Lan Chi đây, anh có nghe em nói không?
Anh ta không trả lời, mắt chậm chạp khép lại trong bóng đèn ngủ tỏa ánh sáng mờ ảo mắc trên tường. Yến Tử hoảng hồn bấm chuông… y tá và bác sĩ chạy tới. Họ xem xét, chẩn mạch, anh mệt nhọc thì thào trả lời bác sĩ, cô cố ý lắng nghe, nhưng không nghe được. Rồi anh nhắm mắt lại.
Bác sĩ quay sang cô, bảo:
-  Xin cô đừng lo, ông ấy đang còn say thuốc ngủ, dần dần khỏe lại và sẽ bình phục. Ổng đã mất hết một chân cô có biết không? Xin lỗi, chúng tôi đã hết sức cố gắng để giữ lại. Nhưng xương giập nát nhiều đoạn nên không giữ được… Chờ vết thương lành hẳn, chúng tôi sẽ gởi qua trung tâm chỉnh hình làm chân giả cho ông. Nếu có thể, xin cô nói để người nhà chuẩn bị tâm lý. Bây giờ ổng ngủ rồi, nếu cần gì cô cứ bấm chuông gọi…
    Lan Chi ngồi xuống ghế cạnh giường! Mắt anh nhắm nghiền lại, hai dòng lệ mỏng chảy dài trên đôi gò má xanh xao tái nhợt. Không biết an ủi anh thế nào? Cô nắm chặt bàn tay anh như ngầm nói rằng: “Anh hãy cố gắng lên, rồi đâu cũng sẽ vào đó! Em cũng buồn và đau xót như em mất đi một phần thân thể của chính mình. Nhưng sự mất mát nầy xứng đáng, xứng đáng  lắm anh ơi…” và dòng lệ nóng cũng chảy dài xuống má cô.
Lan Chi thẩn thờ nhớ lại từ khi được bác Tài nhận về làm con nuôi. Tính đến nay đã hơn hai mươi năm rồi. Thành Nhân và Lan Chi sống chung dưới một mái nhà hạnh phúc có cha mẹ lo lường thương yêu chiều chuộng. Mặc dù họ không cùng cha mẹ sanh ra nhưng cả hai thương nhau như anh em ruột thịt. Nhớ khi cô còn nhỏ, lúc mới đến chưa quen đường thuộc lối. Mẹ bận việc, anh thường đưa rước cô khi đến trường, lúc tan học. Có bánh trái anh em chia cho nhau. Anh dẫn đi chơi, dỗ dành khi cô buồn, giải đáp chỉ dẫn cho cô những bài toán khó, những bài luận, những câu hỏi gút mắc. Anh thương yêu và luôn xem cô như là em gái của mình.
Khi cả hai anh em khôn lớn. Việc làm của Thành Nhân cả mẹ và cha đều không rõ ràng cho lắm. Họ cứ tưởng anh ra trường quân sự, rồi được chuyển qua làm việc về hành chánh ở Bộ thôi. Đến khi con gái Lan Chi đậu xong phần hai, trong gia đình từ anh cho đến cha mẹ đều gợi ý và khuyến kích cô học ngành Sư Phạm, hoặc ngành Y.
Họ nghĩ rằng đó là hai cái nghề thích hợp cho nữ giới. Lan Chi chỉ vâng dạ cho qua để cha mẹ và anh được vui lòng. Chớ cái chết thê thảm của hai đấng sanh thành đã khắc ghi trong tâm trí người con gái nầy, khi còn là đứa trẻ mới bốn, năm tuổi. Cô đã chọn cho mình con đường để đi rồi, không một ai và không vì một lý do gì có thể lay chuyển được cô!
Để rồi bất ngờ một hôm Thành Nhân nhận được giấy tờ của nhân viên xuất sắc đã huấn luyện nhuần nhuyễn kết quả vượt bậc qua mỗi lần thi tuyển. Do bên trung tâm chuyển đến công tác trong ngành, thì anh mới biết Yến Tử đó là cô em gái Lan Chi của mình!
Nhiều khi chỉ thị giao công tác hiểm nguy nhọc nhằn cho em, anh cảm thấy ái ngại. Nhưng đó là phận sự của cô phải làm, bởi ai đã chọn cho đời mình vào “Đội Thiên Nga” thì coi như là ngõ cuối của đoạn đường đời, việc sanh tử chỉ cận kề trong chớp mắt, hiểm nguy và pháo đạn vô tình... Đã biết như vậy, và đã được khuyến cáo trước khi vào nghề… nhưng từng lớp thanh niên an nhiên, bình thản tiến tới không ngại ngùng lùi bước việc họ đã chọn.
Còn vợ chồng ông Lê Thành Tài bàng hoàng sửng sốt được tin con trai độc nhứt của mình bị thương và mất đi một phần thân thể! Bà khóc bù lu bù loa, ông cũng buồn đau, nhưng mở lời khuyên vợ:
    -  Bà đừng buồn nữa mà có hại cho sức khỏe. Mỗi người có số cả, con mình bị mất một chân cũng may mắn và hạnh phúc quá nhiều so với những người tử trận ngoài chiến trường, có người còn mất luôn cả xác nữa kìa... Thôi thì để nó lành lặn đâu đó yên ổn rồi thì đi hỏi cưới vợ cho nó, tuy là cái họa nhưng lại là cái phước cho gia đình mình  đó bà à…
    Bà Tài là người đàn bà hiền lành từ tốn. Nghe chồng nói bà nghĩ cũng không sai, nên cơn buồn qua mau mà lo chăm sóc bổ dưỡng trong việc ăn uống nghỉ ngơi cho con.
Hôm nay Thành Nhân đã khỏe nhiều, nhưng anh vẫn còn ốm lắm, da không còn quá tái nhợt nữa. Và bụng anh biết đói, miệng anh biết thèm ăn uống thì từ đó mỗi ngày, anh dần dà khỏe mạnh, linh hoạt hơn. Trông mặt mày anh khởi sắc, tóc anh được hớt ngắn, râu ria được cạo sạch sẽ. Anh được nhân viên tập dùng hai cây tó để đi ra đi vào phòng vệ sinh (khi chuyển ra trại ngoại khoa). 
Rồi Lê Thành Nhân được xuất viện trở về sống với gia đình có cha mẹ, có em gái chăm sóc chu đáo. Anh cảm thấy đời mình rất ưu đãi, hạnh phúc. Nhưng riêng Lan Chi nhận xét cảm thấy trong đôi mắt ngời sáng, cương nghị tràn đầy niềm tự tin và sức sống của anh mình như luôn vương vướng lớp sương mờ!

Sau hơn một năm dưỡng thương, giờ đây Thành Nhân có thể giải ngũ vì thương tật của mình. Đó cũng là sự mong muốn của cha mẹ anh, vì giặc giã xảy ra bao nhiêu cảnh thương vong hàng ngày trên báo chí từ các chiến trường tới tắp đưa về, đã làm ông bà sợ hãi cho sự an nguy của con mình.
Một hôm cha mẹ đi vắng, Thành Nhân hỏi:
    -  Lan Chi nè, theo em thì anh nên giải ngũ hay trở lại làm việc?
    Lan Chị hơi ngạc nhiên vì ông anh mình là người tự tin, ít khi đem tâm sự nói với ai, hoặc nhờ người khác quyết định việc gì đó của anh ta. Cô nhìn sâu vào mắt Thành Nhân, bảo:
-  Sao lại hỏi em, em làm gì mà quyết định cho anh được? Chỉ có anh quyết định cho mình thôi.
Nói đến đó cô ngập ngừng, rồi mỉm cười tiếp:
-  Nhưng nếu là em, thì em sẽ đi làm lại ! Anh đã khỏe mạnh rồi mà. Chân anh mất nhưng tâm hồn và lý trí anh vẫn còn nguyên vẹn chớ có sứt mẻ gì đâu? Vả lại ở nhà anh sẽ buồn chán, không thoải mái và cảm thấy là mình không còn khả năng làm việc, mình là người thừa thãi, vô dụng…
Nói đến đó, cô dừng lại cười khì chọc quê :
-  Và em cũng nghe lòng mình xốn xang khi thấy anh ngồi bên cửa sổ nhìn khói thuốc bay, rồi làm thơ thương mây khóc gió bắt em phải làm độc giả thì khổ cho em lắm lắm! Anh cũng biết, chúng ta đã được tôi luyện rồi, em chỉ muốn nhắc nhở anh thôi! Còn việc trở lại công tác hay giải ngũ là do anh quyết định cho mình đi. Em có ý kiến, sau nầy gặp chuyện gì không vừa ý thì anh sẽ đổ thừa cho con nhỏ nầy xí xọn, chuyên môn xúi dại... như mấy lần trước thì phiền lắm đó!
    Thành Nhân thấy cái mặt vắc hất có vẻ dỗi hờn, ngoe nguẫy của cô em thì không nhịn được, bật cười thành tiếng. Lan Chi nguýt anh, càm ràm:
-  Chớ không phải sao mà anh cười vui như được quà Tết vậy? Nhớ hồi anh còn học năm Đệ nhị. Chị Thu Hà con ông Chủ sự Kiêm lúc đó ở ngang nhà mình. Chị để ý, và có dịp thì luôn hỏi thăm em về anh. Khi em về kể lại, nghe xong anh khoái chí tử thấy bà. Hai người còn nhờ con nhỏ nầy làm liên lạc đưa thư qua, thư lại cho nhau nữa. Sau đó việc của anh chị bị đổ bể. Má của chị Thu Hà qua méc với ba má mình. Trước mặt ba má anh thiệt là tệ quá đi thôi! Dám làm mà không dám nhận, cứ chối bai chối biến, đổ hết tội lỗi cho người ta. Làm em bị một trận đòn muốn tét da, tét thịt! Cho đến bây giờ nhớ tới em còn thấy đau và tức mình muốn chết!
    Nghe Thành Nhân lớn tiếng cười ha hả... Lan Chi nổi nóng háy anh con mắt có đuôi, nạt vãi:
-  Xì, đến bây giờ anh chẳng những không hối lỗi, mà còn cười ha há, hô hố, cười sặc sụa, cười muốn vỡ cả nóc nhà nữa! Vô duyên! Bộ vui lắm sao mà cười...?
    Còn sặc sụa hụt hẩng trong tiếng cười, Thành Nhân quơ quơ tay bảo:
-  Vui lắm, vui lắm chớ sao không? Nghĩ lại đi, bộ em tốt bụng giúp anh đó sao? Cao xanh ơi! Mỗi lần đưa thư dùm em cũng đã được bao nhiêu tiền em nhớ chớ? Tiền ba mẹ cho anh không dám ăn bánh, dành dụm được đem hối lộ cho em hết... còn bao nhiêu gói ô mai, gói xí muội, bao nhiêu chầu «xi-nê-ma» và sau đó phải bao em ăn uống nữa! Em là đứa nổi tiếng tham ăn và ăn hàng vặt như chúa chởm? Còn phía bên Thu Hà mỗi lần nhờ vả em chuyển tin tức, thư từ chắc em cũng xơi tái của cô ta không ít, có đúng không? Được lời như vậy không biết ơn anh thì chớ, em nghĩ lại coi có bị thiệt thòi, hay bị ức hiếp gì đâu... mà sao cứ nhớ chuyện cổ lỗ sỉ đó trong bụng hoài vậy?
Giữa sự cãi nhau bốp chát không ai chịu thua ai, nhứt là cô em gái lanh miệng nầy! Nhưng trong tâm hồn mỗi người đều rộn nở niềm vui, niềm hạnh phúc không tên... mà họ chưa bao giờ nghĩ tới...
Thành Nhân trở vào làm việc, và được chuyển qua ngành khác ở Bộ chỉ huy của Trung tâm. Cha mẹ rất vui mừng khi biết hai con làm cùng sở. Cứ sáng thì anh chở đưa Lan Chi đến chỗ làm rồi chạy qua sở mình (chỉ cách có con đường), chiều ghé qua rước em về rất tiện lợi.
Có khi trời trong, nắng ráo cả hai đi dạo xem những buổi trời chiều hoàng hôn xuống bên kia sông Thủ Thêm. Hai anh em ngồi trên băng đá ngắm nhìn mặt trời có màu vàng nghệ, hình bầu dục như quả trừng gà, treo lơ lững giữa nước mây... ánh nắng chiều phản chiếu trên mặt nước sông sóng sánh lăn tăn... tỏa óng ánh những sắc màu tươi vui rực rỡ. Thành Nhân trầm ngâm châm thuốc hút chẳng nói chẳng rằng, không ai biết anh ta đang nghĩ gì? Trong khi cô em Lan Chi tâm hồn phới phới trước cảnh chiều tà, ánh hoàng hôn gần tắt thoi thóp trải chập chờn trên cây cối lá hoa bên kia sông... Thật tuyệt vời, cô nghĩ rằng trên thế gian nầy dù có hoạ sĩ tài ba xuất chúng đến mấy, cũng không làm sao họa được bức tranh thiên nhiên sống động nầy...
Có khi Thành Nhân chở em ghé qua tiệm ăn chiều trước khi về nhà... hoặc cả hai cùng xem chiếu bóng ở rạp. Có lần xem phim «The Bridge On The River Kwai» (Bên Cầu Sông Kwai) Môt phim dài hậu chiến tranh! Đã vãn hát ra khỏi rạp Lan Chi vẫn còn ngậm ngùi, xót xa những chiến binh bị đày đọa trong lao tù và đi làm cây cầu qua sông Kwai... Không cầm được nỗi đau lòng, mắt đỏ hoe... cô vẫn còn thút thít khóc!
Thành Nhân nhẹ giọng:
-  Em khóc hả, tại sao? Nghề nghiệp đã tôi luyện em thành một nhân viên thạo việc, giỏi về nhiềâu mặt, cứng rắn, kiên cường, quyết tâm... Nhưng nghĩ cho cùng, anh thấy dù sao cũng không tránh được tâm tư yếu mềm của nữ giới...
Hụt hẫng trong dòng lệ, Lan Chi bảo:
-  Phải, bởi em là một phụ nữ nên không làm sao tránh khỏi sự tha thiết của con tim bằng xương bằng thịt! Chuyện phim xem hôm nay buồn quá anh à, nước mình chiến tranh mãi như thế nầy... em nghĩ chắc là mình sẽ không lập gia đình đâu...
Thành Nhân thở dài không nói gì, cả hai đi đến chỗ gởi xe, lấy xe về nhà. Trời gần khuya, có trăng lưỡi liềm như như lưỡi hái của tử thần... treo lơ lửng ở phương tây, chiếc vespa chở hai người chạy vùn vụt trên đường hướng về nhà. Gió mát rượi, đường phố thưa thớt người... lác đác vài kẻ buôn gánh bán bưng những món ăn khuya như chè, cháo... cũng nhanh chân về kẻo đến giờ giới nghiêm!

Dù trở về làm việc, nhưng Thành Nhân không còn đi công tác xa, và vắng nhà dài hạn như dạo trước khi anh bị thương nữa. Còn Lan Chi thỉnh thoảng đi đây đi đó đôi ba ngày, hoặc tuần lễ mà thôi. Ông bà Thành Tài đã lớn tuổi, nên xin hưu trí để hưởng tuổi già, sau mấy mươi năm bận rộn với việc làm. Bây giờ gia đình họ an vui, hạnh phúc theo ngày tháng thoi đưa, nhưng ông bà Lê Thành Tài vẫn canh cánh trong lòng bởi hai đứa con lớn xồng xộng mà vẫn chưa đứa nào chịu thành gia thất.
Có một hôm trên bàn ăn cơm chiều, ông Thành Tài vui vẻ lên tiếng nói với vợ và hai con:
-  Mấy ngày trước ba có gặp ông Huỳnh Tứ Việt, có lẽ Thành Nhân và Lan Chi chắc không biết họ đâu, còn bà thì có còn nhớ ông bà Việt không vậy? Ổng xin tui hôm nào vợ chồng được qua thăm nhà mình. Ý ổng muốn hỏi dọ ba má coi Lan Chi có chỗ nào chưa, để cưới cho con trai thứ của ổng. Cậu Huỳnh Thuận Hòa cũng cỡ tuổi Thành Nhân, mười mấy năm trước đi học bên Pháp, khi ra trường thì làm ăn  ở bên đó. Nghe nói khá lắm, gia đình người ta cũng thuộc hàng gia thế giàu có. Lan Chi ưng con ổng, nếu muốn ở đây thì ổng bả sẽ mở cho cửa hàng làm ăn. Còn chịu theo chồng qua Pháp thì càng tốt, vì bên đó đã có sẵn cơ ngơi cả rồi…
    Bà Tài hài lòng cười tươi, góp ý:
-  Ờ, vậy hả? Vợ ông Việt thì tui mới gặp trên chùa vào rằm tháng rồi. Bà ấy có tiền mà bình dân, con người độ lượng, hay làm ơn làm phước. Họ thuộc về gia đình gia giáo, đạo đức. Chỗ nầy má cũng thấy được đó Lan Chi, con nay cũng đã lớn rồi thôi thì bằng lòng đi…
Bỗng quay qua con trai:
-  Còn thằng Nhân cũng vậy! Chỗ nầy không được, chỗ kia không được... kén chọn riết không biết bao giờ mới thành hôn đây? Thôi thì con để ý con gái nhà ai cứ cho ba má biết, để ba má lo cho...
Lan Chi đỏ mặt cúi xuống và lẹ cơm vào miệng. Ra ngoài xã hội về học lực, về tài trí cô không thua kém ai, nhưng bản chất của người con gái Á Đông vẫn còn trong cô, nên mỗi lần nghe cha mẹ, hay ai nhắc nhở đến chuyện lấy chồng cho mình thì cô đỏ mặt tía tai lỏn lẻn bỏ đi nơi khác.
Thành Nhân không nói gì, ậm ừ với cha mẹ, ăn qua loa rồi ra ngoài chiếc băng đá kê bên tàn cây mận đốt thuốc hút. Nét mặt trầm tư, đôi mắt buồn nhìn trời mông lung xa vắng qua làn khói thuốc tỏa bay...
    Ngày đó rồi cũng đến, bởi hai bên có hẹn trước, nên hôm nay gia đình ông bà Việt cùng với cậu con trai tên Hòa và đứa con gái út đến thăm gia đình ông bà Tài. Họ vừa bước vô nhà thì hai anh em Thành Nhân cũng đi làm về tới. Bà Tài chận con lại ngoài cửa trước, bảo đi thẳng vào nhà chào hỏi người ta.
Mấy người lớn nói chuyện rất tương đắc. Anh chàng đi coi mắt vợ xem mòi cũng vừa lòng đẹp ý lắm, dù chỉ mới lần đầu gặp cô con gái xinh xắn dễ nhìn Lan Chi. Ông bà Tài thì mừng thầm trong lòng, chắc mẻm là con gái mình cũng vừa ý chàng thanh niên hoạt bát, mặt mày sáng sủa, bảnh trai, có phong cách nầy rồi...
Tiển khách về xong, ông bà Tài cũng lật đật lên chùa cúng sao kẻo trễ, chỉ còn hai anh em ở nhà. Lan Chi thấy anh mình ít nói hơn mọi ngày, vẻ mặt lầm lì đen thủi đen thui như trời sắp xập xuống! Anh ngồi hút hết điếu thuốc nầy, đến điếu khác «điếu lật gộng, điếu động quan» cả mấy giờ rồi. Cô  hỏi đến đâu anh trả lời đến đó, chớ không ba hoa chích chòe, chọc ghẹo em như mọi khi.
Thấy mặt anh đăm chiêu có vẻ khác thường, Lan Chi liền pha hai tách nước trà còn nóng hổi bưng ra cho mình và cho anh, mỗi người một tách... Ngồi xuống ghế đối diện với anh, cô e dè rồi nhỏ giọng hỏi:
    -  Anh Hai, hôm nay có tâm sự hả? Hãy nói cho em nghe đi, cứ nói ra biết đâu em có thể chia xẻ với anh. Nói đi anh, nếu có chuyện gì buồn anh nói ra sẽ cảm thấy dễ chịu hơn giữ trong lòng sẽ khó chịu lắm…
Thành Nhân không trả lời. Anh hít mạnh điếu thuốc rồi phà làn khói trắng tỏa bay trong gió. Bỗng từ chiếc máy hát của nhà hàng xóm, ngân nga vọng đến bài hát có lời ca buồn vời vợi: “Chuyện tình của tôi xa lắm tự lâu rồi tôi không bao giờ nhắc đến. Nhưng bỗng một hôm trên đường ra phố thị tôi gặp lại em ngày nào… Nàng nhìn tôi, đôi mắt thật bâng khuâng… Cũng đôi mắt nầy năm xưa lạc vào hồn tôi… Trong những đêm không ngủ, tôi nhìn khói thuốc bay…”.   
Bài «Đôi Mắt Người Xưa» của nhạc sĩ Ngân Giang do Chế Linh hát. Giọng ca thê thiết của ca sĩ đã làm cho tâm hồn Lan Chi bồi hồi xúc động. Mặc dù tâm tư cô không vướng bận chuyện gì về tình cảm. Nhưng cô chợt thở dài, nói bâng quơ:
-  Thiệt tình, giọng ca sao mà não nuột quá trời! Ai có tâm sự buồn mà nghe cái giọng... của ca sĩ nầy thì càng thêm thúi ruột mà chết sớm.
Thành Nhân dụi điếu thuốc đang hút chưa hết:
-  Lan Chi, em thấy anh chàng Hòa coi mắt em hôm nay thế nào? Có lọt mắt xanh của em không?
Cô chưng hửng khi nghe hỏi. Nhưng cô mỉm cười vui vẻ trả lời anh:
-  Em có nhìn hắn đâu mà biết mặt mũi ra sao? Nên không biết trả lời với anh thế nào đây? Mẹ bảo chào người ta thì em vào chào, cho mẹ vui lòng vậy thôi.
Thành Nhân nhìn thẳng vào mắt em:
-  Thiệt vậy à, nhưng theo nhận xét của anh thì hình như em đã chấm anh chàng Hoà đó rồi?
Lan Chi vẫn thản nhiên, ởm ờ nói giỡn:
-  Ụa thiệt bộ anh thấy vậy hả? Sao em không biết cà! Nhưng xin lỗi nghe, anh đã đoán sai rồi! Không phải anh ta, mà người khác, em đã có đối tượng rồi anh Hai ơi...
Đến phiên Thành Nhân ngạc nhiên quá đỗi! Anh mau miệng lắp bắp hỏi Lan Chi:
-  Ai vậy, anh có biết không? Anh ta làm việc ở đâu, không làm chung sở với chúng ta chớ?
-  Anh hỏi chi vậy? Chuyện của em mà“Thiên cơ bất khả lộ”!
Chợt Lan Chi ngừng nói, nhìn anh mình hỏi:
-  Mà nè anh Hai à, anh còn nhớ cái ông chiêu hồi tên Sáu Trường Sơn không hả?
Thành Nhân vừa ngạc nhiên vừa khó chịu! Anh ta hằn học bảo:
-  Bộ em vẫn còn liên lạc ông ta hả? Ông đó là người em để ý, em thương à?
Lan Chi tự nhiên, trả lời:
-  Không, không phải vậy đâu. Bởi ông Sáu Trường Sơn sanh cùng quê quán với em. Ông ta cũng họ Bùi, nên em muốn gặp ông ta một lần để hỏi thăm xem có bà con chi không? Sao có sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy? Mà anh có thấy đó là sự trùng hợp không anh Hai?
Không ai biết trong lòng Thành Nhân đang nghĩ gì? Anh ta như không nghe em mình nói mà nổi nóng, lồng lộng lên:
-  Em trông hiền lành mà không ra gì! Quen người đàn ông nầy chưa xong thì muốn tìm hiểu về người đàn ông khác... Em làm anh quá thất vọng! Thôi thì cứ ưng đại ông Hòa coi mắt hồi sáng cho rồi đi. Để được qua Tây ở! Đó không phải là mộng ước của em và các cô gái thời nay muốn lấy chồng ngoại quốc, hoặc sống ở ngoại quốc sao?
Lan Chi cũng không vừa, trở giọng nạt tưới hột sen:
-  Anh thiệt là vô duyên hết nói nổi! Em có hỏi chuyện riêng tư gì của anh không? Em quen với ai, hay em muốn ưng ai thây kệ em. Đó là quyền tự do cá nhân của em, chớ có mắc mớ gì tới anh đâu mà anh xía vô? Sao anh nhiều chuyện quá vậy?
Không kềm chế được, Thành Nhân nói nhanh:
-  Sao không mắc mớ? Tại vì anh đã yêu em!
Lan Chi mở to mắt há hốc miệng! Không còn tự chủ được nữa, toàn thân như không vững... tay run rẩy buông rơi tách trà xuống nền gạch bể toang nước văng tung tóe… cô ngồi qụy, úp mặt xuống bàn... bật khóc!

Các viên chức từ trên xuống dưới trong Trung tâm đã lần lượt rút đi hơn cả tháng nay. Mẹ của Thành Nhân đột ngột qua đời, cha anh đang đau nặng và vợ lại sắp đến ngày sanh, nên anh cứ trì hoãn đến giờ thì đồng đội đã ra đi hết rồi…
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 giặc tràn vào! Hai vợ chồng Thành Nhân, Lan Chi đều bị kẹt lại! Họ đoán biết được chuyện gì sẽ xảy ra cho bản thân, nếu cả hai đi trình diện với bọn giặc Cộng. Giữa lúc nước non tan đàn vỡ nghé, ồn ào, bề bộn, xáo trộn ở mọi ngành nghề.  Cơ quan chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa đã thất thủ bỏ ngõ, sau lời kêu gọi của Dương Văn Minh!
Lợi dụng lúc hỗn loạn, đêm ba mươi, Thành Nhân đem cha và vợ trốn về quê của một cộng sự viên ngày xưa tá túc. Đó là vợ chồng anh Sáu Điền (bị thương tật đã giải ngũ). Từ sau giải ngũ, họ trở về quê và hiện là cư dân ở bãi biển Vàm Láng (Gò Công). Thành Nhân đến tá túc với vợ chồng anh Sáu, sống ẩn nhẩn để chờ ngày vợ sanh con xong, sẽ tìm đường ra đi.
Những ngày sống ở Vàm Láng, vợ chồng Lan Chi né tránh, trốn chui trốn nhủi bọn cách mạng 30 tháng 4 dòm ngó, chỉ điểm, lùng bắt thật là mệt mỏi. Giữa khuya thì Thành Nhân theo tàu đánh cá ra khơi chiều tối mới trở về. Cứ thế, ngày nầy qua ngày khác, chờ thời cơ để bôn đào. Dẫu biết rằng có trăm phương ngàn thứ khổ nạn trên đường vượt biên. Nhưng họ đã quyết định vì hàng vạn rủi ro cầm bằng cái chết, chỉ có cái may duy nhứt vượt thoát mới tồn tại. Họ vẫn không thay đổi ý định, quyết tâm chờ chuyến trốn bỏ quê hương của đôi vợ chồng Thành Nhân.
Sau tang cha một trăm ngày (3 tháng 10). Đứa con trai Thành Tâm được sáu tháng thì vợ chồng Lan Chi theo gia đình anh Sáu Điền cùng họ hàng thân thuộc và một số ngư dân, vượt biên theo ngã Vàm Láng cũng vào Đêm Ba Mươi (Âm lịch). Đêm không trăng sao, tối trời để đoàn người vượt biển dễ dàng trốn thoát…
 Nhưng“Họa vô đơn chí/ Phước bất trùng lai” nỗi buồn khổ tột cùng luôn kề cận bên đôi vợ chồng nầy! Biết rằng cuộc trốn chạy nào mà không đau khổ, mất mát? Nhưng một mất mát quá lớn đã đến với họ! Đứa con trai đầu lòng tên Thành Tâm chưa tròn tuổi, chưa biết kêu cha, gọi mẹ, chưa biết đau khổ, chưa biết sự lường gạt, chua ngoa, tàn độc của lòng người, của cuộc đời thì đã dìm thây trong lòng đại dương!
Bởi trên đường vượt biên, tàu họ đi đã hơn nửa tháng trời, nổi trôi lênh đênh trên biển vì tránh gió bão, rồi bị lạc phương hướng. Xăng dầu dần dà khô cạn… Hơn bốn chục (40) thuyền nhân đói khát bịnh hoạn nằm la liệt, vì hết lương thực, hết nước uống…
Vợ chồng Thành Nhân cầm cự cho đến ngày thứ tám, thì Lan Chi không còn sữa, và chồng cô ngất xỉu vì lấy máu cho con bú! Thằng Bé Thành Tâm đã vĩnh viễn ra đi! Những người cùng tàu không còn hơi để hỏi han, chia buồn, cha mẹ không còn nước mắt để khóc! Thành Nhân đôi mắt vô hồn như cắt từng đoạn ruột tự tay thả con mình vào lòng biển khơi! Lan Chi mắt trắng dã! Nàng chìm trong cơn mê sảng bởi cái đau đớn tột cùng của mẹ mất con...
Chuyến vượt biên trên tàu của anh Sáu Điền được vào trại tạm cư Ga-Lăng (trại tập trung của Liên-Hiệp-Quốc thành lập trên một hòn đảo của Indonesia, cho thuyền nhận tị nạn Cộng sản ở vùng Đông Nam Á) chỉ còn được hai mươi bảy người. Già, trẻ, bé, lớn đã chết trên biển mười ba người! Những người còn sống sót như được một lần tái sinh!
Như bao nhiêu thuyền nhân khác đến đảo, sau khi khai xong hồ sơ lý lịch cho Cao Úy Liên Hiệp Quốc. Thành Nhân và Lan Chi trong thời gian trống trải, chờ đợi qua nước tạm dung, họ dạy Anh văn cho những thuyền nhân đang chờ định cư...
Vào một buổi trưa trời đẹp nắng. Thật bất ngờ, có hai nhân viên người Hoa Kỳ cùng ngành ngày xưa, bay từ Mỹ đến bốc Lan Chi và Thành Nhân đi ngay trong hôm đó trước sự ngạc nhiên, mừng rỡ vô cùng của họ và những người chung quanh. Một sự bất ngờ hạnh phúc ngoài dự liệu, nên cả hai chỉ kịp từ giã vợ chồng anh Sáu Điền, người đã giúp đỡ gia đình họ suốt thời gian dài trong nước, và vượt biên... Chớ không có thời gian để họ giã từ những người cùng hoạn nạn thừa chết thiếu sống trong chuyến hải hành.
Vào thập tniên tám mươi (1980) ở Mỹ muốn có một cuốn sách Việt ngữ để đọc thật khó khăn... phải gởi mua ở tận bên Pháp! Sau bữa cơm chiều Thành Nhân đang dở từng trang sách mới mua ra xem, đọc xong phần tiểu sử tác giả, chàng chợt giựt mình, lẩm bẩm “oan gia lại gặp nhau” nữa rồi! Lan Chi đang rửa chén thấy chồng vừa chăm chú đọc sách, vừa nhỏ to một mình, nàng hỏi:
-  Tác giả viết có hay không, mà anh có vẻ suy tư quá vậy, còn thì thầm một mình nữa?
-  Chưa đọc hết, nên không biết hay dở. Nhưng em lại đây xem, cuốn hồi ký nầy anh thấy có gì là lạ? Anh cảm tưởng như chúng mình có quen biết với tác giả?
Hai vợ chồng Lan Chi quyết tâm tìm kiếm nhà xuất bản để hỏi thăm, và khó khăn lắm mới biết được số điện thoại của tác giả. Thế rồi hai bên hẹn và tìm gặp nhau ở tháng sau.
Trái đất tròn mà vẫn hẹp lắm! Nhờ Ơn Trên hộ độ, nơi xứ lạ quê người Lan Chi tìm được người anh cùng cha mẹ với nàng thất lạc đã mấy chục năm! Đó là người Việt Cộng hồi chánh Sáu Trường Sơn!
Số là Bùi Vĩnh Bảo có biệt danh là Sáu Trường Sơn xa nhà từ thuở trai trẻ. Anh theo tiếng gọi của quê hương đi chống Pháp, Bùi Vĩnh Bảo lớn hơn cô em gái Bùi Hoàng Lan một con giáp (12 tuổi). Cô chào đời được hai năm thì anh cô đi theo Thanh Niên Tiền Phong, và khi lãnh thổ chia đôi tập kết ra Bắc. Để mấy chục năm sau Việt Cộng nổi dậy, lấy tên là Giải Phóng Miền Nam đã giết cha mẹ anh Sáu Trường Sơn. Vì ông bà không chịu theo bọn nằm vùng và giúp đỡ cho chúng...
Khi trở về Nam, Bùi Vĩnh Bảo tìm lại nguồn cội của mình. Anh được người tá điền thân tín của cha, trước khi qua đời đã kể hết những chuyện xảy ra của gia đình cha mẹ! Cõi lòng tan nát, từ đó cho đến khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản... anh đã khổ công âm thầm tìm kiếm cô em gái thất lạc của mình. Nhưng bóng chim tăm cá! Bởi cả hai anh em mỗi người một nơi và đều thay họ đổi tên.   

Lan Chi quay về thực tế khi chồng đưa chiếc khăn tay! Bà lấy khăn lau dòng lệ long lanh chảy dài trên má, Thành Nhân trầm giọng:
-  Đừng buồn nữa em! Chúng ta không phải đã hơn hẳn những người khác cùng cảnh ngộ rồi sao? Bây giờ chúng ta còn có anh Hai. Mặc dù anh Hai không có vợ con, nhưng anh sống vui, sống khỏe, trải rộng tâm hồn mình bằng ngòi bút lên từng trang sách báo để làm vui cho đời. Anh Hai cũng không cảm thấy cô đơn, vì anh còn có chúng mình. Chúng ta sống chung trong một gia đình êm ấm, nương tựa lẫn nhau ở tuổi về chiều. Ngoài ra chúng ta đến xứ người còn có được cặp trai song sanh nay đã trưởng thành theo nghiệp mẹ cha..... Vậy là hạnh phúc lắm rồi! Mọi việc trên cõi đời nhiêu khê nhiều hệ lụy nầy đều do Thượng Đế an bài. Thôi đừng buồn nữa, đoạn đường gian khổ của chúng ta đã qua rồi…
Lan Chi nghẹn ngào:
-  Em cũng muốn quên lắm chớ! Nhưng không làm sao quên được vào Đêm Ba Mươi Tết năm nào về cái chết thảm thương của ba má em! Quên sao được những trận pháo giặc nả vào thành phố, trường học, giáo đường! Quên sao được trận thảm sát của giặc vào Tết Mậu Thân ở miền Nam, nhứt là trên đất Huế! Em làm sao quên được mỗi lần nghe tiếng khóc của trẻ thơ… Em cứ tưởng đó là tiếng khóc của con Thành Tâm chúng mình chết trên hải trình vượt biên! Hình ảnh nó giẫy giụa gào thét trên tay em lúc khát sữa! Đến khi không còn khóc nổi nữa nó âm ỹ rên, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, mà miệng con vẫn còn mở chờ bầu sữa mẹ… Trời hỡi, thê lương quá! Tàn nhẫn quá! Đời kiếp nầy làm sao em quên được đây!
Lan Chi tựa đầu vào vai chồng ràn rụa nước mắt! Thành Nhân yên lặng ngậm ngùi thổn thức, nhớ lại hoàn cảnh gia đình đã trải qua! Mắt chàng hướng qua song cửa sổ nhìn bầu trời cao thăm thẳm.
Đêm Ba Mươi Tết lại về! Không gian đắm chìm trong màu đen huyền hoặc, nền trời in lấm tấm ngàn vạn vì sao. Thỉnh thoảng trên tầng cao thật cao, tiếng máy chiếc phi cơ gầm gừ, lóe ánh đèn chớp tắt chầm chậm bay qua. Và sau đó chỉ còn lại tiếng chim ăn đêm, tiếng gió khua động lào xào cành lá, cây cối quanh nhà.
Bùi Vĩnh Bảo ngồi xem truyền hình, nhưng nghe hết những lời đối đáp của vợ chồng cô em gái. Đứng lên, đến bàn lấy bình nước trà chế thêm vào tách, ông chép miệng thở dài rồi ôn tồn bảo:
“...Hai em nghĩ xem, có con đường đi tìm tự do nào mà không cam go, mà không trả một giá thật đắt? Trong không gian cao và rộng, có những cánh chim lả lướt bay, có những chiếc phi cơ khổng lồ âm thanh rền vọng. Khi chim và phi cơ bay qua rồi không để lại vết tích nào cả! Mặt nước sông dài, mặt biển rộng bao la, bát ngát không thấy bờ bến. Có những chiếc ghe, những chiếc tàu dù nhỏ hay lớn khi đã qua rồi cũng không để lại dấu tích gì trên mặt nước. Nhưng núi cao ngút trời, rừng sâu thăm thẳm, trên đồng bằng đất đai màu mỡ hay khô cằn sỏi đá, rộng bao la, dài bát ngát chim bay mỏi cánh, chó chạy cong đuôi... Khi có bước chân của người đi qua, một người, hai người, ba người đi qua, nhiều người giẵm lên thì nó sẽ trở thành con đường. Con đường đó sẽ có những bước chân tiếp nối từ thế hệ nầy đến thế hệ khác. Rồi đường được khai phá, mở rộng, vun bồi…hai bên đường sẽ được cất lều, xây nhà, trồng cây ăn trái, trồng hoa thơm cỏ lạ… Đó là đường chúng ta đã đi qua…”

Không gian vào Đêm Ba Mươi lúc nào cũng có màu đen thật đen. Trên nền trời in những chùm sao li ti nhấp nhánh… Bên ngoài tiếng rì rào thì thầm của gió rung cây, có loài chim ăn đêm bay chập chờn trên dòng sông vắng sau nhà, thỉnh thoảng chúng cất tiếng kêu oang oác xa dần, xa dần… rồi mất hút. Trong ngôi nhà nhỏ bát ngát mùi nhang, trầm, hoa vạn thọ, hoa liên kiều, dưa hấu, cam, quít... cùng mâm ngũ quả, và bánh tét, bánh chưn, mứt, chà là… Gia chủ đã chưng cúng trên bàn thờ ông bà tổ tiên để đón mừng năm mới. Tiếng lách tách của củi cháy trong lò sưởi rực rỡ hồng ánh lửa thắp sáng căn phòng gia đình trong đêm trừ tịch bên xa lộ không đèn dài ngút ngàn…
Bỗng có tiếng xe dừng lại trước nhà, cả ba người đều nhìn nhau dò hỏi? Không ai bảo ai họ tiến gần cửa sổ nhìn bầu trời tối đen như nhuộm mực tàu, cùng thấy hai bóng đen cao lớn như dân bản xứ, nhanh nhẹn bước ra khỏi xe và đi vào... Cửa nhà bật mở, ông Bùi Vĩnh Bảo và Lê Thành Nhân ngạc nhiên... giây phút bất chợt mắt đỏ trong nụ cười rạng rỡ mừng vui. Đứng phía sau họ, chiếc khăn tay Lan Chi rơi xuống... bà lao đến mở rộng vòng tay ôm chầm lấy hai con trong bùi ngùi nức nở, nghẹn ngào, trong nước mắt ràn rụa... bà thổn thức “Con tôi đã về, con tôi đã về...”
Bữa cơm muộn của hai thanh niên trong Đêm Ba Mươi Tết. Cha và cậu mắt ngời sáng nghe con, cháu kể chuyện những ngày qua... Riêng Lan Chi trìu mến nhìn con lính quính múc thêm món nầy, đem thêm món khác... mà niềm mừng vui và thương cảm dâng ngập cõi lòng của mẹ.
Dẫu biết rằng hai đứa con bà sanh ra và trưởng thành trên nước Mỹ có tự do, nhân quyền thật sự... không ai có thế bắt làm những chuyện mà chúng không muốn! Nhưng hai đứa con của vợ chồng Thành Nhân và Lan Chi đã tự chọn cho mình con đường mà thời thanh xuân nơi quê hương chinh chiến triền miên cha mẹ đã đi qua!
Bà Lan Chi cảm thấy xót xa trong tấm lòng của người mẹ... Bởi bao nhiêu gian nan, nguy hiểm... có thể đến bất cứ lúc nào cho những kẻ âm thầm len lỏi trong lòng đất địch mang trọng trách bên mình... dù không ai bắt buộc họ phải làm, phải hy sinh...
Dưới ánh đèn điện của phòng ăn, trong lòng của Lan Chi: Cũng đôi mắt cương nghị ngời sáng, nét mặt uy nghiêm, điềm đạm... đó, chồng và hai đứa con bà ngồi gần... thật sự ba cha con giống nhau như ba giọt nước!
Bỗng đứa con lớn mỉm nhẹ nụ cười nhìn mẹ:
-  Xin lỗi ba me và cậu, vì trách nhiệm và bổn phận của những người lính như anh em con... Không có thời gian, không gian, không nơi nào nhứt định, không biết trước nơi nào sắp đến và đi, cũng không có gì cho cá nhân mình... nên chúng con không hẹn trước về thăm gia đình thường xuyên như ý muốn được!
    Đứa thứ hai, tiếp lời anh mình:
-  Chúng con rời Trung Đông... đến khi xuống phi trường Los Angeles mới biết là hai đứa được về thăm nhà trong đêm Ba Mươi Tết! Nhiệm vụ mới của chúng con sẽ là vùng Châu Á, vẫn chưa biết nước nào? Có thể Bắc Triều Tiên, có thể Trung Quốc, có thể “Vũng Áng Formosa” của Việt Nam. Ba mẹ cũng biết mọi sự việc luôn được bảo mật tối đa...
    Cả nhà đón giao thừa xong thì vào nghỉ ngơi, để sáng mừng ngày đầu của năm... Nỗi mừng vui con về thăm còn nồng ấm trong lòng mọi người trong gia đình và chập chờn trong giấc mơ xuân...
Tiếng động khóa trái cửa khiến Lan Chi trở giấc, bà nhổm dậy và bước xuống giường đi về phía cửa số... Trời nửa đêm về sáng sương mù còn dầy đặc giăng mắc đó đây... Trong bóng đêm nhòa nhạt của đêm Ba Mưới rạng sáng mùng một Tết Nguyên Đán... chiếc xe từ từ nhẹ lướt trên đường đưa hai con bà hướng ra xa lộ... Dòng nước mắt chảy dài xuống má, bà sụt sùi úp mặt trên đôi bàn tay, đôi vai gầy rung rung...
-  Đừng buồn em, lúc chúng còn nhỏ thì là con cháu của chúng ta, khi lớn khôn chọn cho mình bước vào ngành đó rồi thì là con của thế nhân... Bởi những người ”Lính Không Biên Giới” như chúng, không phân biệt lãnh thổ, chủng tộc và không quyền lựa chọn cho riêng mình...
Giọng nói trầm buồn của chồng khiến nàng càng thêm thổn thức. Ông anh cầm mảnh giấy nhỏ vừa lấy ở bàn viết đưa cho vợ chồng cô em.
Những dòng chữ còn in rõ nét mực “Ba mẹ và cậu giữ gìn sức khỏe, chúng con đi... Hy vọng ngày không xa, Việt Nam trở lại thanh bình dưới Chánh thể Cộng Hòa, cậu và ba mẹ sẽ về thăm lại cố hương...” Ngắm nghía từng nét chữ của con trên mảnh giấy nhỏ để lại trước khi rời nhà, mắt lệ rưng rưng... Lan Chi càng thương cảm hai con vô cùng!
Đêm Ba Mươi Tết đã tàn, nhưng ngoài trời vẫn bao trùm màu sương trắng mờ mịt. Ngọn gió xuân man mác hiu hiu thổi trên cây cành va chạm vào nhau âm thanh rào rào... và trên đám hoa liên kiều rộ nở đón mừng xuân bên kia bờ sông... Tiếng chim kêu líu lo đón chào ngày đầu của năm, từ vô tuyến truyền hình trong nhà các đài Việt Nam ở California phát hình ảnh trăm hoa đua nở có màu sắc hớn hở tươi vui sống động của mùa xuân xa xứ. Bỗng bài “Xuân Nơi Đây” được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ nhạc, và những bài ca ngợi về Tết Nguyên Đán... rộn rã qua giọng ca sĩ tha thiết âm vang trầm bổng quyện trong gió xuân nồng... Phương đông mặt trời mới nhú tạo một vòng lớn màu sắc rực rỡ... báo hiệu một ngày nắng đẹp của đầu năm...


DƯ THỊ DIỄM BUỒN


Email: dtdbuon@hotmail.com
ĐT: (530) 822 5622
__._,_.___

Posted by: DiemBuon DTDB 

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List