Tha Thứ, Tâm Hồn Sẽ Tĩnh Lặng
Tuệ Uyển
Tôi đã đến sớm cho cuộc phỏng vấn Đức Đạt Lai Lạt Ma ở tòa nhà
tiếp kiến của ngài ở Dharamsala. Căn phòng cở vừa và đẹp, bừa bộn một cách thú
vị với những chiếc ghế bành và trường kỷ kiểu Ấn Độ, có một sự cân bằng dễ
thương giữa ánh sáng tự nhiên và nhân tạo. Ánh sáng ban ngày, một bộ phận xuyên
qua những giàn bông giấy tím và dây leo trên cổng ra vào phía ngoài, bao phủ cả
căn phòng qua những cánh cửa sổ rộng. Tám cuốn thư thangka màu sắc của Tây
Tạng, mỗi tấm trình bày một khía cạnh của Bồ tát Tara, treo gần trần nhà.
Nhưng mắt tôi bị lôi cuốn với một điều đó không hợp lý trong căn
phòng. Trên ngưỡng cửa sổ gần lối vào, giống như được đặt ở đó sau này, là một
khối lập thể pha lê của điện Capitol ở thủ đô Hoa Sinh Tân, Hoa Kỳ. Hơn một bộ
và cao khoảng nửa bộ, là một vật trông cứng chắc và mạnh. Tôi bước qua để xem
gần hơn. Có một lạc khoản ở dưới. Đó là First Annual Raoul Wallenberg Congressional Human Rights Award (giải thưởng
Nhân Quyền Raoul Wallenberg của Quốc Hội), được tặng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma bởi
Dân Biểu Hoa Kỳ Tom Lantos.
Giải thưởng, được đặt tên cho một nhà ngoại giao Thụy Điển, người
đã cứu hàng nghìn người Do Thái trong những trại chết Quốc Xã, được tặng vào
ngày 21 tháng Bảy năm 1989. Không đầy ba tháng sau, vào ngày 5 tháng Mười, hội
đồng Nobel Na Uy đã tuyên bố ở Oslo rằng người Tây Tạng cũng đã giành giải Nobel Hòa Bình.
Giải thưởng tuyên dương sự đối kháng kiên định đối với bạo động và sự ủng hộ
tích cực của Đức Đạt Lai Lạt Ma cho “một giải pháp hòa bình căn cứ trên sự bao
dung và tôn trọng hổ tương nhằm để bảo tồn di sản lịch sử và văn hóa của dân
tộc ngài.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc đó năm mươi bốn tuổi, là người Á châu đầu
tiên thắng giải hòa bình mà không có ai cùng chia sẻ.
Trong tuyên bố, Chủ tịch
Hội Đồng Nobel Egil Aarik thú nhận với các phóng viên rằng bất bạo động đã
không thành công cho việc giành độc lập của Tây Tạng trong hơn ba thập niên qua.
Nhưng ngài tin tưởng rằng không có những giải pháp danh dự khác. “Dĩ nhiên các
bạn có thể nói rằng nó quá không thực tế,” ngài nói về bất bạo động. “Nhưng nếu
các bạn nhìn vào thế giới ngày nay, giải pháp nào cho xung đột? Bạo động và sức
mạnh quân sự là giải pháp chứ? Không… con đường hòa bình là thực tế. Đó là tại
sao Đức Đạt Lai Lạt Ma được chọn – bởi vì ngài là một phát ngôn viên rất rõ
ràng và phi thường cho triết lý hòa bình này.”
Trong trái tim triết lý hòa bình của Đức Đạt Lai Lạt Ma là năng
lực nuôi dưỡng sự tha thứ. Khi tôi gặp gở Đức Đạt Lai Lạt Ma lần đầu tiên
khoảng ba mươi năm trước, ngài đã nói với tôi rằng ngài tha thứ cho người Trung
Cộng cho những gì mà họ đã làm đối với người Tây Tạng. Vào lúc ấy, tôi đã ngạc
nhiên. Bây giờ tôi muốn học hỏi thêm trong lần phỏng vấn tới. Khi Đức Đạt Lai
Lạt Ma vào phòng tiếp kiến và ngồi đối diện tôi, tôi hỏi ngài mà không có bất
cứ sự rào đón nào, “Thưa Đức Thánh Thiện, tôi nghĩ rằng tự nhiên ngài phải phẩn
uất đối với người Trung Cộng chứ. Tuy thế, ngài đã nói với tôi rằng điều này
không phải như vậy. Nhưng thưa ngài, tối thiểu đôi khi ngài cũng có trải nghiệm
những cảm giác sâu lắng của oán hận chứ?
“Điều đó hầu như không bao giờ,” Đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời. “Tôi
phân tích thế này: nếu tôi phát triển những cảm giác xấu đối với những ai đã
làm tôi đau khổ, điều này sẽ chỉ tàn phá tâm tư hòa bình của tôi mà thôi. Nhưng
nếu tôi tha thứ, tâm hồn tôi sẽ trở thành tĩnh lặng.
Bây giờ, liên hệ đến sự
tranh đấu của chúng tôi cho tự do, nếu chúng tôi hành động mà không sân hận,
không thù oán, mà với sự tha thứ chân thành, thì chúng tôi có thể đưa sự đấu
tranh của chúng tôi hiệu quả hơn. Đấu tranh với tâm hồn tĩnh lặng, với bi mẫn.
Qua thiền phân tích, bây giờ tôi có niềm tin vững chắc hoàn toàn rằng những cảm
xúc tàn phá như thù hận là vô ích. Ngày nay, sân hận, thù oán, chúng không xảy
ra. Nhưng chút chút tức tức đôi khi hiện hữu.”
Bất khi nào Đức Đạt Lai Lạt Ma nói về tha thứ, ngài thích sử dụng
thí dụ về câu chuyện của Lopon-la, một tu sĩ ở Lhasa mà ngài biết trước khi
Trung Cộng xâm lăng.
“Sau khi tôi trốn thoát khỏi Tây Tạng, Lopon-la bị nhốt trong nhà
tù bởi người Trung Cộng.” Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với tôi. “Ông ở đấy mười tám
năm. Khi được thả ra, ông đã đến Ấn Độ. Trong hai mươi năm tôi không thấy ông.
Nhưng ông dường như vẫn vậy. Dĩ nhiên trông già hơn. Nhưng thể chất OK. Tâm
thức ông vẫn sắc bén sau nhiều năm ở trong tù. Ông vẫn là một tu sĩ hiền lành
như ngày nào.
“Ông nói với tôi rằng người Trung Cộng bắt ông phải từ bỏ tôn giáo
của ông. Họ tra tấn ông nhiều lần trong tù. Tôi hỏi ông là ông có bao giờ sợ
hãi không. Lopon-la trả lời: “Vâng, có một điều mà tôi sợ. Tôi sợ là tôi sẽ
đánh mất lòng từ bi đối với người Trung Hoa.”
“Tôi rất xúc động với điều này, và cũng rất hứng thú.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma dừng lại. Ngài kéo mạnh chiếc y đỏ thẩm của
ngài và quấn chặc lại chung quanh ngài.
“Bây giờ nè. Lopon-la . Tha thứ đã giúp ông ta trong nhà tù. Do
bởi tha thứ cho nên những trải nghiệm xấu với người Trung Cộng không trở nên tệ
hại. Tinh thần và cảm xúc, ông cũng không đau khổ quá nhiều. Ông biết là ông
không thể trốn thoát. Cho nên tốt hơn là chấp nhận thực tế hơn là bị thương tổn
tinh thần bởi nó.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma tin chắc rằng năng lực tha thứ của Lopon-la đã
giúp ông sống còn qua tất cả những năm trong nhà tù ấy mà không bị tổn hại đến
nổi không thể cứu vãn được đối với tâm lý ông ấy. Trong một cuộc du hành sang
Âu châu với Đức Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã gặp một người đàn ông mà cuộc đời của
ông, giống như Lopon-la, được làm nổi bật qua sự tha thứ.
***
Europa của Belfast là khách sạn bị bom nổ nhiều nhất ở Âu châu,
theo cẩm nang hướng dẫn Lonely Planet ở Anh quốc. Nó bị bom nổ ba mươi hai lần
trong cao trào của Xung Đột Vũ Trang, sau ba thập niên dài huynh đệ
tương tàn giữa những người Thiên Chúa Giáo và Tin Lành ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Từ khi
khách sạn được lắp đặt những cửa sổ không vở năm 1993, những vụ đặt bom đã
không còn.
Sau khi dùng điểm tâm tại một khách sạn thanh lịch ngoài hành lang
cẩm thạch của Europa tôi đi qua một vài khuôn (block) nhà đến tòa nhà
Waterfront Hall lấp lánh. Hình vòng tròn, kiến trúc mới toanh bằng kính và đá
hoa cương làm ấn tượng với phi thuyền Enterprise (trong phim khoa học giả
tưởng). Tòa nhà hòa nhạc 52 triệu đô la là một biểu tượng của hy vọng và hồi
sinh cho một Belfast xung đột. Và, giống như Viện Bảo Tàng Guggenheim ở Bilbao
(Tây Ban Nha), nó đã đặt thành phố vào bản đồ văn hóa của Âu châu một cách vững
chắc.
Tôi đã ở Waterfront Hall để gặp gở Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là lần
đầu tiên lãnh tụ Tây Tạng viếng Belfast. Ngài ở đấy để tham dự hội nghị hòa
bình liên tôn được Linh mục Laurence Freeman tổ chức, một tu sĩ dòng Biển Đức,
và thăm vài điểm xung đột ở Bắc Ái Nhĩ Lan.
Tôi bắt gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma tại
phòng tiếp tân kế bên giảng đường. Ngài đang đứng bên cạnh Linh mục Laurence và
Seamus Mallon, lãnh tụ của phái Thiên Chúa Giáo Bắc Ái Nhĩ Lan. Mallon có một
khăn choàng dài trắng quấn quanh cổ, một cử chỉ thân thiện với người Tây Tạng.
Seamua Mallon, một người đàn ông Ái Nhĩ Lan đeo kính và tóc trắng khoảng giữa
tuổi sáu mươi, trông già hơn tuổi của ông. Nhân vật trung tâm của tiến trình
hòa bình Ái Nhĩ Lan, ông chưa từng nghĩ ngày nào trong nhiều năm. Ông muốn biết
những người Tây Tạng viếng thăm thích xứ sở của ông như thế nào.
“Rất xinh đẹp. Và con người là …” Đức Đạt Lai Lạt Ma lần mò để tìm
một từ thích hợp. Tenzin Geyche Tethong bắn một phát: “nồng hậu”. Tenzin Geyche
là một người thấp nhưng ưu tú, đã phục vụ như một cố vấn cho lãnh tụ tối cao
của Tây Tạng hầu hết cuộc đời ông. Ông đã từng là một tu sĩ nhưng đã hoàn tục
thời gian nào đó trước đây.
“Vâng, mọi người rất niềm nở.”
Sau đó Đức Đạt Lai Lạt Ma nghiêng về phía Mallon, nhìn chăm chú
vào ông.
“Nhưng bức tường giữa con người, Thiên Chúa và Tin Lành …điều đó
thì xấu. Nó giống như một bức tường Bá Linh nhỏ.”
“Bức Tường Bá Linh Nhỏ” là một công trình cao năm mét bằng bê tông
và kim loại với hai lằn kẻm gai trên đỉnh, được xây dựng để giữ người Thiên
Chúa và Tin Lành khỏi va chạm nhau. Những máy hình kiểm soát được đặt trên
những khoảng cách chiến lược. Cảnh hoang tàn chung quanh đấy là rõ ràng: cả hai
bên là những lô đất trống vung vải những dây thun, kẻm gai mục nát. Người ta
gọi bức tường này, không xa trung tâm Belfast, là Giới Tuyến Hòa Bình.
Cách xa một khuôn nhà là Pony Club. Bức tường của nó còn đó nhưng
mái nhà đã sụp, sườn nhà bị đốt thành tro bởi bom lửa. Quang cảnh trông như đã
nhiều năm. Khu vực là một niềm vui của các phóng viên săn ảnh. Toàn bộ tiền
diện của căn nhà được sơn vẽ nổi bật những hình ảnh đầy màu sắc được chọn lựa
từ cuộc Xung Đột Vũ Trang. Hầu hết chúng tôn vinh lời kêu gọi chiến đấu đối
kháng. Những người đàn ông che mặt trong áo quần đen nâng súng.
Một ảnh chân
dung bốn tầng của Bobby Sands – ca tụng người chiến binh IRA1 nhịn đói đến
chết năm 1981 phản đối sự đối xử tàn nhẫn những tù nhân IRA của Anh quốc – đọc
là: sự trả thù của chúng tôi sẽ là tiếng cười của con em chúng tôi.
Vào ngày đầu tiên của cuộc viếng thăm, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đến
bức tường để trồng một cây trên đường Lanak Way. Ngài ra khỏi xe về phía Tin
Lành, lề đường và trụ đường được phết lên với màu xanh, đỏ và trắng, màu của lá
cờ Liên Hiệp Anh (bom sơn ba màu đã được ném vào những nhà Thiên Chúa Giáo một
tháng trước đây). Một đám đông người chào đón ngài, nhiều người trong đó là
những trẻ em trong đồng phục trường học, ve vẩy lá cờ nhiều màu của Tây Tạng.
Ngài chen vào trong chúng, trò chuyện và bắt tay chúng.
Sau đó Đức Đạt Lai Lạt Ma bước đến những cánh cổng thép nặng
trịch. Khi cảnh sát, Lực Lượng Cảnh Sát Hoàng Gia áo choàng, mở vung chúng ra,
tiếng cổ vũ vang lớn lên cả hai phía của bức tường. Ngài chậm rãi bước qua Giới
Tuyến Hòa Bình đến đường Springfield Thiên Chúa Giáo, nơi nhiều trẻ em hơn cầm
một tấm biểu ngữ chào mừng. Những cánh cổng thường chỉ mở một năm một lần – vào
tháng Bảy khi Tổ Chức Tin Lành (Protestant Orange Order) diễn hành qua chúng và
lên phía Thiên Chúa Giáo của bức tường, một “tiết mục trong gương mặt trơ trẻn”
(an in your face show of chutzph) làm nâng cao tình trạng căng thẳng của
Belfast.
Tại Giới Tuyến Hòa Bình, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói với hai cộng
đồng đấu tranh rằng cách tốt nhất để ngăn ngừa xung đột là bằng việc làm dịu
những cảm xúc.
“Khi cảm xúc con người vượt ngoài sự kiểm soát,” ngài nói với họ,
“thế thì bộ phận tốt nhất của não bộ mà trong ấy chúng ta phán xét không thể
làm việc một cách thích đáng.
Dĩ nhiên, một số xung đột, những khác biệt nào
đó, sẽ luôn luôn ở đấy. Nhưng chúng ta nên sử dụng những sự khác biệt trong một
cách tích cực cố gắng tiếp nhận năng lực tiềm tàng từ những quan điểm khác
biệt. Hãy cố gắng để giảm thiểu tối đa bạo động, không phải bằng sức mạnh, mà
bằng sự tỉnh thức và tôn trọng. Qua đối thoại, quan tâm đến quan điểm của phía
kia và rồi chia sẻ với cái của chúng ta, thì sẽ có một cách để giải quyết những
vấn nạn.”
Tây Tạng đã khổ đau cùng cực dưới sự thống trị của Trung Cộng, cho
nên khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với đám đông về sự vô ích của bạo động, ngài đã
nói từ kinh nghiệm sâu thẳm và đau thương.
“Không phải là không thể tin được khi những người cùng niềm tin Ki
Tô phải chiến đấu với nhau sao?” ngài nói khi ngài nhìn chăm chú vào khuôn mặt
những người Thiên Chúa và Tin Lành trước mặt ngài. “Dường như là khờ dại. Tôi
cảm thấy dường như đầu tôi quay cuồng vì sự xung đột của quý vị. Nếu người nào
đó so sánh Phật Giáo và Ki Tô Giáo, thế thì chúng ta phải nghĩ, vâng, có những
sự khác biệt lớn lao. Nhưng giữa những người Tin Lành và Thiên Chúa?
Không có
gì cả! Quý vị và tôi có nhiều khác biệt hơn là giữa chính quý vị. Nhưng tôi
mong ước cho các bạn rằng các bạn đừng bao đánh mất hy vọng. Tôi không thể làm
gì cả. Kết quả cuối cùng nằm trong tay của những người Bắc Ái Nhĩ Lan.”
Vào lúc cuối bài phát biểu của ngài, Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi đám
đông, “Như vậy có ích chứ?” Một tiếng cổ vũ lớn cho ngài vang lên. Sau đó ngài
nói, “Như vậy có ích chứ, xin hãy nhớ lấy điều ấy. Nếu không, thế thì” – ngài
cười – “thế thì các bạn hãy quên nó đi.”
Một mục sư Tin Lành và một tu sĩ Thiên Chúa đứng hai bên ngài.
Ngài kéo hai người lại gần nhau và ôm họ. Sau đó, với một thoáng nhìn tinh
nghịch trong đôi mắt, ngài bước tới gần và kéo bộ râu quai nón của họ. Đám đông
vô cùng hoan hỉ. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn luôn làm như thế với những bộ râu quai
nón, ngài không thể cưỡng lại việc đùa như thế.
Tờ Belfast Telegraph xuất bản một hí họa trong trang biên tập về
cuộc viếng thăm, hình: ba tên côn đồ quắc mắt nhìn vào Đức Đạt Lai Lạt Ma
mĩm cười khi ngài đang trồng một cây nhỏ cạnh Giới Tuyến Hòa Bình, tên đầu đảng
gầm gừ: “Ừm, nhưng ông là Phật tử ủng hộ con chiên Thiên Chúa hay Tin Lành?”
***
Buổi trưa kế tiếp, cảnh sát trưởng của Belfast hộ tống Đức Đạt Lai
Lạt Ma đến một văn phòng trang trọng ở tòa thị sảnh thành phố, một thành trì
của người Tin Lành ai cũng biết là Ulster Hall. Đức Đạt Lai Lạt Ma ngồi sụp
xuống chiếc ghế, đôi chân ngài duỗi thẳng ra. Ngài mệt mõi vì cuộc viếng thăm
Derry. Ngài đã đến đấy bằng máy bay riêng, sau buổi sáng nói chuyện tại
Waterfront Hall, để nói chuyện về tha thứ đến ba mươi tư người Thiên Chúa và
Tin Lành, tất cả những nạn nhân của những cuộc tấn công khủng bố đã lấy đi sinh
mạng của 3,600 người trong ba mươi năm qua.
Trong mười lăm phút giải lao ngắn ngủi trước một sự kiện tới, Đức
Đạt Lai Lạt Ma có có hội để phản ánh cuộc đi thăm Derry với Linh mục Laurence,
người mà ngài không rời trong mấy ngày qua đối với việc chia sẻ những ý tưởng
và sự tôn trọng hổ tương của họ.
Linh mục Laurence, trong bộ đồ truyền thống màu trắng, đầy sinh
khí. Nếu ông mệt mõi, ông không cho phép nó biểu hiện.
“Ngài nhớ người trai trẻ này ở Derry chứ, Richard Moore. Cậu bị mù
lúc lên mười tuổi,” Linh mục Laurence nhắc Đức Đạt Lai Lạt Ma.
“Bị bắn.” Đức Đạt Lai Lạt Ma bừng dậy, ngài sửa ghế, và ngồi thẳng
hơn. “Nhưng cậu đầy những ý tưởng, đầy nhiệt tình.”
Linh mục Laurence nhìn qua tôi.
“Hãy tưởng tượng, Đức Thánh Thiện là một người rất vui vẻ, và cậu
này rất vui vẻ, cho nên cậu ta đã tham dự cuộc gặp gở này một cách bình đẳng
với các nạn nhân.”
“Một điều buồn cười. Ông đã hỏi về …” Đức Đạt Lai Lạt Ma dừng lại
và bắt đầu cười khúc khích. Sau đó ngài xoa bóp khắp khuôn mặt ngài.
Biết chắc chắn Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ đến chỗ nào, Linh mục
Laurence tiếp theo mạch chuyện. “Richard không thấy bóng tối, cho nên tôi hỏi
cậu, Cậu thấy gì? Cậu nói, “À, tôi thấy người, như, tôi tưởng tượng họ.’ Cho
nên tôi nói, ‘Đức Đạt Lai Lạt Ma giống thế nào?'”
Đức Đạt Lai Lạt Ma nhảy vào: “Sau đó tôi để cậu ta sờ khuôn mặt
tôi.” Ngài vuốt khuôn mặt ngài trong một vòng tròn một lần nữa. Rồi thì ngài rờ
lỗ mũi ngài. “Và mũi tôi. Và ngài nói, ‘Ô, mũi lớn!'” Đức Đạt Lai Lạt Ma vổ hai
bàn tay ngài lại với nhau và vụt cười to, cả thân hình ngài rung rinh theo
tiếng cười.
Linh mục Laurence tiếp tục, “Vâng. Sau đó tôi hỏi cậu ta phải mất
bao lâu để điều hòa chấn thương tâm lý vì bị mù.”
“Và cậu ta trả lời, ‘Qua đêm.'”
Tôi khó khăn liên hệ với một chút thông tin này. Nếu tôi hiểu tâm
lý của Richard Moore, sự phản ứng của tôi sẽ rất khác. Tôi không thể tưởng
tượng việc trở lại bình thường một cách nhanh chóng khi bị mất mát như vậy.
Tôi nói chuyện với Richard Moore ở Derry bằng điện thoại một vài
tháng sau chuyến viếng thăm Bắc Ái Nhĩ Lan của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Tôi tò mò về
việc chấp nhận thực tế bị mất ánh sáng của đôi mắt một cách phi thường của cậu
ta.
“Có vài lý do tại sao tôi chấp nhận mù lòa một cách nhanh chóng,”
cậu nói với tôi. “Tôi có nhiều sự hổ trợ từ gia đình và bè bạn ngay lập tức. Có
nhiều sự chú ý từ truyền thông địa phương và quốc gia. Những lãnh tụ chính trị
đến nhà và an ủi tôi. Qua đêm tôi đã là một người nổi tiếng và tôi được làm cho
cảm thấy quan trọng. Một vấn đề khác, tôi may mắn: tôi được sinh ra là một đứa
trẻ hạnh phúc, tôi được cho một vị trí hạnh phúc, hài lòng.
“Cậu có bao giờ thất vọng không?” tôi hỏi.
“Hai tuần sau khi ra khỏi bệnh viện,” Moore trả lời, “anh tôi dẫn
tôi đi bộ trong vườn sau nhà. Anh ấy hỏi tôi rằng tôi có biết chuyện gì xảy ra
không. Tôi nói vâng, tôi bị bắn. Anh hỏi tôi có biết tổn hại gì không. Tôi nói
tôi không biết. Sau đó anh ấy nói rằng tôi mất một mắt và mắt kia thì không thể
thấy. Tôi khóc thảm thiết đêm đó. Tôi khóc bởi vì tôi biết tôi sẽ không thể
thấy khuôn mặt của cha tôi hay mẹ tôi nữa. Nhưng đó là vậy. Ngày kế tiếp tôi
chấp nhận số phận của tôi.
“Dĩ nhiên, có những thời khắc đau đớn sâu thẩm.
Tôi ở đấy với sự
sinh đẻ của con cái tôi, nhưng tôi không thể thấy chúng. Chúng có sự cảm thông
của chúng lần đầu tiên. Tôi muốn làm bất cứ thứ gì trên trái đất này để thấy
chúng. Tất cả là những buổi sáng Giáng Sinh … hồi đó. Có một cái giá phải trả
và sẽ luôn luôn là như thế. Nhưng tôi không cho phép chúng chế ngự cả đời sống
còn lại của tôi.
“Cha tôi luôn luôn nói với tôi rằng: ‘Đừng bao giờ để một đám mây
làm hư cả một ngày nắng đẹp.'”
Tôi thấy khó khăn để đặt ngang hàng việc bị bắn vào mắt với một
đám mây bay qua.
“Cậu bị bắn như thế nào?” tôi hỏi cậu ta.
“Vào ngày 4 tháng Năm, 1972 – lúc tôi mười tuổi – có một vụ xung
đột nào đó trên các đường phố. Tôi tham gia và ném đá vào một số binh sĩ Anh Quốc.”
Moore im lặng một hồi lâu.
Cậu tiếp tục. “Và sau đó, à, tôi không nhớ chuyện gì đã xảy ra
tiếp theo. Một binh sĩ bắn một viên đạn cao su gần đấy, và tôi bị trúng mắt
phải. Một giáo viên của tôi ở đấy nhưng ông không thể nhận ra tôi bởi vì mặt
tôi quá biến dạng. Cha tôi vào xe cứu thương với tôi. Nhưng ông không để mẹ tôi
cùng lên, ông không muốn mẹ tôi thấy tôi. Bà có một người anh em bị bắn chết
trong tháng Giêng năm 1972, vào một ngày Chủ Nhật đẩm máu.”
“Cậu cảm nhận thế nào về người binh sĩ đã bắn cậu?” tôi hỏi cậu
ta.
“Tôi biết là kỳ lạ,” Moore nói, “nhưng tôi không cảm thấy cay đắng
với ông ta – như một sự thật, tôi hoàn toàn tò mò để gặp ông ta. Tôi muốn nói
điều này. Tôi nghĩ điều lớn nhất đã giúp đở tôi nhất trong đời là tôi không hận
thù ông ta. Tôi tha thứ cho ông hoàn toàn và vô điều kiện.”
Năng lực tha thứ của Richard Moore
đã đưa cậu ta vào những phương hướng không ngờ trong đời sống. Vài năm trước,
Moore khởi đầu một tổ chức gọi là Trẻ Em Giữa Lằn Đạn (Children in Crossfire),
cung cấp sự hổ trợ đến những trẻ em gặp khó khăn ở Á châu, Phi châu, và Mỹ châu
La tinh. Gần đây nhất cậu ta đã ở Bangladesh để triển khai chương trình ở đấy.
Tôi nói với Moore rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma rất ấn tượng với sự hồi
phục của cậu ta, với những gì cậu đã làm với cuộc sống của cậu. Tôi đã hỏi cậu
ta nghĩ gì về Đức Đạt Lai Lạt Ma.
“Sau khi ngài nói chuyện ở Derry
sáng hôm ấy. Tôi được mời ngồi bên cạnh ngài vào buổi cơm trưa,” Moore nói.
“Ngài đã tự phục vụ cho tôi. Ngài đã để đầy thịt bò và cơm trong dĩa của tôi và
sau đó hỏi tôi đủ chưa. Ngài đưa nĩa và dao cho tôi. Ngài chỉ cho tôi biết nước
cam của tôi chỗ nào. Tôi có thể cảm thấy sự ấm áp từ ngài, một cảm giác mạnh,
mạnh mẽ của yêu thương. Không gì ông có thể gợi lại được. Tôi chỉ cảm thấy thư
thái như ở nhà.”
Sau buổi cơm trưa, trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma nói chuyện với
những phóng viên truyền thanh, Moore đã bắt đầu bước tới xe của Đức Đạt Lai Lạt
Ma chờ ngài để nói lời giả biệt.
“Khi tôi bước tới đường xe,” Moore
nói với tôi, “Tôi đã nghe tiếng chạy sau lưng tôi. Đó là Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Ngài chạy để bắt kịp tôi, ngài thở dốc. Và ngài la lên, “Chờ bạn của cậu! Chờ
bạn của cậu với!” Sau đó chúng tôi cùng nhau bước tới xe. Ngài ôm tôi thật nồng
nhiệt và buông ra.”
***
Sau cuộc gặp gở với những nạn nhân
Ái Nhĩ Lan ở Derry, Đức Đạt Lai Lạt Ma bay trở lại Belfast, nơi ngài sẽ nói
chuyện ngắn về việc thấm nhuần tính hòa hiệp trong cộng đồng Thiên Chúa – Tin
Lành xung đột rách nát. Ngài được tặng một bó hoa bởi Colin McCrory, một cậu bé
mười hai tuổi với tóc hớt ngắn. Ngài nắm chặc tay cậu bé và lắc mạnh. Vào lúc
cuối của buổi lễ, vẫn còn âm vang vừa qua, Colin quyết định đi bộ về trường,
Hazelton Intergrated, một trường Tin Lành.
Một sai lầm lớn. Cậu ta thay vì phải
đi xe buýt với các bạn học. Trên đường, cậu nhập vào một nhóm khoảng mười đứa
trẻ tuổi thanh thiếu niên (teenages), chúng muốn biết cậu học trường nào. Sau
khi biết được sự thật từ cậu bé, chúng vật cậu xuống đất là liên tục đấm đá vào
đầu cậu. McCrory chỉ trốn thoát lúc đã bị thương trầm trọng chỉ khi một phụ nữ
chạy đến và chấm dứt sự hành hạ phân biệt đối xử (lynch).
Khi Tenzin Geyche Tethong nghe
chuyện McCrory bị đánh, ông kể lại cho Đức Đạt Lai Lạt Ma nghe lập tức. Đức Đạt
Lai Lạt Ma đã biết sự xung đột Ái Nhĩ Lan rõ ràng hơn. Ngài nghe tóm tắt lại từ
Linh mục Laurence, và một trong những nghi lễ ở Dharamsala là nghe đài BBC.
Tuy nhiên, ngài vẫn không ngờ phải
trải nghiệm sự thù oán phe phái trong một thái độ trực tiếp quá độ như vậy. Cậu
bé mười hai tuổi chỉ tặng hoa cho ngài. Họ mới bắt tay nhau chỉ mới vài giờ
qua. Đức Đạt Lai Lạt Ma khắc khoải đối với tính chất độc ác của vụ tấn công, và
lo lắng về những thương tổn trên đầu của cậu bé. Ngài đã thăm Budapest,
Bratislava, và Prague chỉ trước khi đến Belfast.
Sự hành hung McCrory là việc
bất ngờ bối rối nhất mà ngài đã gặp phải trong toàn bộ chuyến du hành. Nó làm
nổi bật tính khó chửa của sự xung đột ở Ái Nhĩ Lan như không điều gì khác có
thể làm.
Ẩn Tâm Lộ, Saturday, November 07, 2015
Trích từ quyển The Wisdom of
Forgiveness
__._,_.___
No comments:
Post a Comment