PHẠM
CHÍ NGHÈO KHÓ
Toàn Không
(Tiếp theo)
2). PHẠM
CHÍ CÚNG DÀNG PHẬT:
Phạm Chí mang tiền về, nói chuyện ấy cho vợ nghe, người vợ bảo:
- Hai chúng ta tự đến
chỗ Phật trình bày để xin Ngài chỉ cho phải làm sao?
Bấy giờ hai vợ chồng Phạm Chi Kê Đầu đến chỗ Phật, cùng vái lễ, đến chỗ ngồi, rồi
Phạm Chí đem chuyện ấy thưa với Phật, Ngài bảo:
- Như vậy, ông nên vì
Như Lai và chúng Tỳ Kheo bày biện thức ăn uống.
Phạm Chí quay lại nhìn vợ, người vợ bảo:
- Cứ theo lời Như Lai
dạy, chớ do dự.
Phạm Chí liền thưa:
- Cúi mong Đức Như Lai
và đại chúng Tỳ Kheo nhận lời mời của con.
Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh mời của Phạm Chí Kê Đầu, khi ấy, Vua Trời Đế
Thích đang đứng khoanh tay hầu phía sau Đức Phật (không có Thiên nhãn sẽ không
nhìn thấy), Ngài quay lại bảo:
- Thích Đề Hoàn Nhân
(tên Vua Trời Đao Lợi), ông hãy giúp Phạm Chí này sắp xếp thức ăn.
Đế Thích thưa:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Lúc ấy, Tỳ Sa Môn Thiên Vương (một trong Tứ Thiên Vương, là vị ở phương Bắc),
cách Phật không xa, dẫn các Quỷ Thần đông không tính được, từ xa quạt cho Đức
Phật, Đế Thích bảo:
- Ông cũng nên giúp Phạm
Chí này sửa soạn thức ăn thức uống.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương đáp:
- Rất hay, Thiên
Vương!
Rồi Tỳ Sa Môn Thiên Vương cắt đặt 500 Quỷ Thần đi lấy củi Ngưu đầu chiên đàn bỏ
vào bếp sắt bên cạnh nhà của Phạm Chí Kê Đầu, 500 Quỷ Thần làm thức ăn; cắt đặt
quỷ thần xong ông đến chỗ Phật vái lễ, đi quanh ba vòng, rồi biến thành người
thường.
Vua Đế Thích bảo Thiên tử Tự Tại:
- Ông hãy hóa hiện giảng
đường, cùng trang trí đẹp đẽ, để Thế Tôn và đại chúng Tỳ Kheo có chỗ ngồi ăn
trên khoảng đất trống gần nhà Phạm Chí Kê Đầu.
Thiên tử Tự Tại đáp:
- Việc này rất hay!
Rồi Thiên Tử Tự Tại hóa ra một giảng đường lớn bảy báu, bảy báu là vàng, bạc,
lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Bậc thềm lên bằng vàng có cây bạc, bậc
thềm lên bằng bạc có cây vàng, bậc thềm lên bằng lưu ly có cây pha lê và ngược
lại v.v... Chung quanh bên trong có linh vàng (nhạc, chuông, khánh v. v... phát
ra âm thanh, ở dưới trải tòa ngồi nệm tốt, bên ngoài hết hoa, kết tua, dù lọng,
cờ đèn, v.v...; một giảng đường to lớn, trang trí đẹp đẽ kỳ lạ chưa từng có ở đời.
Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương bảo Phạm Chí Kê Đầu:
- Ông xòe tay phải ra.
Kê Đầu liền xòe tay phải ra, Tỳ Sa Môn Thiên Vương đưa cho thoi vàng, rồi bảo:
- Ông cầm thoi vàng
này ném xuống đất.
Phạm Chí liền cầm thoi vàng ấy ném xuống đất, liền thành vô số vàng (trăm nghìn
lạng), Thiên Vương bảo:
- Ông dùng vàng này để
mua sắm thức ăn và các thứ cần thiết mang về đây.
Phạm Chí vâng lời, liền đi vào thành mua sắm thức ăn thức uống đem về nhà bếp.
Bấy giờ quanh thành La Duyệt đều ngửi mùi hương thơm lạ. Vua Tần Bà Sa La hỏi
quần thần:
- Ta từ lúc sinh ra đến
giờ trong thâm cung, chưa hề được ngửi mùi hương thơm lạ này, do đâu có mùi
hương thơm đặc biệt này?
Quần thần tâu:
- Mùi thơm này từ nhà
bếp của Phạm Chí kê Đầu. Đây là mùi hương thơm từ đốt gỗ thơm Ngưu đầu chiên
đàn của Trời, là điềm lành ứng hiện.
Vua bảo:
- Mau sửa soạn xe, ta
muốn đến chỗ Như Lai hỏi duyên lành này.
Rồi Vua lên xe đi đến chỗ Phạm Chí Kê Đầu, Vua thấy có bếp sắt lớn chưa từng thấy,
lại có vố số người (500) đang nhộn nhịp làm bếp, liền hỏi:
- Các ông làm gì ở
đây?
Các Quỷ Thần lúc ấy đều dùng hình người đáp:
- Phạm Chí Kê Đầu thỉnh
Phật và Tỳ Kheo cúng dàng.
Lúc ấy Vua lại thấy: không xa có giảng đường lớn cao đẹp, liền hỏi tùy tùng:
- Ai đã tạo giảng đường
lớn kia? Trước kia ta không thấy.
Tùy tùng thưa:
- Tâu Đại Vương, chúng
hạ thần cũng không biết rõ.
Vua nghĩ: “Nay ta đến chỗ Như Lai hỏi việc này, vì Ngài cái gì cũng biết, chẳng
cái gì không thấy.” Vua liền đến chỗ Phật, cúi lạy rồi ngồi vào chỗ, xong
Vua hỏi Phật:
- Ngày xưa không thấy
nhà bếp, hôm nay có, trước đây chẳng thấy giảng đường to lớn cao rộng đẹp đẽ, tự
nhiên hôm nay lại thấy, lạ quá! Thưa Thế Tôn, do ai làm ra được như thế?
Đức Phật bảo Vua:
- Đại Vương nên biết!
Đó là Tỳ Sa Môn Thiên Vương tạo ra nhà bếp, Thiên Vương Tự Tại tạo ra giảng đường.
Vua nghe Đức Phật nói thế thì buồn khóc không dứt được, Đức Phật hỏi:
- Đại Vương!, Cớ sao
buồn khóc đến thế?
Vua bạch:
- Chẳng dám buồn khóc,
chỉ nghĩ đến chúng sanh đời sau chẳng gặp được bậc đại Thánh ra đời, chẳng được
nghe tên của những báu vật kỳ lạ kia, huống là thấy sao. Nay nhờ ơn Như Lai mà
thấy được sự biến hóa này, thấy được sự lạ lùng xuất hiện ở đời, thế nên con
khóc.
Đức Phật bảo:
- Đời tương lai, các
Quốc Vương và nhân dân, thực chẳng thể thấy những sự biến hóa như ngày nay.
Bấy giờ, Vua từ chỗ ngồi đứng lên lễ Phật rồi lui về cung; sáng hôm sau, Tỳ Sa
Môn Thiên Vương chỉ bảo Phạm Chí Kê Đầu tắm rửa, mặc quần áo đẹp, dạy cách cầm
lư hương và cách bạch Phật rằng:
- Giờ đã đến, nay đã
đúng thời, mong Đức Thế Tôn chiếu cố.
Lúc ấy, Đức Phật biết đã đúng giờ, Ngài cùng Tỳ Kheo đến đại giảng đường, có cả
chúng Tỳ Kheo Ni cũng dự. Phạm Chí thấy thức ăn rất nhiều mà đại chúng quá ít
(chỉ có khoảng năm sáu trăm nguời) nên đến trước Đức Phật cúi đầu vái và thưa:
- Hôm nay thức ăn uống
rất phong phú, mà số Tỳ Kheo quá ít, chẳng thể ăn hết, chẳng biết phải làm sao,
xin Ngài chỉ dạy?
Đức Phật bảo:
- Phạm Chí! Ông cầm lò
hương lên đài cao hướng bốn phía Đông,Tây, Nam, Bắc nói: “Các đệ tử của Phật
Thích Ca lậu tận (sạch hết ô uế, phiền não, bụi trần) A La Hán được 6 thần
thông, tập hợp hết ở giảng đường này.”
Phạm Chí bạch:
- Xin vâng, thưa Đức
Như Lai!
Phạm Chí Kê Đầu vâng theo lời Phật dạy, liền bưng lò hương lên lầu vái từng
phương và nói y như lời Đức Phật đã dạy, vái cả bốn phương xong rồi trở xuống.
Chỉ trong chốc lát, từ mỗi phương có tới hai vạn một nghìn vị A La Hán đều dùng
thần thông đi trên không đến, tất cả bốn phương tổng cộng là 8 vạn bốn ngàn vị
tụ về giảng đường. Giảng đường lớn đủ sức chưa hết thảy, một rừng Tỳ Kheo trong
một giảng đường mênh mông im lặng, không một tiếng động nhỏ; các Ngài nếu muốn
nói với nhau thì nói bằng tâm ý chứ không nói bằng lời, nên giảng đường rất yên
lặng tịch tĩnh.
Vua Tần Bà Sa La đem quần thần đến lễ lạy Phật và đại chúng Tỳ kheo A La Hán.
Phạm Chí Kê Đầu thấy đại chúng A La Hán đông đảo ngoài sức tưởng tượng, nên vô
cùng vui mừng, làm việc cúng dường không biết mệt mỏi; nhưng sau khi tất cả Tỳ
Kheo A La Hán đã thụ trai no đủ xong mà thức ăn vẫn còn nhiều, Phạm Chí đến
thưa Phật:
- Bạch đức Như Lai, thức
ăn vẫn còn nhiều.
Đức Phật bảo:
- Ông nên thỉnh Như
Lai và đại chúng Tỳ Kheo, cúng dường bảy ngày.
Phạm Chí đáp:
- Thưa vâng, Như Lai!
Rồi Phạm Chí quỳ xuống trước Phật bạch:
- Nay con xin thỉnh Đức
Như Lai và đại chúng Tỳ Kheo để cúng dàng 7 ngày, con sẽ cung cấp quần áo, thuốc
men, và các thứ vật dụng cần thiết.
Đức Phật im lặng nhận lời.
LỜI BÀN:
Mặc dầu Phạm chí Kê Đầu nghèo khó, nhưng lại có người vợ giỏi giang từ việc đi
mượn tiền đến giải quyết sự việc đều đâu ra đấy; khi không có tiền thì nghĩ ra
cách đi mượn chỗ nọ chỗ kia, khi mượn được tiền rồi mang đóng góp chung không
được, người vợ giải quyết rất hay bằng lòng thành, đến trình bày với Phật để Phật
bảo sao làm vậy.
Do đó hai vợ chồng tới trình Phật, Ngài bảo: “Ông nên vì Như Lai và chúng Tỳ
Kheo bày biện thức ăn uống”, nhưng Kê Đầu không biết nói sao vì chỉ có 3 tiền
vàng làm sao đủ để mua sắm thức ăn cho năm sáu trăm người ăn, nên đã nhìn vợ có
ý hỏi ý kiến; may được người vợ nhanh trí bảo: “Cứ nghe lời Như Lai, chớ do
dự”, do đó Phạm chí Kê Đầu liền thỉnh mời và được Phật chấp nhận.
Ở đây, chúng ta nhận thấy người vợ Phạm chí có lẽ biết và tin tưởng tuyệt đối lời
Phật nói cách nào cũng phải, phải tin, nên đã không ngần ngại bảo chồng: “Chớ
do dự”, nghĩa là chớ ngần ngại gì cả, hãy thỉnh mời ngay đi. Quả thật, sự mời
đó chỉ là hình thức, và do sự mời ấy đã là duyên tạo ra bao nhiêu sự việc lạ
thường, vì tất cả đều trong sự dự trù của Phật, nên mới có việc các Vua Trời phụ
trách các công việc. Vua Tự Tại Thiên Vương dựng giảng đường vĩ đại đẹp như tại
cõi Trời, Vua Tỳ Sa Môn Thiên Vương thiết lập nhà bếp, điều khiển Thiên Thần Quỷ
trong việc bếp nước v.v...
Đến khi Vua Bình Sa đến hỏi Đức Phật về các việc kỳ đặc ấy được Ngài cho biết
do các Thiên Vương các cõi Trời đến làm ra, thì ông cảm động đến phải khóc, vì
cho rằng ông có diễm phúc được thấy những thù thắng do sự hiện diện của Đức Phật
mà có được. Ông thương cho các thế hệ về sau như chúng ta ngày nay, khi Phật đã
nhập Niết Bàn rồi, không có diễm phúc được thấy những cảnh thù thắng như thế,
ông đúng là người đã học được nhiều điều Phật dạy, có lòng từ bi đối với tất cả
mọi người.
Đọc đoạn Kinh trên, chúng ta thấy rõ những sự thù thắng do Chư Thiên làm, lại nữa
Chư Thiên cung phụng Đức Phật không khác gì cõi Người cung phụng Ngài vậy. Chư
Thiên Thần Quỷ đều là vô hình đối với mắt bình thường của chúng ta, chứ chẳng
phải họ không có hình (ngoại trừ các vị Trời ở cõi Vô Sắc là không có hình sắc
mà thôi), vì thân hình họ không có vật chất như con người và súc vật, nhưng họ
có thể biến hóa hình thù, có thần thông về nhìn nghe biến đi trong chớp mắt là
đi vạn dặm rồi.
Một điểm thấy rõ nữa là thời Đức Phật còn tại thế, các vị tu hành đạt đạo, bậc
A La Hán có đủ 6 thần thông vô số, chứ không như ngày nay thời mạt pháp, việc đạt
đạo thật là khó khăn biết bao. Bởi vậy, chúng ta ráng tu hành, hoặc cầu mong được
gặp Chư Phật như Phật A Di Đà nơi cõi Cực Lạc, hoặc Phật Di Lặc sẽ ra đời sau
này để dễ bề đạt đạo Vô Thượng. Chúng ta cùng theo dõi đoạn Kinh kế tiếp:
3). PHẠM
CHÍ XIN LÀM TỲ KHEO:
(Còn
Tiếp)
PHẠM CHÍ NGHÈO KHÓ
PHẠM CHÍ
NGHÈO KHÓ
Toàn Không
(Tiếp theo)
3). PHẠM
CHÍ XIN LÀM TỲ KHEO:
Khi ấy có Tỳ Kheo Ni Xá Cưu Lợi đến chỗ Phật, vái rồi bạch:
- Nay con nghĩ: “Không
biết có A La Hán lậu tận nào không tụ tập ở đây chăng?” Rồi con dùng thiên
nhãn xem xét bốn phương Đông Tây Nam Bắc, không còn thấy một ai không đến, nay
đại hội này thuần là A La Hán chân nhân tụ hội về đây.
Đức Phật bảo:
- Đúng thế, Xá Cưu Lợi!
Đúng như lời Tỳ Kheo Ni, đại hội này toàn là A La Hán chân nhân, từ bốn phương
tụ hội về đây; các Thầy có thấy trong hàng Tỳ Kheo Ni, người có thiên nhãn bậc
nhất là Tỳ Kheo Ni Xá Cưu Lợi không?
Phạm Chí Kê Đầu cúng dàng Đức Phật và Thánh chúng trong bảy ngày thức ăn, quần
áo, thuốc men, và vật dụng cần thiết; lại dùng hương hoa rải lên Như Lai. Khi ấy
Chư Thiên rải hoa cúng dường Phật và Thánh chúng trên hư không, hoa kết thành
hào quang cầu vồng bảy báu (đài giao lộ), Phạm Chí thấy thế vui mừng phấn khởi,
đến chỗ Phật ngồi, vái lễ rồi thưa:
- Cúi mong Thế Tôn cho
con được làm Tỳ Kheo.
Bấy giờ Phạm Chí Kê Đầu được Phật chấp nhận nhập đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc
áo Cà Sa, làm Tỳ Kheo tu phạm hạnh (khuôn phép). Tỳ Kheo Kê Đầu trừ bỏ thùy
miên (ngủ nghỉ), phòng hộ các căn, mắt thấy sắc không khởi tưởng niệm, cũng
không có tưởng ác; tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết xúc chạm
chẳng khởi xúc chạm, ý biết pháp (mọi thứ) cũng thế.
Lại không có ý giết hại, không bảo người sát hại. Trừ bỏ tâm không cho mà lấy,
thường có tâm bố thí tất cả chúng sinh; xa lìa tâm dâm dật, cũng dạy người xa
lìa dâm dật; hằng nghĩ chí thành không dối trá, không hai lưỡi, không thêu dệt,
không lời ác. Tất cả gìn giữ như thế hằng tu phạm hạnh, các căn tịch tĩnh, tự
tu thanh tịnh tâm mình không còn tỳ vết, lúc ấy Tỳ Kheo Kê Đầu diệt được 5 kết
sử che đậy tâm.
Đối với cuộc sống và sự ăn uống, biết đủ, không cầu nhiều, chỉ muốn giữ thân thể
đủ sống để trừ tật hư cũ, không cho thói hư mới phát sinh ra. Tỳ Kheo Kê Đầu
hành đạo miên mật không ngưng nghỉ, chẳng để mất 37 đạo phẩm; hoặc ngồi hoặc
đi, hoặc đầu hôm (buổi tối) trừ khử thùy miên (buồn ngủ), trấn át trạo hối (tán
loạn không yên); hoặc giữa đêm nằm nghiêng bên phải hai chân chồng lên nhau, buộc
ý ở một chỗ quang tưởng (nhớ nghĩ về ánh sáng); hoặc cuối đêm (sáng sớm) ngồi
hoặc đi kinh hành, tịnh ý mình (hành thiền).
Tỳ Kheo Kê Đầu biết đủ, thực hành phạm hạnh đầy đủ, thiền định, kinh hành không
quên, trừ khử dục tưởng, xa lìa hạnh ác mà nhập Sơ thiền; rồi có giác (biết) có
quán (thấy), dừng niệm (dứt nhớ nghĩ), nương sự hoan lạc (vui vẻ) mà nhập Nhị
thiền. Thiền định tiếp theo, không có lạc (sung sướng), tự biết thân có lạc, chỗ
chư Thánh cầu, xả (bỏ) niệm thanh tịnh đạt Tam thiền; khổ vui đã diệt, không
còn sầu lo, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh vào Tứ thiền.
Tỳ Kheo Kê Đầu hành thiền dần vào tam muội (định tĩnh, tuyệt thanh tịnh), thanh
tịnh không tỳ vết, được chỗ không sợ; được tam muội rồi tự nhớ vô số đời, một đời,
hai đời, ba đời, bốn đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời,
trăm đời, nghìn đời, vạn đời, vô số đời, kiếp thành, kiếp hoại v.v... Biết: “Ta
từng sinh chỗ kia tên họ là gì, khổ vui như thế, sống bao lâu, chết đây sanh
kia” Tất cả đều biết gốc ngọn tường tận.
Tỳ Kheo Kê Đầu lại dùng tâm tam muội, thanh tịnh không tỳ vết, dùng thiên nhãn
xem thấy chúng sanh, người sinh người chết, nẻo lành nẻo dữ, sắc đẹp sắc xấu,
đi theo loại nào thảy đều biết hết. Hoặc có chúng sinh thân miệng ý làm ác, phỉ
báng Thánh hiền, tạo tà nghiệp, khi chết sinh trong địa ngục; hoặc có chúng
sanh thân miệng ý làm lành, không hủy báng Thánh hiền, tạo nghiệp lành, khi qua
đời sinh vào chỗ lành, lên Trời.
Tỳ Kheo Kê Đầu lúc ấy như thật biết: Đây là Khổ, đây là Khổ tập (nguyên nhân
gây ra khổ), đây là Khổ diệt (cách diệt khổ), đây là Khổ xuất yếu (đạo đạt tới).
Thấy như thế rồi, tâm dục lậu (xấu xa của dục), tâm hữu lậu (xấu xa ở đời), tâm
vô minh lậu (ngu si) được giải thoát. Đã được giải thoát, liền được trí (tuệ)
giải thoát, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn thụ
thân sau nữa, biết như thật như thế, Tỳ Kheo Kê Đầu liền thành bậc A La Hán, bậc
Thánh.
LỜI BÀN:
Chúng ta cũng nên coi lại một vài đoạn Kinh nói vắn tắt về Tỳ Kheo Kê Đầu tu
hành:
Câu: “Phòng hộ các căn, mắt thấy sắc không khởi tưởng niệm, cùng không khởi
ác tưởng; tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp”,
là sao?
- Thế nào là phòng hộ
các căn?
Phòng là bờ đê, gìn giữ, hộ
là cửa, giúp đỡ, che chở, Phòng hộ là giữ gìn thủ hộ, ngăn che đề phòng,
các căn là 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phòng hộ các căn là
giữ gìn đề phòng 6 cơ quan trên không cho dính mắc 6 trần là sắc, thanh, hương,
vị, xúc và pháp.
- Mắt thấy sắc không
khởi niệm cũng không khởi ác tưởng là sao?
Là khi mắt thấy hình sắc
không sinh nhớ, không nghĩ yêu, mà cũng không nhớ nghĩ ác, ví dụ như khi thấy đẹp
muốn có, khi thấy xấu muốn gạt bỏ; nếu thấy rồi dù đẹp hay xấu cũng không sinh
yêu ghét, đó là phòng hộ mắt (nhãn căn).
- Tai nghe tiếng không
khởi niệm cũng không khởi ác tưởng là sao?
Là khi nghe lời nói,
giọng ca, dù lời ngọt giọng hay, không sinh yêu đắm nhiễm nhớ nghĩ, dù lời
trái, giọng dở cũng không ghét sinh ác cảm, đó là phòng hộ tai (nhĩ căn).
- Mũi ngửi mùi không
khởi niệm tưởng cũng không khởi ác tưởng là sao? Là khi ngửi mùi thơm
không sinh yêu thích nhớ mãi, dù mùi khó chịu cũng không ghê tởm bực tức. Đó là
phòng hộ mũi (tỵ căn)
- Lưỡi nếm vị thông khởi
niệm tưởng, cũng không khởi ác tưởng là sao? Là khi ăn uống vị ngon ngọt béo bở
không sinh tâm yêu thích, đòi phải có thứ ấy mới được, hoặc khi ăn uống vị
không hợp miệng cũng chẳng chê bai cằn nhằn làm cho người nấu nướng phục dịch bất
an. Đó là thủ hộ lưỡi (thiệt căn).
- Thân xúc chạm không
khởi niệm, cũng không khởi ác tưởng là sao?
Là khi thân tiếp xúc
dù dễ chịu hợp ý cũng không đam mê, dù khó chịu cũng ráng chịu đựng. Ví dụ khi
được xoa nắn dễ chịu không khoái cảm yêu thích nhớ mãi, khi gặp nóng lạnh quá
không gắt gỏng bực tức nhớ mãi, đó là thủ hộ thân (xúc căn).
- Ý biết pháp không khởi
tưởng, cũng không khởi ác tưởng là sao? Ý là Ý căn: Ý căn là nơi nương tựa của
Ý thức (Thức thứ sáu). Ý căn chính là nơi phát sinh ra sự phân biệt, đắn đo, nghi
ngờ, nó chính là Thức thứ bảy, rất tinh tế thuộc tinh thần nên không thấy (có
thể nói nó nằm trong bộ óc). Pháp là Pháp trần: Là những hình ảnh, tiếng,
mùi, vị, cảm giác của Năm căn tiếp xúc Năm trần ghi lại, lưu lại sau khi duyên
với Ý thức. Các hình ảnh, tiếng, mùi, vị ở đây không phải là vật chất của ngoại
cảnh mà chỉ là những hình bóng âm vang của ngoại cảnh sau khi lọc qua năm giác
quan và đồng thời được duyên bởi Ý thức.
Ví dụ như một người
dân thường bắt tay Tổng Thống hay một người thường tuổi trung niên bắt tay một
hoa hậu thế giới, không cho đó là hãnh diện, không nhớ mãi, hoặc người bị tù bị
hành hạ đánh đập tàn nhẫn cực khổ muôn phần không oán hận, không buồn nhớ hoài.
Đó là thủ hộ ý (Ý căn).
Đoạn Kinh kế tiếp nói: “Tỳ Kheo Kê Đầu thực hành mười điều thiện, tự tu
thanh tịnh tâm, không còn tỳ vết, lúc ấy diệt được 5 kết sử che đậy tâm.”
- Thế nào là 5 kết sử
che đậy tâm người?
Đây là những trở ngại
về tinh thần ngăn chặn hành giả tiến đến Niết Bàn, cũng gọi là Năm Triền cái
(Ngũ cái) hay Năm ấm (Ngũ ấm), gồm:
1- Tham ái: Tham ái là tham muốn
nhục dục, luyến ái Sáu trần, dính mắc bởi “Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp”.
Chúng là những cái mạnh nhất trói buộc con người vào vòng sinh tử. Muốn tận diệt
chúng, phải nhận thức mối nguy hại của chúng, kiên trì quán sát mối nguy hại,
kiểm soát Sáu căn “Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý”. Đây là những con rắn độc giết
hại tâm thanh tịnh, ngăn trở hành giả đạt tới bậc Thánh.
2- Sân hận: Sân giận, hận thù,
oán hờn, tật đố ganh ghét. Hành giả phải quán sát để thấy rõ nguồn gốc xấu xa tệ
hại của nó mà trừ bỏ xa lià nó. Đây là ngọn lửa dữ thiêu đốt con người, hành giả
dùng tâm Từ Bi để đối trị, khi đã trừ bỏ xa lià được rồi, lòng sẽ nhẹ nhõm, dễ
dàng tiến tới tâm định tĩnh vắng lặng.
3- Hôn trầm, thùy miên: Hôn trầm thùy miên
là dã dượi, uể oải, không vui, ăn nhiều, ợ ngáp, lười biếng, muốn ngủ nghỉ,
không muốn hành thiền, không muốn tinh tấn. Hành giả phải cố gắng ngăn chặn bằng
cách suy nghĩ tới sinh tử vô thường đến lúc nào không biết, không còn kịp nữa,
lại một kiếp trôi lăn không biết sẽ về đâu, nên phải cố gắng tỉnh thức, kiên
trì.
4- Trạo hối, phóng dật: Là hối tiếc, có trạng
thái buông xuôi, chao động của tâm khi đã làm những điều bất thiện, hành động
ác ấy đưa đến sự lo âu hối tiếc đã để xảy ra việc bất thiện, cũng có tình trạng
lo âu khi việc thiện để qua mất không làm nên đưa tới buông thả; lại có đủ thứ
khoái lạc ở đời, nên thường nhớ nghĩ không dứt được. Đối trị trạo hối phóng dật
bằng cách tự hứa hẹn sẽ không để tình trạng như thế xảy ra nữa. Quyết dứt bỏ xa
lià các điều lo âu và các điều vui thích ở đời, để đưa tâm trở lại an ổn trong
việc hành thiền.
5- Nghi ngờ: Nghi ngờ là do dự
trong qúa khứ, tương lai, và hiện tại, là nghi pháp hành trì, nghi Thiện tri thức
giảng dạy, nghi chính mình không đủ khả năng. Khi nghi ngờ sẽ có tâm bất định
làm cho việc hành trì bị trở ngại, hành giả phải chú tâm quán sát, tỉnh thức
theo dõi, quán sát để ra khỏi sự bất định của nghi ngờ.
Năm
Triền Cái trên nếu không dùng Chính tư duy để suy niệm chính xác, chúng sẽ làm
cho hành giả bị tối tăm, không còn con mắt sáng, không còn trí minh mẫn, nên chẳng
thể giải thoát đến Niết Bàn được.
Phần dưới nữa của bài Kinh có câu: “Tỳ Kheo Kê Đầu hành đạo miên mật, chẳng
để mất 37 đạo phẩm” là gì? Ba mươi bảy đạo phẩm gồm: “Bốn Niệm Xứ, Bốn
Ý Đoạn, Bốn Thần Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, và Tám Chính Đạo”.,.
__._,_.___
Posted
by: Tien Do <
__._,_.___