Buổi chiều ở thị trấn
Sông Pha
Phạm Thành Châu
Đường vào Sông Pha (Ảnh Phạm Thành Châu)
Mưa
càng lúc càng nặng hạt. Thị trấn Sông Pha với hai dãy phố trên quốc lộ 20 như
chìm ngập trong mưa. Người đàn ông lom khom chạy, tay che đầu, cổ rụt xuống,
tưởng như thế mưa sẽ không đổ xuống người. Khi đến một quán ăn, ông ta tạt vào
hiên, đứng giũ giũ áo, phủi nước trên tóc rồi mới bước hẳn vào trong. Một cái
quán bình thường, giống như bất cứ quán cơm, phở, mì nào trên quốc lộ, tỉnh lộ.
Cũng mái tôle, vách ván, vài cái bàn gỗ mộc, trên để ống đũa, muỗng, mấy chai
xì dầu, nước mắm… vài con ruồi bay lảng vảng. Mùi ẩm mốc, mùi đất lẫn với mùi
thức ăn gợi cho ông ta cảm giác dễ chịu, tưởng như quen thuộc với nơi nầy rất
lâu.
Trong
quán đã có vài ba người đang xì xụp ăn, mấy ly bia đã cạn. Có lẽ họ là thợ rừng
vì bên lề đường có một xe be chở mấy súc gỗ to tướng, dài cỡ vài chục mét. Họ
vừa ăn vừa nói chuyện nhát gừng với nhau. Người đàn ông tìm một góc, ngồi tránh
gió lùa. Qua khung cửa sổ ông ta nhìn đăm đăm cái dốc cầu lở lói, rồi nghiêng
người nhìn cho rõ cái cầu sắt, đen đủi, giống một con thú yên lặng chịu đựng
cơn mưa lạnh. Mấy người đàn ông ăn xong, kêu lên “Tính tiền, bà chủ!” Một chị
đàn bà, cỡ dưới bốn mươi, từ sau quày đi ra. Họ đối đáp, cười nói xã giao vài
câu trong lúc trả tiền, rồi toán đàn ông cũng lom khom chạy ra xe, nổ máy.
Chiếc xe be ì ạch leo lên giốc cầu, chậm chạp như con khủng long trườn qua
giòng nước chảy xiết phía dưới, mờ dần trong mưa.
Có
tiếng lao xao ngoài đường. Mấy toán học sinh đi học về. Chúng đi từng bọn với
nhau, trò chuyện. Những chiếc áo mưa đủ màu. Bọn con gái đi nép dưới hiên nhà,
bọn con trai thì lội ngược giòng nước mưa, dùng chân tạt nước vào nhau, đuổi
nhau… Buổi chiều mưa u ám bỗng như sống động hẳn lên vì lũ học sinh. Người đàn
ông chợt nhớ lại, lần trước, cách đây vài mươi năm, ông cũng ngồi trong quán ăn
nhìn ra đường và bọn học trò cũng đi học về. Cảnh vật, nhà cửa hai bên đường đã
hoàn toàn đổi khác nhưng chiếc cầu sắt và lũ học trò vẫn thế, dù lần trước trời
không mưa, các cô thì áo dài trắng, các cậu quần xanh áo trắng. Ông ngạc nhiên
tưởng chừng những cô cậu học sinh ngoài kia vẫn cứ đi học từ lúc đó đến bây
giờ. Dáng đi dịu dàng của các cô, vẻ nhanh nhẹn vô tư của các cậu vẫn thế. Và
nếu không có cơn mưa, ông đã đứng trên dốc cầu ngắm các cô đi học về rồi lần
xuống bờ sông, nhìn mê mải giòng nước như ông đã làm trước đây, khi ông còn
trai trẻ.
“Thưa
ông dùng chi?”
Chị
chủ quán đứng bên ông tự lúc nào “Xin lỗi chị!..”
“Dạ,
không sao. Ông có định ăn hay uống món gì? Hay ông chỉ ngồi trú mưa, cũng không
sao!”
“Chị
có cháo lòng không? Tôi nhớ lần trước, có ghé lại một quán ăn nào đó, hình như
đằng kia kìa, có món cháo lòng ngon lắm.”
“Dạ
tôi cũng có cháo lòng nhưng có lẽ không ngon như ở cái quán mà trước đây ông đã
ăn.”
“Thú
thật tôi cũng không nhớ có ngon không, nhưng ở đó có một kỷ niệm nên tất cả
thành ra đẹp và ngon. Lúc nãy tôi đi tìm quán cháo lòng thì người ta chỉ đến
đây. Bây giờ sao không còn thấy cái quán đó nữa, chị?”
“Dạ,
quán đó đã đóng cửa, bán nhà cho người khác rồi.”
“Tiếc
quá! Chị cho tô cháo.”
Trong
lúc chị chủ quán lúi húi làm việc, ông ta để ý mới biết phía trước là quán ăn,
phía sau làm nơi cư ngụ của cả gia đình. Lối đi vô nhà sau nằm ngay nơi bếp,
cách biệt hẳn hai nơi rõ rệt.
Một
cô học trò chạy ùa vào nhà “Thưa mẹ, con đi học về!” Nó xoay qua chào ông khách
“Chào bác ạ!” “Vâng, chào cháu!” Nó chào xong là biến mất sau cửa.
“Hùng
ơi! Nhớ nấu cơm kẻo ba con về không kịp.” Tiếng con bé từ sau nhà vọng ra “Sao
giờ nầy ba chưa về, mẹ?”
“Nghe
ba con nói chiều nay ghé trường đón em con rồi ra xưởng họp hành gì đó.” Chị
chủ quán bưng tô cháo đến, ông ta hỏi “Con gái sao đặt tên Hùng như con trai?”
Chị cười “Ở trường nó tên Hồng, ở nhà quen gọi Hùng từ lúc nhỏ, chúng tôi cắt
tóc ngắn, cho mặc đồ con trai, chúng tôi thích con trai…”
“Tôi
thấy tên Hùng đặt cho con gái có vẻ hợp lý. Nhiều ông tên Hùng mà chẳng hùng
dũng gì cả, như tôi chẳng hạn.”
Chị
chủ quán đặt tô cháo trên bàn, không trả lời, chỉ liếc nhìn ông khách, xong chị
quay về ngồi sau quầy, khuất sau mấy bó hành xanh, ớt chín đỏ treo tòn teng như
những vật trang trí. Người đàn ông thong thả nhai những miếng lòng, miếng gan,
mắt vẫn lơ đãng nhìn ra đường mưa. Chị chủ quán chăm chú nhìn ông khách ăn, rồi
như chợt nhớ ra điều gì, chị lấy trái chanh, xắt mấy miếng, đặt trên cái đĩa
nhỏ mang ra.
“Tôi
quên đem chanh. Ông có uống gì không? Nước ngọt hay bia?”
“Chị
cho tôi xin trà nóng. Trời mưa uống trà thích lắm.”
“Dạ,
ông chờ cho chút, tôi có sau nhà, trà cho khách uống không được ngon.”
“Cám
ơn chị. Có lẽ tôi là khách đặc biệt mới được chị đãi trà ngon.”
“Dạ,
tôi đoán ông sành uống trà nên phải có trà thơm cho ông. Thường ngày khách chỉ
uống cà phê, trà buổi sáng. Họ ngồi chuyện trò cả buổi nên chỉ dùng trà
thường.”
Chị
chủ lại về ngồi chỗ cũ. Cô gái sau nhà đi ra, âu yếm ôm vai mẹ. Hai mẹ con
chuyện trò nho nhỏ gì đấy. Ông khách nhìn và cười.
“Ra
đường người ta tưởng là hai chị em. Giống nhau quá!” Chị chủ quán cũng cười.
“Nó
lớn rồi, lên trung học mà cứ làm nũng với mẹ như con nít” Chị nói với con gái.
“Nước
sôi rồi, con lấy hộp trà trên bàn thờ ra đây cho mẹ. Xong rồi lo học bài, làm
bài. Theo mẹ hoài, bác khách cười cho”.
Ông
khách không dám nhìn lâu, sợ bất nhã, nhưng cũng nhận ra chị chủ quán có đôi
mắt đẹp và buồn xa xăm như đăm chiêu về một nơi nào. Bỗng ông nhíu mày lại, đôi
mắt đó, hình như ông đã gặp ở đâu? Ông ngước nhìn chị, bắt gặp chị ta cũng đang
nhìn ông. Cả hai có vẻ bối rối.
Ông
đành hỏi một câu cho bớt ngượng.
“Chị
lập quán nầy lâu chưa?”
“Dạ,
sau giải phóng độ vài năm.”
“Chắc
chị người vùng nầy? Tôi nhớ lần trước có thấy đâu đó mấy chữ Thị Trấn Sông Pha,
hình như lúc vừa từ đèo đổ xuống, chữ lớn lắm.”
“Nó
còn đấy chứ, có lẽ trời mưa nên ông không thấy” Chị chủ quán bưng bình trà và
một cái tách trên một khay nhỏ.
“Mời
ông dùng trà.”
“Cám
ơn chị. Buôn bán có khá không chị?”
“Dạ,
cũng đủ sống. Mọi khi trời không mưa thì giờ nầy cũng có lai rai khách đến
nhậu.”
“Chị
cho tính tiền.”
Sau
khi trả tiền, ông khách nhìn ra đường.
“Mưa
lớn quá!”
“Mọi
năm, tháng nầy đâu có mưa. Hôm qua trời còn nắng mà cũng không lạnh.” Và như hiểu
ý, chị nói “Trời còn mưa, nếu không vội, ông cứ ngồi đây tự nhiên.”
“Cám
ơn chị, tôi định đi loanh quanh đây, nhưng mưa quá!”
“Có
lẽ ông muốn tìm ai?”
“Tôi
tìm một người quen. Thú thật, tôi chỉ nhớ tên, chứ không nhớ rõ người, lâu
quá!”
“Chắc
ông biết nhà?”
“Thì
cái quán đằng kia, nhưng đã đổi chủ rồi nên tôi chỉ đi lang thang cho đỡ buồn.
Nói đúng ra, tôi tìm một kỷ niệm. Mà chị biết, kỷ niệm thì người thích thì giữ,
người không thích không muốn nhớ đến. Nhiều khi chuyện không đâu, chẳng có gì
đáng nhớ, lại nhớ suốt đời…”
Chị
chủ quán về lại sau quày, có vẻ tò mò.
“Người
quen mà mình quên mặt! Thế làm sao ông tìm?”
“Giả
như có tìm ra người, chắc gì người nhớ ra mình. Lâu quá! Cỡ vài mươi năm, cho
nên tôi tìm cho biết thôi. Tôi nói thế nầy, chắc chị thông cảm với tôi liền.
Bây giờ, tình cờ chị tìm thấy quyển vở, quyển sách thời còn đi học, hay rõ hơn,
chị đọc lại quyển lưu bút chẳng hạn, chị sẽ bồi hồi nhớ lại tất cả, thương yêu
tất cả. Mà những người bạn trước kia, nay đã khác rồi, từ gương mặt đến tâm
hồn, suy nghĩ, cho nên trong những giây phút hồi tưởng đó, cách tốt nhất là chị
đến trường cũ đứng nhìn, chị sẽ thấy lại cả một quãng đời thanh xuân với bạn bè
ngày trước… Nghĩa là nó ở một thế giới khác, cách biệt hẳn với hiện tại. Tôi
cũng thế, tôi muốn đến đây, ngồi lại cái quán ăn cách đây mấy chục năm, gọi một
tô cháo, ăn xong, lang thang trên đường nầy, đứng ở dốc cầu kia, ngắm mấy cô nữ
sinh đi học về, rồi xuống dưới bờ nhìn giòng sông. Cũng may, con đường còn
nguyên, cây cầu còn nguyên, giòng nước thì vẫn thế, chỉ có cái quán ăn không
còn mà thôi. Cái lạ là người tôi muốn tìm, tôi cũng ước ao cô ta vẫn chỉ độ mười
sáu, mười bảy tuổi thôi. Không phải cho tôi bây giờ, mà để tôi tìm thấy tôi lần
đầu tiên trong đời được cô ta ban cho cái hạnh phúc đẹp đẽ, thánh thiện của
tình yêu. Cho nên tôi nói với chị là tôi đi tìm dĩ vãng, tìm người cũng có, nhưng
lại không muốn gặp người.”
Ông
khách nói một hơi như sợ không còn dịp để thổ lộ ý nghĩ của mình. Chị chủ quán
có vẻ thông cảm.
“Coi
bộ ông cũng lãng mạn dữ. Nhưng giả dụ, nay, ông gặp lại người cũ, dĩ nhiên bây
giờ già rồi, xấu rồi, ông còn giữ tình cảm, đúng ra, tình yêu của ông đối với
người đó không?”
“Chị
với tôi đều lớn tuổi rồi, nên tôi nói chị sẽ hiểu ngay. Tình yêu lúc đầu là
dáng người, ánh mắt, miệng cười, lời nói… Rồi theo thời gian nó không là hình
bóng nữa mà là sự cảm thông, chấp nhận, hòa tan vào nhau. Ý tôi muốn nói ở đây
là dù cô ta có thế nào tôi vẫn cứ yêu thương. Tôi yêu cái tình mà tôi tin rằng
cô ta yêu tôi, yêu cả tình tôi yêu cô ta nữa. Thật khó giải thích! Nhưng chị
còn nhớ một bài thơ của ông Phan Khôi có câu “Liếc đưa nhau đi rồi! Con mắt còn
có đuôi”?
"Qua
bao năm dài nó còn lại là tấm lòng chứ không phải vì tuổi tác hay sắc diện bề
ngoài.” Bàn của ông khách cách quày của chị chủ quán độ năm mét, nhưng tiếng
mưa nghe rào rào trên mái tôle, ông khách sợ người nghe không rõ, không thông
cảm nên ông nói lớn tiếng. Chị chủ quán có vẻ bối rối, nhìn ra đường rồi chị
lại cúi xuống lấy ấm nước đến rót vào bình trà cho ông khách. “Ông bảo đi tìm
người ta mà lại không muốn gặp, vậy ông đến đây làm gì?… Để tôi bỏ thêm ít trà
nữa.” “Cám ơn chị. "Thật tâm, tôi muốn gặp nhưng sợ người ta quên nên
không dám đối diện. Mà dù có còn nhớ, tôi cũng không nên xáo trộn cuộc sống của
người ta. Chắc chắn cô ta đã lập gia đình, có con cái, sống với hạnh phúc bình
thường của một người bình thường.” Chị chủ quán đi lấy hộp trà, mở ra, nghiêng
đổ một ít vào lòng bàn tay rồi mở nắp bình trà, cẩn thận bỏ vào. Ông khách
ngước nhìn chị, hai khuôn mặt gần sát nhau, ông thấy rõ đôi mắt đen chăm chú
vào bình trà, chiếc mũi thon, hơi hếch lên, vẻ nghịch ngợm, miệng mím lại nửa
như làm nghiêm, nửa như cười, gò má hồng, da mịn.
Ông
nghe cả hơi thở nặng nề từ đồi ngực căng phập phồng sức sống của tuổi sung mãn.
Ông nói nhỏ “Cám ơn chị, trà thơm quá! Vị đậm và có hậu.” Chị chủ vẫn cúi
xuống, lắc nhẹ bình trà “Ông chờ một lát cho trà ngấm. Trà Blao ướp ngâu, chúng
tôi thường uống trà nầy, quen rồi.” Chị quay về quày “Nghe ông kể tôi cũng tò
mò, muốn biết câu chuyện ra sao và tên của người hân hạnh được ông nhớ mãi,
suốt mấy mươi năm. Tôi sẽ cố tìm giúp ông, biết đâu tôi sẽ tìm thấy. Tôi là
người ở địa phương nầy.” “Lúc nãy chị bảo tôi lãng mạn, có lẽ đúng. Chuyện
chẳng có gì. Với người khác không đáng để nhớ, nhưng với tôi lại là một biến cố
lớn trong đời. Đại khái như thế nầy. Năm đó, tôi học đại học sắp ra trường, ở
Sài Gòn. Trong dịp tôi theo mấy người anh họ đi dự đám cưới của một người bà
con trên Đa Lạt, lúc quay về chúng tôi đồng ý sẽ ghé Nha Trang chơi. Tôi nhớ đó
là lần đầu tôi theo quốc lộ 20 nên tất cả đều mới lạ và đẹp. Đèo Ngoạn Mục, Đa
Nhim, Sông Pha… Lúc vừa vào thị trấn Sông Pha thì xe bị trục trặc, người lái xe
bảo phải chờ hơn hai tiếng đồng hồ để người phụ tài đi mua phụ tùng về thay.
Chúng tôi rủ nhau vào quán đằng kia. Trong khi các người anh nhậu nhẹt, tôi chỉ
kêu một tô cháo lòng. Cô con gái của chủ quán đem cháo ra. Tôi đoán thế vì tôi
thấy cô đi học về, vào nhà thay đồ rồi ra phụ với gia đình ngay. Cô trông rất
có duyên và vui. Bây giờ gặp lại, có lẽ tôi không nhận ra, chỉ còn ấn tượng là
cô có đôi mắt đẹp, đen nhánh, như cười, môi hồng tự nhiên. Tôi bảo cô “Anh đi chiếc
xe đò kia kìa, nó bị hư phải sửa, ít nhất vài tiếng nữa. Anh ra đằng dốc cầu
kia đứng chơi, khi nào xe đó sửa xong, em bảo họ chờ một lát và cho người ra
kêu anh, được không?” “Được chứ, nhưng nếu kêu anh, anh sẽ thưởng gì?” “Nếu là
người phụ việc ở đây, anh sẽ biếu ít tiền để cám ơn.” “Nếu em gọi?” Tôi đùa
“Nếu là em, anh sẽ tặng em quả tim của anh, để em nấu cháo, khách sẽ khen
ngon.” Cô le lưỡi “Anh nói nghe mà ghê!”
Tính
tôi vẫn thế, đến chỗ lạ là thích lang thang, nghiêng ngó cảnh vật, đường sá,
nhất là nơi nào có chiếc cầu bắc qua sông là tôi có thể đứng ngắm nhà cửa bên
kia bờ, ngắm giòng nước cả giờ không chán. Tôi nhớ rất rõ, khi tôi đứng dưới
dốc cầu, mặt trời lặn sau dãy rừng cây âm u phía xa, màu mây trời làm đỏ rực
mặt sông, tiếng chim về tổ gọi nhau… Chị có ra đó đứng ngắm cảnh chiều tà lần
nào chưa? Đẹp lắm! Vẻ êm đềm của thị trấn yên tĩnh, hiền hòa nầy cứ ở mãi trong
trí tôi, biến thành ước ao ngày nào được về đây sống, và mỗi buổi chiều ra ngắm
giòng sông… Trong lúc đang mơ màng thì tôi nghe tiếng kêu “Anh đó, về lẹ lên,
xe sắp chạy rồi.” Tôi ngẩng lên thấy cô học trò, con chủ quán, vừa chạy trên bờ
vừa kêu. Cái bờ sông, tuy không cao lắm, nhưng có cỏ, nên cô bị trượt chân,
gượng lại không được, cứ chạy chúi nhủi xuống phía tôi. Tôi giữ được tay cô
nhưng cô cũng ngã nhào vào người tôi, khiến tôi cũng suýt ngã theo. Đôi mắt cô
ngước nhìn tôi sáng long lanh. Cô mắc cỡ nên má cô hồng. Tóc cô dài và đen,
vướng đầy cánh tay tôi. Không hiểu sao tôi lại đủ can đảm hôn lên môi cô, chỉ
hôn phớt thôi. Môi cô mềm, hơi thở cô thơm như của trẻ thơ. Đó là nụ hôn khiến
tôi rung động, hạnh phúc nhất trong đời. Bao nhiêu năm rồi, tôi vẫn cảm tưởng
như mới đây. Cô đẩy tôi ra, lùi lại, nhìn sững tôi rồi cô cười và nói “Chạy tìm
anh bắt mệt!” Tôi nói “Cám ơn em”. Có lẽ cô bị xúc động nên cứ lúng túng không
lên được bờ dốc. Tôi nắm tay cô kéo đi “Anh tên Hùng, em tên gì?” “Phúc Lan.”
“Anh sẽ trở lại thăm em.” Lên khỏi bờ sông , cô gỡ tay tôi ra và chạy trước. Cô
mới lớn, hơi cao và ốm nhưng dáng đi đã uyển chuyển, tóc cô bay trong gió…” Chị
chủ quán bỗng kêu lên “Thôi chết, trời mưa mà tôi quên đậy mớ củi, ướt hết!”
Chị khoác áo mưa, cứ để đầu trần chạy ra cửa, vòng ra sau hè. Người đàn ông
không quan tâm, rót nước trà uống, ông ta như muốn kể cho riêng mình nghe. Một
lát chị quay vào, cởi áo mưa treo trước hiên. Đầu tóc, mặt mũi ướt đẫm nước
mưa. Chị phân bua “Mưa lớn quá, ướt hết cả!” Chị ra sau quày, lấy khăn xoa đầu
tóc, lau mặt, rồi hỉ mũi sụt suỵt. Người đàn ông kêu lên “Chị bị cảm rồi đó!”
“Cám ơn, tôi sẽ uống thuốc. Ông kể tới đâu rồi? Xin lỗi, tôi vội quá.” “Chuyện
đến đó là hết, chẳng có gì hay ho.” “Ông hứa trở lại, rồi ông có trở lại
không?” “Thú thật, đôi khi tôi cũng quên bẵng đi. Chẳng phải tôi có người yêu
khác, mà cuộc đời cứ bắt đầu óc mình quay cuồng với bao chuyện rắc rối, khi nhớ
đến cô bé đó thì lại tự hẹn mình chờ dịp thuận tiện."
"Rồi
vụ đổi đời năm bảy lăm, tôi không thể đi đâu được. Bây giờ tôi ở xa lắm. Hơn
nửa đời người, bao nhiêu biến chuyển, chỉ còn đọng lại trong tâm hồn tôi kỷ niệm
nhỏ bé với cô Phúc Lan và buổi chiều Sông Pha năm nào. Tôi nhớ người cũ, cảnh
cũ lắm mới tìm về đây. Tôi thấy thích ở đây, ở đến già đến chết cũng được.” Chị
chủ quán cười “Nếu ông về ở đây, hễ đến quán nầy, tôi tính nửa giá thôi. Nhưng
bây giờ ông định làm gì, có muốn gặp lại cô bé ngày xưa không? Theo ông kể, có
lẽ tuổi cô ta cũng cỡ tôi, cũng đi học cùng trường với tôi, nhưng sao nghe cái
tên lạ quá. Để tôi giúp ông, tôi sẽ hỏi các bạn tôi ở đây, dù cô ta có đi nơi
khác cũng còn bà con, bạn bè biết cô ta. Nhưng hỏi ra thì báo cho ông cách nào.
Ông có địa chỉ không? Ông có muốn nhắn gì với cô ta không?” “Ý kiến chị vậy mà
hay. Tôi chỉ cần biết cô ta ở đâu để có dịp tôi chỉ đến nhìn thôi, chứ không
gặp. E cô ta đã quên hẳn tôi rồi! Lại nữa tôi không muốn xáo trộn cuộc sống của
cô ta. Tôi là kẻ ngoại cuộc rồi.” “Ông cứ cho tôi địa chỉ, khi tìm ra, tôi sẽ
báo cho ông.” Rồi chị cười “Tôi cũng bắt chước cô bé ngày xưa của ông, hỏi ông,
nếu tìm ra cô ta, ông thưởng gì cho tôi? Tôi không cần tiền cũng không cần quả
tim của ông.” “Chà, khó hè! Thôi thì như chị nói, tôi sẽ đến quán nầy hằng
ngày, suốt quãng đời còn lại của tôi.” “Đùa với ông thôi, bây giờ ông cho tôi
địa chỉ, nhưng bà xã ông nổi ghen thì không phải lỗi của tôi đâu nghe.” “Tôi
chẳng có gia đình. Tôi đã là thanh niên râu rồi, lỡ thì rồi! Chị có giấy cho
tôi xin tờ, cây viết nữa.” Chị chủ quán gọi lớn “Hùng ơi, đem cho mẹ cây viết
và tờ giấy.” Cô bé chạy ra “Con đem cho bác đằng kia.” Chị chủ quán ngồi nhìn
con gái và ông khách, ngạc nhiên thấy hao hao như hai cha con. Ông khách hỏi ý
kiến chị chủ quán “Có lẽ tôi nên viết mấy giòng cho cô ta để nhắc lại chuyện cũ
xem cô có nhớ ra không. Tôi nên gọi cô ta là chị, là bà hay là cô?” “Tôi thấy
ông nên viết là bà hợp lý hơn.” “Phải rồi, gọi là bà đứng đắn hơn. Rủi người ta
không nhớ ra mình cũng không bảo rằng mình thiếu lịch sự.” Người đàn ông ngồi
nép vào vách để tránh bụi mưa, chống cằm suy nghĩ một lúc rồi cắm cúi viết.
Được độ nửa trang ông đọc lại rồi đem đến cho chị chủ quán “Chị xem tôi viết
thế nầy có được không?”
“Kính
gửi bà Phúc Lan,
“Tôi
tên Hùng, cách đây gần hai mươi năm, tôi là người khách đến quán của gia đình
bà ăn tô cháo. Xong, tôi ra bờ sông ngắm cảnh trong lúc chờ xe đò hỏng phải sửa
chữa. Bà có ra gọi tôi vì xe đã sửa xong, tôi được biết tên bà là Phúc Lan. Tuy
chỉ có thế nhưng tôi vẫn nhớ đến bà mãi. Hôm nay tôi ghé lại Sông Pha thì quán
của gia đình bà không còn nữa! Tôi chỉ mong được biết tin về bà bây giờ ra sao?
Bà chắc đã có gia đình, tôi thì cũng lớn tuổi rồi, không còn như ngày xưa! Thế
nên tôi chỉ ước mong bà xem tôi như một người bạn nếu bà còn nhớ ra tôi. Còn
như bà đã quên bẵng tôi thì tôi xin lỗi bà về những giòng chữ vô duyên nầy. Tôi
đã kể hết cho chị chủ quán, người đưa mảnh giấy nầy, nếu tò mò, xin bà cứ hỏi
chị ta. Kính chúc bà và ông nhà và các cháu khang an, vạn sự như ý. Kính thư .
Hùng”
Chị
chủ quán đọc xong “Ông viết thế nầy đủ rồi, nếu cô ta có hỏi gì về ông, tôi sẽ
kể lại như ông đã kể cho tôi nghe.” “Cám ơn chị. Tiếc quá, hôm nay trời mưa,
tôi không thể đi lòng vòng thị trấn nầy.” “Ở đây buồn lắm, trời mưa lại càng
buồn hơn. Ông từng đi đây đi đó… mà lại thích ở đây cũng lạ! Nếu ông chờ, hy
vọng ngày mai mưa sẽ tạnh.” “Sáng sớm tôi phải đi rồi. Chào chị!” Nói xong ông
ta lại xòe tay che đầu, rụt cổ lại đi nép vào hàng hiên. Chị chủ quán ngồi nhìn
theo ông ta cho đến khi đi khuất. Chị bần thần đọc lại lá thư rồi xé, ném vào
bếp lửa, chỉ giữ lại cái địa chỉ.
Sông
Pha Ngày…tháng…năm…
“Anh
thân yêu,
“Buổi
chiều, lúc anh rời quán, em muốn chạy theo kêu anh, cho anh rõ rằng người anh
muốn tìm là em, nhưng không hiểu sao, em chỉ biết ngồi chết lặng. Tối đó, em cứ
thao thức mãi. Tưởng tượng anh đang ở trong quán trọ đằng kia, ngay tại Sông
Pha nầy… Anh gần đó mà sao em thấy xa vời quá! Tình yêu của em, ước mơ của em,
hạnh phúc của em… em tưởng là tuyệt vọng, bây giờ đã hiện ra, nhưng em không
còn quyền quyết định nữa!
“Và
giờ đây, em đang khóc khi viết cho anh. Khóc vì mừng và giận anh. Sao anh hẹn
mà không trở lại? Chỉ một cái trượt chân định mệnh, em ngã vào vòng tay anh, em
gỡ tay anh ra nhưng em không gỡ được linh hồn em, cuộc đời em ra khỏi anh. Đã
bao buổi chiều em ra ngồi ở dốc cầu, âm thầm khóc vì nhớ anh. Em tưởng như anh
còn đứng đấy. Dáng anh cao, mắt anh sáng, miệng tươi cười với em. Vì lời hứa
của anh mà em hy vọng mãi. Nghe tiếng xe đò ngừng trước đường là em hồi hộp,
thầm nhủ rằng anh đang xuống xe và đến với em. Chỗ anh ngồi trong quán, không
lúc nào là em không nhìn chừng. Em yêu thương cả đến chỗ ngồi của anh! Và tên
anh, nghe người ta gọi nhau, em cũng rung động, nhớ anh.
“Với
tuổi thơ ngây, em chỉ cầu mong được gặp anh, nhìn anh, chuyện trò cùng anh, thế
thôi. Đến khi trưởng thành, nụ hôn của anh, vòng tay anh thành ước mơ được anh
ấp ủ, được quấn quít bên anh.
“Khi
quyết định lấy chồng, em cũng ra dốc cầu ngồi khóc đến sưng cả mắt mà chẳng
biết tâm sự với ai. Em chỉ biết kêu lên với giòng sông, với gió chiều “Xin hẹn
anh kiếp sau” tưởng như gió sẽ đưa lời của em đến với anh. Nhưng biết anh nơi
đâu? Chiều nay em cũng lại ra đấy, đứng nhìn giòng sông, lòng em vui khi anh đã
quay lại nhưng không khỏi ngậm ngùi vì những ước mơ chẳng còn gì. Em cũng đành
thì thầm với giòng sông, với gió chiều “Xin hẹn anh kiếp sau”. Anh bảo rằng đã
quên em, chỉ nhớ đôi mắt em rất vui, rất đẹp. Bây giờ đôi mắt không còn vui,
cũng chẳng còn đẹp đến độ anh đã gặp mà không nhận ra em! Em thì giây phút đầu
đã biết ngay là anh, nhưng không hiểu anh có còn nghĩ đến em không? Đến khi
nghe anh kể lại, khi anh nhắc đến tên anh, tên em, em phải chạy ra ngoài mưa
đứng khóc vì xúc động và để khỏi mềm lòng ngã vào tay anh. Yêu anh, nhớ anh đã
là một hạnh phúc. Được biết anh cũng nhớ đến em, hạnh phúc và lòng biết ơn anh
tràn ngập lòng em. Bao nhiêu năm rồi, nụ hôn của anh, có bao giờ em quên! Dù
sao cũng là một an ủi cho em, không bỏ công em lập quán bên đường để chờ anh.
Đứa con gái đầu lòng, em đặt tên anh để mỗi ngày gọi anh cho đỡ nhớ, và em cũng
không ngờ nó lại phảng phất giống anh… Từ hôm nay em lại nhìn chừng về phía bàn
anh ngồi, lại hy vọng. Anh vẫn thế, nhưng em đã thay đổi. Em đã có chồng, có
con. Em thương chồng, thương con. Em có một gia đình bình thường, một hạnh phúc
bình thường như anh đã bảo. Lý trí em thì nghe theo lời anh “Không muốn xáo
trộn cuộc sống của em” Nhưng tự tim em, tự tâm hồn em, cứ mong ngóng được gặp
lại anh hằng ngày.
“Hay
là thế nầy. Chúng ta thỏa thuận, cứ vào gần cuối mùa Xuân, mỗi năm anh về thăm
em một lần, cũng vào buổi chiều như hôm trước. Anh như là khách lạ, ghé vào
quán của em. Anh đừng chuyện trò, hỏi han gì em. Anh cứ ngồi đấy, để em được
nhìn thấy anh trong chốc lát, là ban cho em hạnh phúc tuyệt vời rồi. Xin anh
đừng liên lạc gì với em cả. Em không ghi địa chỉ của em là vì thế.
“Em
van anh, đừng thực hiện ý định về sống suốt đời ở thị trấn nầy. Dốc cầu còn đó,
giòng sông còn đó, ánh nắng chiều vẫn vậy. Nếu anh về ở hẳn nơi đây, mỗi chiều
anh ra đứng đấy thì cái thảm cỏ kia sẽ làm trượt chân em. Lần nầy, em biết, sẽ
không gỡ tay anh ra được nữa.”
Phạm
Thành Châu