TẠP CHÍ
VĂN HÓA
Pierre
Duval : « Tiếng gọi ruộng đồng »
- inShare
Sinh trưởng trong một gia đình tư sản vùng Bretagne (Pháp), Pierre
Duval sang Đông Dương làm việc trong một đồn điền trồng cao su của một người Marseille.
Dần dần, ông khẳng định vị trí của mình tại đây khi làm chủ một trong những
trang trại rộng nhất Đông Dương và tạo việc làm cho người dân Phan Rang, tỉnh
Ninh Thuận.
36 năm kinh nghiệm tại
nơi ông coi là quê hương được ông viết lại trong cuốn hồi kí «Tiếng gọi
đồng ruộng - L’appel de la rizière» sau khi ông quay về Pháp vào năm 1960.
Chỉ với mục đích lưu lại kỉ niệm cho gia đình và người thân, cuốn hồi kí của
ông được chép thành nhiều bản, trong đó có một bản do cha Gérard Moussay giữ
(Missions Etrangères à Paris, MEP).
Fabien Chébaut, tiến sĩ
cổ sử Việt Nam, chuyên ngành địa-lịch sử miền Nam Champa, tình cờ phát hiện và
kết hợp với Nhà xuất bản Les Indes Savantes xuất bản cuốn sách này.
Trong lời
tựa, anh nhận xét: « Cuốn sách kể lại chuyện của một người đam mê với công
việc và yêu con người Việt Nam. Những kỉ niệm của ông tái tạo cảnh quan của đất
nước qua cách sống, tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, cũng như qua sự uể oải,
hay tính hào phóng và khả năng tự xoay sở của họ. Pierre Duval chia sẽ với độc
giả một cuộc đời đầy khám phá, học hỏi và gặp gỡ trên mọi phương diện với Lịch
sử ».
RFI Việt ngữ có dịp trao
đổi với anh Fabien Chébaut về Pierre Duval. Sau đây là toàn bộ buổi phỏng vấn.
RFI :
Chào anh Fabien Chébaut, anh có thể cho biết Pierre Duval là ai không? Và
tại sao ông tới Việt Nam?
Fabien Chébaut :
Chào chị. Pierre Duval xuất thân từ một gia đình gốc tư sản vùng Bretagne. Từ
bé, ông đã tỏ ra se rebeller và mong thoát khỏi thế giới tư sản để phiêu lưu.
Và hoàn toàn ngẫu nhiên, một người Marseille đã thuê ông. Rồi ông tới các khu
trồng cao su tại khu vực Sài Gòn trong những năm 1920.
Chính trong những khu
trồng cao su này, trong điều kiện làm việc vô cùng khó khăn, ông đã chia sẻ
cuộc sống hàng ngày với những người Việt Nam cũng bị ông chủ Marseille bóc lột.
Sau đó, ông bị mắc bệnh và phải nghỉ việc. Vào năm 1926, cùng với bố của mình,
ông đã mua lại một khu nhượng địa rộng lớn tại Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Đây chính
là bước đầu của cuộc phiêu lưu của ông.
RFI
: Xin anh cho biết, tại sao ông lại
tới Phan Rang? Ông ở lại đó bao lâu? Và đâu là những thời điểm quan trọng trong
thời gian ông sống tại đó?
Fabien Chébaut
: Ông tới Phan Rang vào năm 1926 với bố của mình. Ông đã mua lại khu nhượng địa
của một người Pháp. Ông đã nâng giá trị vùng đất Phan Rang bằng cách tạo ra rất
nhiều kênh rạch để tưới đất đai và phát quang rừng. Thay vào vị trí của rừng,
đất hoang và các đầm lầy là những cánh đồng mênh mông. Từ thời gian này trở đi,
vùng đất Phan Rang bắt đầu phát triển. Cuộc sống của Pierre Duval chính là cuộc
sống của một người nông dân. Ông kể lại những gì họ đã làm để làm tăng diện
tích trồng trọt, cũng như là thử nghiệm một số giống cây mới chưa có tại Việt
Nam.
Cứ thế, trải qua nhiều giai đoạn, họ thử những điều mới, những giống cây trồng
mới. Chúng ta thấy cuộc sống này trong cuốn hồi kí của ông.
Nhưng rồi cuộc sống của
một chủ trang trại bị xáo trộn bởi những sự kiện quốc tế mà Việt Nam trải qua
trong lịch sử của mình. Sự kiện thứ nhất là việc người Nhật vào Việt Nam năm 1940.
Pierre Duval chứng kiến người Nhật tới đóng quân tại Phan Rang. Sau đó là người
Pháp cuối cuộc chiến 1945. Chúng ta nhận thấy là Pierre Duval ít có cảm tình
với những người đó. Và sau đó nữa, là chiến tranh Việt Nam. Pierre Duval kể lại
cuộc sống của ông trong ba thời điểm này. Đây cũng là điểm lý thú trong hồi kí
của ông. Đến năm 1960, ông quyết định về Pháp vì áp lực ngày càng nặng nề hơn
trong bối cảnh chiến tranh như vậy.
RFI
: Anh có thể cho biết tại sao anh
không sử dụng từ « thực dân » khi nói về sự nghiệp của Pierre Duval tại Đông
Dương ? Ông đã gây dựng và thắt chặt mối quan hệ với người bản địa như thế nào,
đặc biệt là với các dân tộc thiểu số, vì chúng ta có thể nhận thấy, trong số
những người làm cho ông, không có người Pháp nào.
Fabien Chébaut :
Điều lý thú trong hồi kí của Pierre Duval là giúp chúng ta xem xét lại mối quan
hệ giữa Pháp và Việt Nam theo một cách hoàn toàn khác. Với tôi, Pierre Duval
không phải là một « thực dân ». Có nghĩa là, ông không tới Việt Nam để
đô hộ Việt Nam. Trong suốt sự nghiệp của mình, phải coi ông như bất kì chủ
doanh nghiệp nào. Điều này rất quan trọng. Ông không bóc lột người làm của
mình. Ông trả lương họ như bất kì chủ doanh nghiệp nào. Chính bản thân ông đã
trải qua vị trí « thực dân » trong thời gian làm việc tại đồn điền cao
su của một « thực dân » Pháp với những người Việt Nam khác. Còn ông
thì lại có mối quan hệ hoàn toàn khác với người Việt Nam. Ông học tiếng Việt và
ông kết hôn với một cô gái Phan Rang. Và ông thắt chặt mối quan hệ với người
dân Phan Rang. Với ông, điều quan trọng nhất là cá tính của con người, những
giá trị và những kinh nghiệm mà họ có. Hơn nữa, ông có mối quan hệ thân thiết
với một người Việt Nam. Người này đã bảo vệ ông và theo ông tới lúc cuối.
Một điều lý thú khác
trong hồi kí, đó là ông biết sử dụng những điểm mạnh của người dân sống trong
vùng. Ví dụ, để chặt rừng, ông đã sử dụng người miền núi giỏi phát quang cây
cối. Tiếp theo, ông đã sử dụng hiểu biết và kinh nghiệm của người Chăm sống tại
đó để xây dựng một hệ thống thuỷ lợi khá chắc chắn, cho phép tưới tiêu những
vùng đất và cánh đồng mới. Sau đó, là người Kinh tham gia vào việc trồng cấy, chăn
nuôi súc vật. Đây cũng là điều lý thú tại trang trại này, nơi mọi tộc người
sống và làm việc chung. Chính vì thế, chúng ta không thể nói Pierre Duval là «
thực dân » vì ông ở đây không phải cho việc đó. Ông ở đây để kiếm sống, như bất
kì chủ doanh nghiệp nào. Chính vì thế, ông đối xử với người Kinh, người miền
núi hay người Chăm như người lao động của mình.
Vẫn trong ý tưởng cuộc
sống tại địa phương, Pierre Duval chia sẻ cuộc sống với người dân. Chúng ta sẽ
thấy ông trong nhiều tình huống khác nhau, như đi săn voi hay hổ với người dân
miền núi. Người ta thấy ông ở những thời điểm khác với người Kinh, như tại các
lễ hội tôn giáo. Rồi ông cũng có mặt bên cạnh các quan chức địa phương, trưởng
làng hay trưởng tộc. Người đàn ông này thật sự yêu vùng đất Phan Rang, nước Việt
Nam, vùng đất nơi ông lập nghiệp. Vì đó là nơi ông có những năm tháng đẹp nhất
trong cuộc đời. Chính tại đó ông gặp những người dân mà dần dần, giữa họ nảy
sinh tình cảm ngày càng thân thiết và sự hợp tác chặt chẽ.
RFI
: Nếu như tôi hiểu ý anh vừa nói, thì quyển sách này giúp chúng ta thay đổi
cách nhìn về khái niệm, một bên là « thực dân », còn bên kia là « người bị trị
» ?
Fabien Chébaut :
Chị có lý, vì chúng ta không quên được là Đông Dương nằm dưới sự cai trị của
Pháp và một bộ phận người Pháp tại Việt Nam cư xử như « thực dân ».
Nhưng Pierre Duval không phải là trường hợp đó. Và chúng ta có thể nói là có
rất nhiều người Pháp sống tại Đông Dương, đặc biệt là tại Việt Nam, ngẫu nhiên
tới đó và yêu mến đất nước, và hoàn toàn không có ý tưởng « đô hộ ».
Và đây là điều hiển nhiên trong trường hợp của Pierre Duval.
Cách ông cư xử với người
Kinh, người Chăm hay người miền núi, là những người dân địa phương, cho phép
nhìn nhận trên góc độ xã hội. Một bên là chủ lao động, bên kia là người lao
động. Nhưng người lao động không đồng nghĩa với người bị bóc lột. Họ có vị trí
trong doanh nghiệp và đóng góp sức lực, kinh nghiệm của mình. Còn chủ doanh
nghiệp, là Pierre Duval, có mặt tại đó để điều phối công việc để cơ nghiệp của
mình tiếp tục hoạt động và dĩ nhiên là để làm giàu. Nhưng lợi nhuận và thành
quả lao động được chia đều cho mọi người. Chính vì thế mà giữa họ hình thành
một mối liên hệ, với toàn bộ người lao động trong khu vực trang trại. Và cuối cũng
mỗi người đều tìm được lợi ích trong đó. Vì thế, Pierre Duval không phải là một
« thực dân », mà là một chủ doanh nghiệp. Đó chính là một phần lịch sử
cá nhân ông, và là một phần lịch sử sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương.
RFI :
Qua bản hồi kí, tôi thấy ngạc nhiên là Pierre Duval chống Nhật, rồi bị Việt
Minh bắt đi. Sau đó, tại sao ông lại được thả ?
Fabien Chébaut
: Đúng thế, đó chính là hai sự kiện khá quan trọng trong cuộc sống của Pierre
Duval. Khi người Nhật tới vùng Phan Rang trong cuộc chiến 1940, họ muốn trưng
thu thóc lúa của ông, cũng như thóc lúa do người Việt trồng trong khu nhượng
địa. Ông đã chống Nhật, đây cũng là mặt nổi loạn, cứng đầu của ông. Vì thế,
việc người Nhật lấy lúa trong khu khai thác nông nghiệp của ông gây bất lợi cho
chính bản thân, đồng thời cho những người làm của ông.
Đúng là ông đã bị lính
Nhật bắt giam tại Nha Trang. Ông đã được người dân và người làm của mình giúp
đỡ. Qua đó, chúng ta thấy được cả một mạng lưới tương trợ nhau và mối quan hệ
mà ông gây dựng được trong khu khai thác của mình. Sau đó, trong cuộc chiến tranh
Đông Dương, Việt Minh đã bắt Pierre Duval đi. Nhưng ở điểm này, Việt Minh cũng
rất thận trọng vì Pierre Duval giúp một lượng lớn người dân sống được tại Phan
Rang. Và cũng không thể nào bắt ông rời Phan Rang, vì điều này sẽ gây rối loạn
cho công việc khai thác nông nghiệp. Cuối cùng, Việt Minh đã thả Pierre Duval.
Để tiếp ý trên, có một
chuyện khá lý thú. Pierre Duval bị mắc bệnh khiến ông không tự đi được. Vì thế,
lúc nào ông cũng có hai người Kinh, ở bên cạnh để khiêng ghế. Và khi Pierre
Duval bị Việt Minh bắt đi, hai người này cũng bị bắt theo. Trong suốt thời gian
giam lỏng, ông chia sẻ cuộc sống hàng ngày với họ, cũng như với bộ đội Việt
Minh. Chính vì thế, mà không có sự đối đầu trực tiếp giữa Pierre Duval với bộ
đội Việt Minh. Đây cũng là điều lý thú trong hồi kí của ông.
RFI
: Năm 1960, Pierre Duval rời Đông
Dương về Pháp, vậy ông đã để lại gì cho người dân Phan Rang-Ninh Thuận ?
Fabien Chébaut
: Đúng là cuộc chiến Đông Dương khiến khu khai thác nông nghiệp gặp nhiều khó
khăn. Năm 1960, ông rời Việt Nam. Với ông, đây là sự chia cắt với nơi ông lập
nghiệp, vùng đất ông gắn bó. Pierre Duval đau lòng chia tay Phan Rang về Pháp,
đất nước mà cuối cùng ông chẳng biết gì, vì ông rời bỏ từ lúc còn rất trẻ, và
ông cũng không có cảm giác mình là người Pháp. Với ông, ông gắn bó với quê
hương của mình là vùng đất Phan Rang. Vả lại, tựa đề của cuốn sách Tiếng gọi
đồng ruộng (L’appel de la rizière) cũng chứng minh rằng, với ông, ruộng đồng là
quan trọng nhất. Đó mới là nơi ông thích được sống.
Ngày nay, khi chúng ta
đi thăm Phan Rang, chúng ta ngạc nhiên thấy rằng vùng đất vẫn giữ trong mình những
di sản còn lại từ công trình của Pierre Duval. Bạn sẽ thấy những kênh nước tưới
tiêu lớn mà Pierre Duval đã cho xây. Cần nhấn mạnh lần nữa là không phải mình
ông, mà cùng với người Kinh, người Chăm và người miền núi. Chúng ta cũng thấy
trong quang cảnh ngày nay những dấu tích của công trình tập thể này. Thêm vào
đó là những cánh đồng bên cạnh hệ thống kênh rạch. Phần lớn những cánh đồng tại
Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận, có từ khu nhượng địa khai thác nông nghiệp của
Pierre Duval.
Và khi chúng ta nói
chuyện với người dân địa phương cao tuổi, một số người vẫn còn nhớ tới Pierre
Duval. Kỉ niệm về ông vẫn tồn tại ở một số làng. Và ngay cả việc đặt tên một số
cánh đồng, người ta vẫn lấy mốc là khu trang trại của Pierre Duval. Như vậy, kỉ
niệm về Pierre Duval vẫn tồn tại ở Ninh Thuận và đó cũng là một điểm quan trọng
trong cuốn sách này.
Câu chuyện về Pierre
cũng chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa Việt Nam và Pháp, không phải chỉ là
mối quan hệ bạo lực hay chiến tranh, mà còn là mối quan hệ tình cảm, xã hội. Đó
là một câu chuyện đẹp giữa Pháp và Việt Nam mà trường hợp của Pierre Duval là
một ví dụ.
*
Fabien Chébaut cho biết
bằng chứng mà Pierre Duval mang lại có tầm quan trọng đặc biệt đối với những
nhà sử học, vì nó cho phép đánh giá lại mối quan hệ giữa các dân tộc sống trong
thuộc địa. Thật vậy, cuốn hồi kí mang lại một cái nhìn mới về Đông Dương, khác
xa với cách nhìn « vơ đũa cả nắm » : Một bên là « thực dân » và bên kia là «
người bị đô hộ ».
Pierre Duval nằm trong nhóm những người Pháp muốn chu du
phương xa và, trong trường hợp của ông, thoát khỏi cuộc sống của một gia đình
tư sản. Có lẽ thế mà ông không ngại khi kết bạn với những nhân vật có quá khứ
đặc biệt, như Nguyễn Thơm, người thân cận của ông, đã từng đi tù, hay những lính
lê dương mà ông thích giành nhiều thời gian tiêu khiển với họ.
Trong hồi kí của Pierre
Duval, hình ảnh Đông Dương hoàn toàn khác với hình ảnh mà các tấm bưu thiệp
thường khêu gợi trí tưởng tượng của người dân Mẫu quốc. Đó là hình ảnh thực
được vẽ lên từ kinh nghiệm của một người đã biến vùng đất Phan Rang thành nơi
gây dựng cơ nghiệp của mình.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment