Những thông điệp sâu sắc Nguyễn Du
gửi gắm qua Truyện Kiều (P.2):
Điều gì giúp thế nhân thoát khỏi vô
minh?
Người xưa coi văn chương là một hành vi sáng tạo
rất thiêng liêng. Văn là để chuyên chở Đạo Đức. Nó như kim chỉ nam chỉ đạo
những con chữ sinh thành dưới ngọn bút lông. Vì thế, văn chương là cái Chí, là
quan niệm nghiêm túc về cuộc sống. Tài năng nhà thơ nhà văn có khả năng định
hướng cho cả một cộng đồng đi vào cái Đẹp của Đạo đức cao cả. Chúng ta hãy
chiêm nghiệm điều đó qua Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Có một mối quan hệ rất tự nhiên giữa
triết lý Tam Giáo (mà nổi bật là Phật Giáo) với thế giới hình
tượng của Truyện Kiều.
“Truyện Kiều” thường dùng rất nhiều điển
tích, điển cố. Chẳng hạn câu: “Một hai nghiêng nước, nghiêng
thành” được đặt trong ba câu thơ đặc tả đôi mắt Thúy Kiều:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước, nghiêng thành”
Câu thơ cần đọc: “Một/hai//nghiêng
nước//nghiêng thành”.
Nhan sắc nàng Kiều
Cái nhìn thứ nhất “làn thu thủy, nét
xuân sơn” ấy làm cho “nghiêng nước“. Cái nhìn thứ hai của đôi
mắt ấy làm cho “nghiêng thành“.
Đôi mắt của Kiều chứa đựng tai họa cho
những ai bị nó nhìn, bị nó thôi miên. Đôi mắt gây nên cái “ghen”, cái
“hờn”, ẩn chứa con đường đời thiếu sự bình an, nhiều nguy hiểm, thiếu thanh
thản, thiếu sự vô tư, đầy chữ Tình…Cảm tưởng như không chỉ sóng gió sẽ đến
với Kiều, mà còn khiến nhiều người cũng gặp chốn đoạn trường cùng
Kiều..
Bốn tiếng “thu thủy, xuân sơn” cũng là ngôn
ngữ ước lệ. Sự thiên tài của Tố Như chính là hai từ Thuần Việt
“làn” và “nét”. Cái trừu tượng, vô hồn đã trở nên sống động kỳ lạ.
Đôi mắt, cửa sổ tâm hồn của Kiều nhi sắc sảo lạ thường!
Chữ Tình – nội hàm rất thâm sâu của tác
phẩm, gắn với đời Kiều như là định mệnh
Ở bài “Chị em Thúy Kiều” nhà thơ muốn
giới thiệu về nhân vật chính. Mô tả hình thức, Nguyễn Du đặc tả đôi
mắt. Ngỡ rằng nó trong trẻo phẳng lặng. Nhưng thực ra dưới đôi mắt
ấy là một đời sống tinh thần không đơn giản, sẽ có lúc nổi sóng ba
đào. Nguyễn Du dành nhiều câu chữ hơn cho việc miêu tả phần Tài (mà
thực ra là biểu lộ của cái Tình bên trong).
Ngay từ ấu thơ Kiều đã tự mình sáng tác
bản nhạc, nghe cái tên đã chẳng lành cho một đời phụ nữ. Bản nhạc
“Bạc Mệnh” ấy khi chính Kiều biểu diễn, càng nghe, càng “não nhân”.
Đây chính là bản nhạc khiến cho chàng Kim phải bơi trong bể ái khi
đầy khi vơi; khiến chàng bị chữ Tình khuấy động không yên:
“Khi tựa
gối, khi cúi đầu.
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.
Khiến chàng đọc được tính cách đẫm chữ
Tình trong cái Tài của Kiều:
“Rằng hay thì thật là
hay.
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”.
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”.
Bản nhạc ấy cũng làm cho: “Sóng TÌNH
dường đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi”
Chữ Tình đã gắn với đời Kiều như là
định mệnh. Kiều tự nhận mình là “giống HỮU TÌNH” chứ không phải
“người hữu tình”. Mà đã là “hữu tình” nghĩa là “hữu lậu”, là mang
nhiều chấp truớc, là vướng mắc trăm bề trong chốn nhiều ma quỷ của
xã hội suy vi: “Cho hay là giống hữu tình/ Đố ai gỡ mối tơ mành
cho xong”. Cho nên người đồng hội đồng thuyền là Đạm Tiên: “Hữu
tình ta lại gặp ta”.
Phật Gia giảng “Không”, Đạo Gia giảng “Vô”,
Nho gia giảng” Lễ”. Cả tam gia đều giảng “Vô Vi”. Với người xưa, muốn
“vô vi” thì phải nhạt cái chữ Tình tự tư mà tăng trưởng chữ “Từ Bi”
vị tha. Chữ Tình thực sự đã làm cho Kiều đi vào cuộc trăm năm bể dâu
đoạn trường thăm thẳm..
Dạy thế nhân biết “thề nguyền”
Truớc hết chúng ta cần thấy rằng đây là
một giá trị văn hóa xưa để duy trì chế ước sự phóng túng của cá
nhân bản năng. Lời Thề với thần linh, với ông bà tổ tiên; lời thề
trong quan hệ tình yêu lứa đôi là thứ văn bản bất thành văn. Nó là
một thứ tín ngôn rất thiêng liêng. Giá trị văn hóa này cho mãi đến
đầu thế kỷ 20 vẫn còn giá trị. Bài “Thề non nước” của Tản Đà
chiếm được cảm tình độc giả đương thời có lẽ là vì thế.
Cuốn” Phong tục cổ truyền Việt Nam và các nước
“(Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, H. 2003), ở mục” Phong tục cổ truyền Việt
Nam”khi đề cập tới hôn nhân, người Việt thường phải:xem tuổi đính hôn, thề
nguyền, giạm hỏi, ăn hỏi, trao thư thách cưới, làm lễ tơ hồng, rước dâu, lại
mặt. Như vậy “thề nguyền” là khởi đầu của quá trình tình yêu gắn bó
keo sơn trong cuộc sống lứa đôi.
Trong xã hội xưa, mối quan hệ giữa người và
người chủ yếu được xây dựng trên cơ sở tự giác, “bất thành văn” về đạo đức
thì lời thề có ý nghĩa lớn.
Nó có sự chứng giám của trời đất quỷ thần hai
vai nên nghi thức rất trang trọng và có ý nghĩa. Như vậy, lời thề vừa
ràng buộc về mặt đạo đức xã hội vừa thiêng liêng đối với đời sống tâm linh.
Trong Truyện Kiều, ngoài lời thề của những người tri kỷ tri âm rất khả
tín thì lũ người bạc ác tinh ma cũng dựa vào tập quán đạo đức này
của xã hội để lừa người sa hầm sẩy hố. Những kẻ hại đời Kiều đã
trả giá cho những lời thề độc của chúng: “Thề sao thì lại cứ sao
gia hình”.
Phần đầu của “quãng vắng canh trường” nói về
cuộc gặp gỡ. Phần sau là lời thề nguyền. Hành động “Xăm xăm băng
lối vườn khuya một mình” của Kiều trong “quãng vắng canh trường”
để đến gặp Kim Trọng được các nhà Tây học một thời và chúng ta hôm
nay ngợi ca hết lời. Lưu Trọng Lư cho rằng con người cần có tình yêu.
Kiều như cánh buồm gặp gió. Cánh buồm ấy ắt phải no gió. Hoài Thanh
cho rằng: gót sen thoăn thoắt của nàng Kiều tìm đến với luyến ái yêu
thương tự do cho đến nay vẫn làm bao nhiêu thiếu nữ ngơ ngác.
“Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”
Câu chuyện “nữ đáo nam phòng” của Kiều
được chúng ta ngày nay thấy bình thường, thậm chí thấy thú vị. Thế
nhưng, trong cái nhìn của Đạo Đức thời đại ấy thì đây lại là hành
động tạo Nghiệp do chữ Tình sai khiến. Dù không có “điều tà dâm” ở
đây nhưng Kiều đã “mắc điều tình ái” mất rồi.
Khen chê bình luận của chúng ta là một
điều. Còn cái nhìn của thời đại, cái quan niệm của Nguyễn Du ẩn
náu trong đó lại là điều khác! Hồi hộp âu lo với một tương lai cuộc
tình là giấc chiêm bao nhưng Kiều vẫn cứ xăm xăm trong đêm trường quãng
vắng … Ở một góc độ nào đó, nàng đã bị cái chữ Tình dẫn động!
Câu: “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa” trong cách hiểu của
tôi, chữ “hoa” ở đây chưa là trái. Và có lẽ nàng Kiều của Nguyễn Du
cũng như nàng Ơ-giê-ni của Ban-zăc là “bông hoa không bao giờ kết
trái”. Hoa với trăng thành từ ghép “trăng hoa” không thể nói là nghiêm
túc trong tình ái chân chính! Hai dòng:
“Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.”
Có thể liên tưởng tới: “Sen vàng lãng
đãng như gần như xa” trong một giấc mơ của Kiều gặp Đạm Tiên
ngay sau hôm chị em đi chơi xuân, buổi chiều gặp nấm mộ người mệnh
bạc.
Kim Trọng đang thiu thiu, chập chờn giấc
mộng “đỉnh Giáp non Thần” thì Kiều bước vào như một nàng tiên. Nó
cũng như Kiều vừa chợp mắt thì gặp Đạm Tiên. Ở đây, có dấu vết của
tiên cảm, của dự cảm chẳng lành. Giống “hữu tình” đầy ắp chữ Tình
sẽ xảy ra bao cơ sự “đau đớn lòng”.
Và rồi…Trăng xế đẩy bông hoa Lê (người
ngọc thung thăng Thúy Kiều) lại gần chàng. Thực mà rất mộng đã trộn
lẫn một giấc mộng tình vừa mới gặp nhau trước đó. Hai giấc mộng
đồng pha. Chữ Tình lãng đãng mà say đắm: “Bâng khuâng đỉnh Giáp non
thần/ Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.”
Gặp gỡ đầy mộng mơ. Chữ Tình đầy quyến
rũ. Phần thề nguyền rất trân trọng. Không gian trong nhà cần phải nức
hương, ngọn nến trong nhà không thể “trướng huỳnh hắt hiu”. Cho nên, Kim
Trọng: “Vội vàng làm lễ rước vào/Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương”
Cuộc thề nguyền có giấy ghi lời thề, có cắt tóc
thề: “Tiên thề cùng thảo một chương/ Tóc mây một món, dao vàng chia đôi.”.
Chứng kiến lễ nghi này có trăng, mà là vầng trăng sáng soi làm
chứng: “Vừng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai miệng một lời song
song”
Tôi có cảm giác đây là một đêm rằm “nhân
tạo” bởi nó được nhìn qua lăng kính chữ Tình vốn rất chủ quan và
mong manh. Khi Kiều qua nhà Kim, đi trong bóng cây lá cành trăng chiếu
thì: “Nhặt thưa gương giọi đầu cành” Khi vào nhà Kim thì trăng xế, trăng
lu. Và kỳ lạ thay, khi thề nguyền trăng như sáng lên lộng lẫy.
Lý Bạch có viết: “Độc ẩm cùng trăng
sáng/ Mình với bóng là ba”
Buổi “Thề nguyền” có Kiều, Kim; có hai
miệng, hai lời, hai mặt và có một mặt trăng nữa thành ba. Sao nó cô
đơn đến tội nghiệp. Sao nó lẻ loi khiến trăng mất cả vòm sao! “Thề
nguyền” vẫn là một bản nhạc mà âm giai của nó có nỗi buồn không
cưỡng được, có cái “vui gượng kẻo mà” thật khó nói. Chữ Tình tội
nghiệp chứ đâu phải chữ Duyên thiên định ràng rịt hai cuộc đời?
Tiêu chuẩn của tình yêu tuổi trẻ hôm nay
nếu có được những lời thề nguyền bất thành văn như Kim Kiều đã là
quá tuyệt vời. Vâng, lấy cái suy thoái của đạo đức hôn nhân nhiều
hỗn loạn hôm nay để nhìn cuộc thề nguyền của Kim Kiều ai dám nói là
không trong sáng không đường đường chính chính?
Tuy nhiên trong ước thúc của xã hội xưa,
cuộc thề nguyền ấy vẫn là chưa hợp chuẩn, chưa hợp thiên ý. Chữ
Tình khởi động, tài mệnh tương đố, “cõi người ta” lại tiếp một cơn
mộng, một cõi Mê…
Để khép lại việc bàn về chữ Tình trong
Truyện Kiều, như thông lệ của các Cụ xưa, tôi cũng tri âm đại thi hào
Nguyễn Du với một áng thơ…
Chữ Tình ở cõi thế gian
Chữ Tình ơi ơi, ta giã biệt ngươi
Cái tình ấy làm đảo điên tất cả
Bao lời nói đầu môi bấy nhiêu lời dối trá
Thiện Nhẫn đâu không nhìn thấy mặt người
Yêu Thương, giận hờn rồi sẽ ghét ghen
Tâm đố kỵ ghen tuông
Khiến mình lỡ bước
Sa hầm sẩy hố
Ma quỷ gọi mời
Ta mê mù không phân biệt được khóc cười
Chữ TỪ BI và chữ Tình lở dở
Ta giành quyền cho nhớ
Ta giành quyền cho yêu
Tưởng hy sinh mà thực ra đòi nợ
Kiến bò tủy xương trong mỗi sớm, mỗi
chiều
Chữ Tình bao la vây bủa con người
Vào tâm xoáy là ghen tuông tật đố
Xoay năng lượng cuộc đời cứ theo đó mà
tiêu
Tưởng yêu thương
Hóa tột cùng ích kỷ
Đâu phải một người
Mà cuộc thế đảo điên
Ta vẫn niệm đêm ngày
Kiếp xưa thiếu đường tu
Kiếp này giữa đời thường,
Tâm phải thẳng ngay
Nhà Ghen Hoạn Thư xưa nay
Ta thấy Phật A Di Đà xua tay ngoảnh mặt
Đóng cửa Cực Lạc Thiên Đường những kẻ cố
nài xin
Vâng, Chữ Tình đã khiến con,
tất cả mọi Tâm trở thành yếu nhược.
Chân Thiện Nhẫn ơi !
Con chẳng dám gọi tên.
Mọi quan ải bắt đầu phải vượt ấy chữ
Tình
Thiện niệm Từ Bi
Cho ta thoát vô minh.
Ta mất hết những người thân yêu nhất
Những người thân trong vi lạp hôm nay
Họ là thế giới của ta
Trân quý còn hơn thân xác Mê này…
Chồng vợ cõi người
Phải chăng chỉ là Nghiệp trả vay…
Hân Văn – Hà Phương
__._,_.___
No comments:
Post a Comment