ĐỨC
PHẬT VÀ THIÊN MA
Toàn Không
(Tiếp theo)
3) MA VƯƠNG HÀNG PHỤC:
Ta nói
tiếp:
“- Hành tận ắt khổ tận, khổ tận ắt kết
tận, kết tận ắt Niết Bàn”.
Thiên Ma hỏi:
“- Có thể dùng pháp (sự việc) diệt
pháp chăng?”
Ta trả lời:
“- Có thể dùng pháp diệt pháp được.”
Tệ Ma lại hỏi:
“- Thế nào là dùng pháp diệt pháp?”
Ta giải thích:
“- Dùng chính kiến diệt
tà kiến, dùng tà kiến diệt chính kiến; đối với chính tư duy, chính ngữ, chính
nghiệp, chính mạn, chính tinh tấn, chính niệm, chính định cũng như thế, lấy
chính diệt tà, lấy tà diệt chính. Đó là dùng pháp diệt pháp”
Thiên Ma nói:
“- Sa Môn hôm nay tuy có những lời
như thế, ở chỗ này khó khắc phục, ông mau đứng dậy, đừng để ta nắm chân ném ra
biển”.
Ta lại bảo Ma
Vương:
“- Xưa kia Ta tạo công đức vô kể,
còn ông chỉ tạo phúc có một lần được làm Ma Vương cõi Trời Dục giới nên lời của
ông khó thực hiện được”.
Thiên Ma Ba Tuần
đáp:
“- Ông tự xưng đã tạo vô số phúc đức,
đó chỉ mình ông biết, ai có thể chứng cho ông?”
Lúc ấy, đang
ngồi, Ta duỗi bàn tay phải thẳng xuống dưới, đồng thời bảo Ma Vương:
“- Công đức Ta đã tạo, Địa Thần cũng
biết”.
Ta nói dứt lời, Địa
Thần từ dưới đất vọt lên chắp tay thưa:
“- Bạch Ngài, con chứng biết công đức
của Ngài”.
Địa Thần vừa nói
xong, Ma Vương Ba Tuần buồn rầu khổ não, liền biến mất cùng với bốn binh chúng
Ma.
LỜI BÀN:
Đại Bồ Tát nói: “Hành
tận ắt Khổ tận, Khổ tận ắt Kết tận, Kết tận ắt Niết Bàn” là sao? Chúng ta
thử phân tích:
- Hành tận: Là khi không còn tác
ý, không có ý muốn, khi không suy nghĩ muốn làm gì cả.
- Kết tận: Không bị ràng buộc bởi:
1. Kiến Kết (Ngã Kiến), do chấp cái ta; 2. Giới
Thủ Kết (Giới Cấm Thủ Kiến), do chấp Ngã kiến, Biên kiến và Tà kiến; 3. Nghi Kết (Nghi Kiến),
do nghi ngờ Chính pháp.
- Niết Bàn: Do chữ Nibbana Nam Phạn
(Pali) và chữ Nirvana Bắc Phạn (Sanscrit), Chữ Ni là không, chữ Vana là dệt, ái
dục. Niết Bàn là không dệt, diệt ái dục, tuyệt định tĩnh, tuyệt huệ, giải thoát
v.v...
1- Hành tận ắt khổ tận
là sao?
Là khi diệt trừ hết các ý muốn, không
còn ý niệm tạo tác, không còn khởi sinh các việc điên đảo (Hành tận) như việc
được mất, vinh nhục, hay dở, phải trái v.v… thì làm gì còn tranh giành, sẽ hết
khổ (Khổ tận).
2- Khổ tận ắt kết tận
là sao?
Là khi hết buồn khổ rồi (Khổ tận) thì
làm gì còn bị sự nọ việc kia dính mắc trói buộc (Kết tận).
3- Kết tận ắt Niết Bàn
là sao?
Do không bị dính mắc ràng buộc (Kết tận)
nên được giải thoát mọi sự (Niết Bàn).
Khi Ma Vương hỏi Đại
Bồ Tát: “Có dùng pháp diệt pháp được không?”, Ngài giảng cho Thiên Ma rằng
có thể dùng pháp diệt pháp: “Dùng chính diệt tà, dùng chính kiến, chính tư
duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạn, chính tinh tấn, chính niệm, chính định,
để diệt tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạn, tà tinh tấn, tà niệm, tà
định”. Chúng ta phân tích sự khác biệt giữa chính và tà như sau:
1- Dùng Chính kiến diệt
Tà kiến là sao?
Là thấy chân
chính đúng sự thật (Chính kiến) để diệt trừ sự thấy sai (Tà
kiến) do ái dục sinh ra.
2- Dùng Chính tư duy
diệt Tà tư duy là sao?
Là suy nghĩ
chân chính (Chính tư duy) để diệt trừ ý nghĩ sai (Tà tư duy)
do tham sân thúc đẩy.
3- Dùng Chính ngữ diệt
Tà ngữ là sao?
Là lời nói
chân chính, lời thật thà ngay thẳng công bình (Chính ngữ) để diệt
trừ lời nói sai sự thật, nói dối, nói xuyên tạc, nói thêu dệt, nói ác (Tà
ngữ).
4- Dùng Chính nghiệp
diệt Tà nghiệp là sao?
Là hành động
chân chính đúng với chân lý lẽ phải (Chính nghiệp) để diệt trừ những
hành động sai quấy đưa đến khổ đau cho chúng sinh (Tà nghiệp).
5- Dùng Chính mạng diệt
Tà mạng là sao?
Là cách mưu
sinh chân chính (Chính mạng) để diệt trừ sinh sống bằng
nghề trộm cắp, gá bạc, sát hại, mối lái dâm dục, v.v... (Tà mạng).
6- Dùng Chính tinh tấn
diệt Tà tinh tấn là sao?
Là siêng năng
chuyên cần (Chính Tinh tấn) trong việc lấy chính diệt
tà, tránh sự giả bộ siêng năng (Tà tinh tấn).
7- Dùng Chính niệm diệt
Tà niệm là sao?
Là nhớ nghĩ điều
hay lẽ phải lợi người (Chính niệm) để diệt trừ những nhớ nghĩ hại
người (Tà niệm), v.v...
8- Dùng Chính định diệt
Tà định là sao?
Là tập trung
tâm ý, tư tưởng vào một mục tiêu như ly dục lìa ác, kiên cố nhiếp trì, nhất tâm
thiền định (Chính định) để diệt trừ sự tập trung tinh thần vào
các việc ngẫm nghĩ điều ác hại người (Tà định), v.v...
Mặc dù Đại Bồ Tát
đã nói những lý lẽ phải, Ma Vương không thể tranh cãi được, nhưng vẫn cố dùng lời
đe dọa, hòng lung lạc tâm Ngài. Lúc đó, Đại Bồ Tát cho Ma Vương biết rằng Ngài
đã tạo công đức vô lượng, trong vô số kiếp, còn Ma chỉ mới tạo được một lần
phúc đức mà được làm Thiên Ma Vương, nên lời đe dọa không thể thực hiện được. Rồi
Ngài dùng bàn tay phải duỗi chỉ xuống đất, thì Địa Thần hiện lên làm chứng cho
lời nói của Ngài là đúng. Do đó Ma Vương thất bại, buồn thảm rút lui biến mất.
4)-
CHÍNH PHÁP CÒN PHẢI
BỎ HUỐNG
CHI TÀ PHÁP:
(Còn tiếp)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment