NGHIỆP
BÁO NHÂN QỦA
Toàn Không
I). NGHIỆP BÁO NHÂN QỦA LÀ GÌ?
Nghiệp: Từ chữ Karmaphala (S)
và Kammaphala (P), nghiệp là hành động từ ý nghĩ, tư tưởng, lời nói, đến việc
làm, sinh bởi ý muốn, có tác ý; nếu không có ý muốn, không có tác ý sẽ không có
nghiệp.
Báo là trả lại, kết quả, như
trả ân, báo phục: Ân trả ơn, oán báo thù.
Nhân là hột giống, mất đi tái
lại, theo cũ lập lại.
Quả là hậu quả của ý nghĩ,
lời nói, hành động. Nghiệp ví như cái nhân cái hột, qủa ví như mầm, cây, lá,
hoa, trái; tất cả những hành động từ thân, khẩu, ý đều tạo nghiệp; tuy nhiên,
những hành động không thiện không ác không tạo nghiệp, và những hành động không
tác ý, không có ý muốn cũng không tạo nghiệp.
Nghiệp
báo nhân quả thuộc về tâm thức, nó vô hình không thấy được, nhưng nó điều khiển
cả vật chất lẫn tinh thần; nghiệp quả trong phạm vi vật chất như giàu nghèo, thọ
yểu v.v…; trong phạm vi tinh thần như vui sướng, buồn khổ, v.v...
Một nghiệp
tốt mang lại kết quả tốt, có thể ở kiếp hiện tại hay ở kiếp tương lai, cũng vậy,
một nghiệp xấu mang lại kết quả xấu, ở ngay kiếp này hay ở kiếp mai sau; muốn thoát
khỏi luân hồi, phải thoát khỏi nghiệp báo nhân quả. Muốn thoát khỏi nghiệp quả,
phải từ bỏ nghiệp xấu, muốn từ bỏ nghiệp xấu phải trừ hết ái dục, ái dục là vi
tế ngủ ngầm của tham sân si, tức là sạch hết “Vô minh”, sạch hết vô minh tức được
giải thoát.
Có người
chủ trương quá mức rằng dù có ý muốn hay không, dù có tác ý hay không, khi đã
gây tội, đều có tội ngang nhau không hơn không kém; lập luận này đưa đến sự phi
lý. Họ đưa ra quan điểm lý luận rằng như khi một người vô tình chạm tay vào lửa
và một người cố ý cho tay vào lửa đều bị cháy bỏng như nhau. Lập luận này không
đúng, nếu một bào thai vô tình quay đạp trong bụng làm cho người mang thai đau
đớn, cũng có tội hay sao? Một người lái xe vô tình gây tai nạn làm chết người
khác, tội cũng ngang với kẻ cố ý giết người hay sao?
II). NGUỒN
GỐC NGHIỆP QỦA:
Tham sân
si vi tế là ái dục ngủ ngầm khó thấy. Hết tham sân si vi tế là hết ái dục, hết
ái dục là hết vô minh. Chỉ có bậc đại Bồ Tát và Chư Phật mới hết vô minh hoàn
toàn, thành ra chỉ có Phật và đại Bồ Tát mới hết tạo nghiệp, ngoài ra các hàng
tu hành khác đều còn tạo nghiệp vi tế, dù vị ấy cảm thấy hết tham sân si.
Mọi người
phải chịu trách nhiệm về những hành động từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm của
mình, muốn sướng hay khổ hoàn toàn do mình tự tạo chứ không do một ai khác có
quyền định đoạt sướng khổ cho mình; vì vậy, muốn không bị tham sân si tà kiến
thúc đẩy tạo nghiệp, chúng ta phải biết làm chủ lấy mình, không để những tư tưởng
ý kiến vô căn cứ lung lạc ý chí của chúng ta.
Mỗi chúng
sinh đều có quyền làm chủ lấy mình, khi họ quyết định tạo nghiệp thiện hay ác,
nghiệp đã tạo rồi, họ không còn quyền định đoạt số phận của mình được nữa, mà
nghiệp quả sẽ định tương lai cho họ được tốt hay xấu; ngoại trừ họ tạo một nghiệp
khác mạnh mẽ trái ngược lại mới có thể tạm gọi là sửa đổi được nghiệp đã
gieo ấy.
Một
trong muôn nghìn nguồn gốc của tạo nghiệp là ngòi bút. Ngòi bút dạy bảo người
làm điều tốt, nhưng ngòi bút cũng hướng dẫn người làm ác, cổ súy việc làm ác mà
nhiều khi khó đo lường được hậu qủa của nó. Ngòi bút còn độc hơn một thanh kiếm,
hại hơn một khẩu súng, kiếm và súng chỉ giết được một số người, còn bút làm hại
vô số người, giết vô số người. Ngòi bút đưa đến sự bất mãn cho cả một tập thể,
gây sự đấu tranh cho cả một dân tộc, hay cả một nước v.v…
Tại sao
ngòi bút lại có thể che đậy được chân ngụy? Vì ngòi bút khi bị tham sân si, tình
cảm quyền lợi chi phối thì trí tuệ bị che lấp; lúc đó ngòi bút sẽ là vũ khí gây
tai hại cho biết bao người, ngòi bút ở đây tệ hại hơn súng đạn gươm đao rất nhiều
là vậy, trường hợp này người viết sẽ lãnh trách nhiệm về nghiệp báo nhân quả của
họ.
Nhiều người
mặc dù là trí thức, nhưng vì không nhận kỹ sự đúng sai của thiện ác, bị quan điểm
thiên lệch, bè phái cố chấp, danh vọng địa vị v.v… đã dùng ngòi bút gieo rắc
sai lầm cho nhiều thế hệ; ngòi bút của những người này phát nguồn từ sự hận
thù, từ ái dục, là thuốc độc ghê gớm nhất để giết chết điều thiện, đào hố sâu
chia rẽ bởi kích động dục vọng của con người. Nếu họ dùng ngòi bút để kêu gọi
tình thương yêu giữa người và người, giữa quốc gia và quốc gia, thì thế giới
này đã không xảy ra khủng bố chiến tranh hết ở nơi này lại đến nơi kia, làm cho
con người đã khổ lại càng khổ hơn. Thật đáng thương cho những người không chịu
suy xét kỹ càng trước khi viết, nhưng những người tin theo, hùa theo ngòi bút của
họ lại càng đáng thương hơn, vì họ đi vào con đường tối tăm mà họ không hay
không biết, để rồi cùng lãnh hậu quả của nghiệp báo mai hậu.
Những người
viết văn, nhà thơ, họa sĩ, người dựng kịch, phim ảnh, truyền thanh, thuyền
hình, người làm chính trị v.v…có người đời sống khỏe mạnh thung dung, có người
trở nên giầu có, nổi tiếng, là do bố thí bằng tài vật của họ, hoặc họ dùng
phương tiện văn hóa để viết lên, diễn tả, nói lên những điều đạo đức; như những
tác phẩm chuyển hóa lòng người trở thành thánh thiện đạo đức, sẽ đưa dần tác giả
đến hạnh phúc. Nếu thiếu một trong hai điều trên, người cầm bút sẽ chôn vùi đời
mình trong nghèo túng, bệnh tật, hoạn nạn, khổ sở; như những tác phẩm sai lạc,
ích kỷ, hận thù, tà kiến v.v… Tác giả: của những loại tác phẩm này đi dần vào
khổ từ tâm hồn đến thể xác; vì vậy muốn tạo được những tác phẩm lợi ích tốt đẹp,
người viết, người dựng kịch, làm phim, vạch đường lối v.v… phải gột rửa, trau
giồi tâm hồn mình trước khi viết, làm.
Một
nghiệp báo không phải do một nhân duy nhất, mà nó sẽ theo nghiệp nào mạnh nhất
để trổ quả; như chỉ sai đường cho một người và chặt chân một người, tội chặt
chân nặng hơn phải chịu quả báo Địa ngục. Sau khi hết hạn Địa ngục, được sinh
làm người bị tật về chân như đi cà nhắc hay bị què; còn nếu chỉ dẫn đường lối
sai lầm, hoặc biết sai mà vẫn làm, hoặc giam giữ chúng sanh trong tối tăm, hoặc
nói những điều tà kiến làm người khác hiểu sai, sẽ bị tật về mắt. Nếu phá cầu,
phá đường, lấp lối, giam cầm người, vật, bẻ gẫy hoặc chặt chân súc vật, sẽ bị tật
về chân, đi đứng khó khăn v.v…
Những
người săn bắn, sập bẫy, câu cá, thường bị đọa làm con vật hoặc con cá, nếu đủ
phúc không bị đọa, sẽ làm người hay bị lừa gạt; hình ảnh những con vật bị bắn,
bị bẫy, bị nhử mồi là những hình ảnh mà những người ấy sẽ gặt quả tương ưng.
Như bị lừa, bị vấp ngã, sa hố, bị tai nạn, bị giặc lừa vào chỗ tai nạn hoặc chết
chóc v.v…
III).
PHÂN LOẠI NGHIỆP QỦA:
NGHIỆP
BÁO NHÂN QỦA
Toàn Không
(Tiếp theo)
III). PHÂN LOẠI NGHIỆP QỦA:
1).
HÌNH THỨC CỦA NGHIỆP: Có
hai thứ:
A). VẬT
CHỊU NGHIỆP: Có
hai sự thực:
1. Về vật chất: Sự thực vật chất
như cái ghế, cái nhà, con bò, con chim, cái xe v.v… Sự thực này biểu hiện rõ
ràng, tức bản chất của nó.
2. Về vi thể: Sự thực không biểu
hiện khó thấy, trừu tượng, như phân tích cái ghế, cái nhà, con bò, con chim,
cái xe, ta chỉ thấy những nguyên tử, tế bào, và năng lực tính chất kết hợp lại
mà thành những thứ ấy; sự thực không biểu hiện là sự thực cuối cùng, tức bản thể
của mỗi sự vật.
Khi một sinh vật như người, con bò, con chim hiện hữu, luôn luôn biến đổi không
ngừng, không thể tồn tại y hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp nhau, nghiã là ở khắc
sau khác với khắc trước đó. Do đó không có một thực thể đơn thuần đồng nhất, không
có một người cố định, mà chỉ có hành động, có tri giác, có thức, mà không có
người hành động, không có người tri giác, không có người ý thức. Tác ý hay ý muốn
là động cơ phát xuất hành động nghĩ nói làm, là kẻ tạo nhân, cảm giác thụ hưởng
là kẻ nhận quả. Ngoài hai cái đó không có người gây nhân hay kẻ nhận quả. Cũng
như một người do năm Uẩn (Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức) hợp lại, khi quả lành
hay quả dữ xuất hiện, ta nói là may mắn hay xui xẻo.
B).
CÁC LOẠI NGHIỆP: Có
hai loại nghiệp:
1. Biệt nghiệp: Là nghiệp chỉ
gây ra bởi một cá nhân, và khi nhận quả cũng chỉ một mình cá nhân ấy nhận lãnh.
2. Cộng nghiệp: Nhiều người cùng
nhau gây nhân cùng lúc, đến khi nhận quả mọi người cùng nhau nhận lãnh. Cộng
nghiệp còn gọi là nghiệp chung, do cộng nghiệp mà những người cùng chung trong
một điều kiện, một nước, một địa phương, một xóm, một tập thể, một chuyến máy
bay, một chuyến xe phải chịu chung một bất hạnh, hay được một may mắn. Dĩ nhiên
trong cộng nghiệp vẫn có biệt nghiệp riêng của mỗi người, như xe bị tai nạn có
người chết, có người bị thương, nhưng cũng có người không hề hấn gì v.v…
2).
HÀNH ĐỘNG THIỆN ÁC
GÂY NGHIỆP BÁO:
A).
HÀNH ĐỘNG THIỆN TẠO QỦA LÀNH:
Sinh
lên cõi Trời, cõi Thần hoặc cõi Người được giàu sang, địa vị quyền uy, mạnh khỏe
sống lâu. Các hành động thiện như:
1. Bố thí, có lòng quảng đại
giúp đỡ người về mọi phương diện.
2. Trì giới, tránh làm ba điều
ác về thân, bốn điều ác về miệng, và ba điều ác về ý.
3. Phục vụ tôn kính người đáng được phục
vụ, đáng được tôn kính.
4. Vui vẻ hoan hỷ vui mừng khi thấy
người khác được phúc báo tốt đẹp.
5. Học hỏi các điều hay lẽ phải
trong Phật pháp, tu hành và giáo hóa chúng sinh.
6. Giữ gìn vẹn toàn
chính kiến
không để quên và không để ái dục vô minh lung lạc.
7. Nhớ nghĩ đến
chúng sinh
và hồi hướng phúc đức cho tất cả chúng sinh.
B).
HÀNH ĐỘNG ÁC GÂY NGHIỆP DỮ
Các hành động ác như:
1. Sát sinh: Giết hại tùy theo
là bậc chân tu hay người thường, hoặc tùy theo sinh vật lớn hay nhỏ mà bị quả
báo nặng hay nhẹ khác nhau. Sau khi chết đọa sinh vào Địa ngục, Súc sinh, hay
trở lại làm người bị chết yểu, bệnh tật, hoạn nạn, chia ly, lo sợ, buồn rầu
v.v…
2. Trộm cướp: Lấy của không cho
mà lấy từ tiền bạc, của cải, đến vật dụng v.v… tùy theo nặng nhẹ bị quả báo
tương ưng, khi chết sinh vào cõi dữ. Nếu được tái sinh làm người phải làm việc
khó nhọc, nghèo hèn, thất vọng, mất mát của cải, hạnh phúc gia đình bị tan vỡ,
nghi kị bất hòa, cãi nhau, đánh nhau, không sao ngóc đầu lên được.
3. Tà dâm: Hãm hiếp, dùng thủ
đoạn lường gạt ái tình, trộm cướp hạnh phúc của người, gian dâm. Nếu được tái
sinh làm người có vợ (chồng) không chung thủy, gia đình không hạnh phúc, có nhiều
kẻ thù v.v…
4. Nói dối, nói hai lưỡi, nói
thiêu dệt, nói ác, có nói không, không nói có, lừa gạt người. Cùng một việc nói
với người này thế này, nói với người kia thế khác; nói thêm bớt không đúng sự
thật, nói bóng nói gió đâm thọc; chửi bới tục tằn, nguyền rủa thậm tệ. Nếu được
tái sinh làm người hay bị vu oan, nói không ai tín nhiệm tin cẩn, hay bị bệnh ở
miệng, miệng hôi. Thân quyến xích mích, bạn bè xa lánh, và có nhiều người
chống đối. Lại phải nghe những lời tục tằn thô lỗ độc ác v.v…
5. Uống rượu: Uống rượu say có
thể gây cả bốn nghiệp trên, hiện đời dễ mắc bệnh, chết sớm, gia đình mất hạnh
phúc đi đến nghèo, con cái yếu đuối kém thông minh, kiếp sau làm người ngu dốt,
mất trí, điên dại.
6. Tham lam đố kị: Tham lam đủ thứ,
thèm muốn lợi danh của người khác, luôn luôn chấp lòng ganh tị với kẻ khác. Nếu
sinh làm người, sẽ là người không có ảnh hưởng, nói gì, làm gì cũng không có
người theo, và ái dục tăng trưởng mạnh làm cho người ấy càng đi sâu vào tội lỗi,
gây thêm nghiệp ác.
7. Sân hận: Thô lỗ, cục cằn,
luôn giận dữ, nhăn nhó, khó chịu. Người có tính sân giận hay gây gỗ, tìm đủ
cách để bắt bẻ người, gây thù kết oán; thường sau khi chết làm loài qủy dữ, nếu
được tái sinh làm người có thân hình xấu xí, mặt mũi khó coi, tính nết không ai
ưa, và tính sân hận càng tăng trưởng gây thêm nghiệp xấu.
8. Ngu si tà kiến: Người không chịu học
hỏi tìm hiểu nghiên cứu, không chịu gần người có tài có đức để học hỏi các điều
phải trái lành ác; vì vậy hiểu biết sai lầm, những điều sai cho là đúng, những
điều đúng cho là sai; như không tin nhân quả nghiệp báo, không tin luân hồi
sinh tử. Sau khi chết đọa vào cõi dữ, nếu được làm người sẽ là người tâm thần
mê mẩn, ngu ngu khờ khờ, hoặc bệnh hoạn liên miên.
9. Kiêu ngạo ngã mạn: Không tôn trọng
người đáng tôn kính, tự tôn tự đại, khinh người, coi trời bằng vung, coi mọi
người như cỏ rác, và không biết phục thiện; khi chết đọa vào ác đạo, khi được
trở lại cõi người nghèo nàn khốn khổ, bị người khinh rẻ, không dám ngẩng đầu
lên.
10. Keo kiết bủn xỉn: Dù giàu dù nghèo
mà suốt đời keo kiết từng đồng, không cho dù với chút ít, từ phẩm vật, của cải,
tiền bạc, đến lời chỉ bảo lợi ích. Người ấy: sống keo kiết ích kỷ, và không có
lòng thương người nghèo nàn khốn khổ; người ấy sau khi chết sinh vào cõi dữ,
tái sinh vào nhân gian làm người nghèo hèn không của cải.
3).
KINH NHÂN QỦA:
Để
hiểu rõ về nhân qủa, chúng ta lược trích một đoạn Kinh Đức Phật giảng dạy Vua Ba
Tư Nặc nước Xá Vệ như sau:
Một
hôm Vua Ba Tư Nặc đến viếng Đức Phật tại đạo tràng Kỳ Hoàn, sau khi cúi đầu lễ dưới
chân Phật, Vua ngồi vào chỗ, liền hỏi thăm sức khỏe và hỏi Phật:
- Thưa Thế Tôn, các
người qúy phái (Bà la môn) sau khi chết rồi sẽ trở lại sinh vào dòng qúy phái
không, và các người dòng vua chúa quyền bính (Sát lợi), dòng nông công thương
(Thủ đà la), dòng tôi tớ nô lệ (Chiên đà la) cũng thế chăng?
- Đại Vương, đâu được
như vậy, Đại Vương nên biết có bốn hạng người, đó là:
1.
NGƯỜI TỪ TỐI VÀO TỐI:
Có người sinh vào nhà nghèo túng, làm các nghề hạ tiện, thân thể xấu xa, chết yểu,
bị người sai làm các việc hạ tiện, đó gọi là tối. Ở trong chỗ tối, người ấy lại
thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác; do nhân ác, khi chết sẽ sinh vào cõi dữ;
ví như người dùng máu rửa máu, như thế là người từ tối vào tối.
2.
NGƯỜI TỪ TỐI VÀO SÁNG:
Có người
sinh vào nhà ty tiện nghèo hèn, làm nghề hạ tiện, đó gọi là tối; nhưng người ấy
ở chỗ tối thân làm lành, nói lời chân thật, ý nghĩ điều tốt. Do nhân duyên
lành, khi chết sinh vào chỗ tốt, lên trời hoặc vào nhà giàu sang quyền qúy. Ví
như người từ ngựa bước lên voi, như người từ tối vào sáng.
3.
NGƯỜI TỪ SÁNG VÀO TỐI:
Có người
được sinh vào nhà giàu có tiền của, thân đẹp đẽ, được ăn học, có tôi tớ sai bảo,
đó gọi là sáng. Ở trong chỗ sáng này, thân làm việc ác, miệng nói những lời dối
trá, ý nghĩ điên đảo ác độc; do nhân duyên bất thiện, khi chết sinh vào cõi dữ
địa ngục; ví như người từ nhà lầu xuống ở bờ ở bụi, như từ sáng vào tối.
4. NGƯỜI TỪ SÁNG VÀO SÁNG:
Có người sinh vào chỗ giàu sang, lắm tiền
nhiều của, thân hình đẹp đẽ, có người sai bảo, ăn học tới nơi tới chốn, đó gọi
là sáng. Ở trong chỗ sáng này lại thân làm việc thiện, nói lời ngay thẳng chính
trực phải đạo, ý nghĩ cứu giúp chúng sinh. Do nhân lành, khi chết hóa sinh lên
cõi trời. Ví như người từ nhà lầu đến nhà lầu cao đẹp hơn, như người từ sáng
vào sáng.
IV). BÁO ỨNG CỦA NGHIỆP:
(Còn tiếp)
__._,_.___
NGHIỆP
BÁO NHÂN QỦA
Toàn Không
(Tiếp theo)
IV). BÁO ỨNG CỦA NGHIỆP:
1). TÁC ĐỘNG CỦA NGHIỆP BÁO.
Căn cứ
trên tác động của nghiệp quả, chia ra bốn loại:
1.
NGHIỆP HIỆN HÀNH TÁI TẠO:
Nghiệp có năng lực mạnh lúc chết, liền sau khi chết phải thụ sinh vào cõi lành
hay cõi dữ tùy theo nghiệp. Thường thường, tư tưởng cuối cùng của một người ảnh
hưởng bởi phẩm hạnh của người ấy trong suốt đời sống, nhưng cũng có khi hoàn cảnh
ngoại lai ảnh hưởng đến người ấy lúc lâm chung, làm cho tư tưởng người ấy biến đổi.
Tư tưởng cuối cùng ấy tạo điều kiện cho sự tái sinh kế tiếp, trong trường hợp
này, đời sống hàng ngày không ảnh hưởng đến sự tái sinh, nhưng nó vẫn không mất,
và sẽ xuất hiện vào lúc khác; những sự thay đổi này đã giải thích vì sao trong
một gia đình, các người con tính nết không giống nhau.
2.
NGHIỆP TRỢ DUYÊN:
Nghiệp hiện hành tái tạo khi có nghiệp quá khứ chen vào để trợ lực hay duy trì
gọi là nghiệp trợ duyên.
3.
NGHIỆP PHẢN DUYÊN:
Nghiệp hiện hành tái tạo khi có nghiệp quá khứ chen vào để làm suy giảm hay cản
trở, gọi là nghiệp phản duyên.
4.
NGHIỆP TIÊU DIỆT:
Khi nghiệp hiện hành tái tạo bị nghiệp quá khứ mạnh và ngược chiều, có thể tiêu
diệt hoàn toàn nghiệp hiện hành đáng lẽ trổ quả, nên còn được gọi là nghiệp vô hiệu
lực.
2).
THỜI GIAN BÁO ỨNG:
Thời
gian nhân trổ qủa có ba loại:
A).
HIỆN NGHIỆP:
Nghiệp hiện tại lại chia ra hai loại:
1. Quả lành trổ
trong kiếp hiện tại:
Có những quả lành trổ ngay trong kiếp hiện tại, ví như học sinh chăm học, đi
thi đậu vậy.
2. Quả dữ trổ trong
kiếp hiện tại:
Có những quả dữ trổ ngay trong kiếp hiện tại, ví như làm ác giết người, trộm cắp,
bị bắt bỏ tù giam giữ.
B). HẬU
NGHIỆP:
Những nghiệp trổ trong các kiếp về sau. Hậu nghiệp này ai ai cũng có, và chúng
ta không thể biết được nhiều nghiệp hay ít nghiệp, nghiệp nặng hay nhẹ; chỉ có Phật
và các vị đắc đạo có “Sinh tử thông” mới thấy được nghiệp báo nhân quả.
C).
NGHIỆP VÔ HẠN ĐỊNH:
Quả trổ sinh bất cứ lúc nào từ hiện tại cho đến mãi về sau, ngoại trừ khi giải thoát
nhập Niết Bàn mới hết.
3).
NGHIỆP CĂN CỨ TRÊN SỰ BÁO ỨNG:
Căn cứ trên sự báo ứng chia ra làm bốn loại:
1.
NGHIỆP NẶNG:
Nghiệp nặng dù lành hay dữ cũng phải trổ quả ngay sau khi chết đến cõi tốt hay
cõi xấu. Một nghiệp nặng là hành động tạo tác nghiêm trọng, nó gây nghiệp chắc
chắn trổ quả trong hiện tại hoặc kiếp kế tiếp; như người tu thiền định, tham
thiền đắc quả, hoặc người phạm tội giết cha mẹ v.v…
2. NGHIỆP GẦN:
Nghiệp gần là nghiệp gần lúc lâm chung sẽ dẫn dắt đi thọ sinh nếu không có một
nghiệp nặng quan trọng nào. Vì lẽ đó, thường phải nhắc nhở người sắp qua đời nhớ
nghĩ các việc lành, tạo công đức lành, như bố thí, trì chú, niệm Phật, tham thiền
v.v…; như vậy, có khi người đáng lẽ phải tái sinh vào cõi xấu lại được sinh vào
chỗ tốt; mặc dù người này được sinh vào chỗ tốt, nhưng người ấy vẫn còn nghiệp xấu
chờ trổ qủa vào bất cứ lúc nào chín mùi.
3.
NGHIỆP THƯỜNG:
Nghiệp thường là những hành động hàng ngày, những thói quen suy nghĩ hàng ngày ảnh
hưởng đến lúc sắp chết. Các thói quen này đã ăn sâu vào tiềm thức, thành những thói
quen tự nhiên mà ta ít để ý, nhưng sự thực nó đã tiềm ẩn trong tâm thức. Khi sắp
chết, nếu không có một nghiệp đặc biệt nặng nào, ta thường nhớ lại những hành
vi hình ảnh quen thuộc ấy, và nó sẽ dẫn dắt ta tái sinh; như người đi săn, người
đi câu, người đồ tể, v.v… nhớ tới hình ảnh săn bắn, nhử mồi, sập bẫy, giết súc
vật v.v…và nó sẽ dẫn người ấy vào cõi dữ.
4.
NGHIỆP TÍCH TRỮ:
Nghiệp tích trữ gồm tất cả những nghiệp không thuộc ba loại nghiệp vừa kể, nó
giống như một nhà kho chứa các tạp nghiệp đủ thứ.
4).
NGHIỆP CƯ NGỤ Ở ĐÂU?
Nghiệp
được tích chứa trong Thức thứ tám là A Lại Đa Thức. Nghiệp là sự thu nhận tất cả
các kinh nghiệm trải qua, là sự thu nhận những cảm giác, những thụ cảm, những
hành động từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm đều được ghi lại đầy đủ. Mặc dù vậy,
nó không ở một nơi nào nhất định, nó vô hình vô tướng, nó nằm trong Tâm thức
luôn luôn biến đổi không ngừng như dòng nước chảy luân lưu bất tận, nó chỉ phát
hiện ra khi đủ nhân đủ duyên thích ứng. Cũng ví như một trái cây xuất hiện trên
cây đúng mùa, tùy chỗ mà hiện qủa, không nhất định trước ở chỗ nào cả; nghiệp
có năng lực chuyển từ kiếp này qua kiếp khác, và còn mãi mãi trong nhiều kiếp nếu
trổ quả chưa hết; nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc cấu tạo tâm tính,
trí thông minh, thiên tài của con người.
5).
CÁCH TRẢ NGHIỆP QỦA:
Cách trả
nghiệp báo nhân quả không nhất thiết phải là người mình hại kiếp sau người đó hại
lại mình, mà có thể là một người khác hại mình; tỉ du như ông X hại ông Y, kiếp
sau ông X bị ông Z hại lại giống như ông X đã hại ông Y. Cũng có thể trở thành
người trong gia đình bà con như cha mẹ, con cái, vợ chồng, họ hàng, bạn bè
v.v…để trả ơn báo oán.
Vì quyến
luyến yêu thương hết mức trong tình chồng vợ, một người lại có nghiệp làm Súc
sinh sẽ dễ dàng tái sinh làm một trong những con vật trong gia đình ấy; một người
quyến luyến súc vật, mê thích súc vật đến độ không rời những con vật ấy được, lại
có nghiệp vào Súc sinh, sẽ dễ dàng sinh vào loài mà người ấy đã ưa thích quyến
luyến, làm bạn sống chung với chúng; nếu không có nghiệp phải vào loài Súc sinh
thì không sao, đừng lo.
Nên nhớ,
có sự khác biệt giữa lòng quyến luyến với lòng từ bi, lòng quyến luyến là do ái
dục điều khiển, như tình yêu vợ chồng, cha mẹ, con cháu, anh em, bạn bè, bà
con, nhân tình v.v…Nó sẽ không còn hay mất luôn khi có sự thay đổi. Còn lòng từ
bi là do lòng mong muốn cho vui hết khổ, thương cứu chúng sinh muôn loài hết khổ
được vui. Nó sẽ tồn tại mãi mãi như tình thương đối với kẻ cô đơn tật nguyền
nghèo khổ khốn cùng….
V). HIỆN
TƯỢNG CÁI CHẾT.
(Còn tiếp)
NGHIỆP BÁO NHÂN QỦA
Toàn Không
(Tiếp theo)
V).HIỆN
TƯỢNG CÁI CHẾT:
1). TẠI SAO CHẾT?
Theothế gian chết là do bệnh già chết, bị tai nạn
chết, bị giết chết, tự tử màchết, rủi ro mà chết v.v… Nhưng theo Phật giáo chết
là do:
1. Nghiệphết:
Khinăng lực tái tạo đã cạn thì sinh hoạt
của cơ thể chấm dứt.
2. Hếttuổi thọ:
Nhưgià chết, tuổi thọ dài ngắn tùy
loài.
3.Nghiệp xấu:
Nhưsát sinh làm cho chết yểu, bị giết
hay bị tai nạn chết đột ngột.. v.v…
2). HIỆN TƯỢNG KHI CHẾT: Có ba hiện tượng:
1. Hấp hối:
Nghiệpsắp hết, lúc đó người có ý nghĩ
hoặc tốt hoặc xấu mà trong suốt đời người ấy đãhành động, đều hiện ra tất cả.
Cái nghiệp nào mạnh hiện rõ ràng nhất trước mắt,nó hiện đi hiện lại rất nhiều lần;
nếu không có nghiệp nặng thì nghiệp gần nhấthiện ra, nghiệp gần nhất cũng không
có thì nghiệp thường làm hàng ngày, hoặcnghiệp tích trữ, nghiệp kiếp trước hiện
ra. Nghiệp hiện ra đây là cả nghiệp tốtlẫn nghiệp xấu trong lúc hấp hối sắp chết,
nhưng đa phần đối với người không tuthường thì nghiệp tốt rất ít, phần lớn là
nghiệp xấu đầy rẫy, bởi vậy cần phảitu hành là điều cần thiết nhất.
2. Hiện tượng:
Hiệntượng ở đây dưới hình thức sáu trần
là “sắc, thanh, hương, vi, xúc, và pháp” màngười ấy trong đời sống hàng ngày đã
từng trải qua trong các hoạt động, nghềnghiệp. Như con vật bị bắn, bị bẫy, con
cá bị mắc lưỡi câu đang giẫy chết; convật bị chặt đầu, mổ bụng đối với người săn
bắn, câu cá, đồ tể. Như cảnh giếtchóc, lấy tiền của, dâm dục v.v…đối với người
giết người, trộm cướp, tà dâm,v.v…
3. Biểu hiện cảnh giới:
Lúchấp hối, người ấy cũng thấy cảnh giới
mà người ấy sắp sinh vào. Như thấy cảnhgiới đẹp có cung điện nguy nga lộng lẫy
cõi Trời, nét mặt tươi sáng. Thấy cảnhđẹp cõi Thần, nét mặt tươi; thấy nét mặt
bình thản, trở lại cõi người; sắp vàocõi Súc sinh có nét mặt sợ hãi; sắp vào
cõi Ngạ quỷ có nét mặt buồn; sắp vàocõi Địa ngục có nét mặt sợ hãi xấu xí.
Còncó thể biết sinh về đâu nếu ta thấy điểm nóng
cuối cùng của người hấp hối chếtnằm tại đỉnh đầu về cõi Cực Lạc, nằm tại trán
sinh cõi Trời, nằm tại ngang haimắt sinh cõi Thần, nằm tại vùng tim ngực sinh
lại cõi Người, nằm tại bụng rốnsinh vào Ngạ quỷ, nằm tại đầu gối sinh vào Súc
sinh, nằm tại bàn chân sinh vàoĐịa ngục.
Nếuta quan sát nét mặt người hấp hối và sờ các điểm
ấm các vùng nêu trên, ta cóthể biết được. Nhưng điều quan trọng là hướng dẫn
người hấp hối như đọc Kinh,trì Chú, niệm Phật để dẫn tư tưởng người ấy theo
hướng tốt lành.
Khingưng thở là hết một đời, và một đời sống mới kế
tiếp sẽ khởi sự bắt đầu, nênchết không phải là hết, chết không phải là tiêu
diệt hoàn toàn; dù một kiếpchấm dứt, cái tiềm lực làm sống vẫn còn. Không phải
hoàn toàn giống với chúngsinh đã chết, tuy nhiên không phải hoàn toàn khác, vì
chung một luồng nghiệp.Cũng giống như châm lửa từ một ngọn đèn sang một ngọn
đèn khác, ngọn đèn saukhông phải là ngọn đèn trước, nhưng không có ngọn đèn
trước thì không có ngọnđèn sau vậy. Người chết và người tái sinh cũng giống như
vậy..
VI). CÁC THUYẾT QUAN HỆ NGHIỆP:
(Còn
tiếp)
NGHIỆP BÁO NHÂN QỦA
Toàn Không
(Tiếp theo)
VI).
CÁC THUYẾT QUAN HỆ NGHIỆP:
Mỗi người khi sinh ra không giống nhau về mọi phương diện từ thể xác đến
tinh thần, từ vật chất đến đạo đức, sự thăng trầm của cuộc đời lại muôn phần
sai khác; nguyên nhân của sự khác biệt đó rất sâu xa khó hiểu, vượt khỏi tầm hiểu
biết của người bình thường, nên họ không biết phải trả lời thế nào, không biết
phải giải quyết ra sao. Nên đã có một số lý thuyết được đề ra như sau:
1).
THUYẾT NGẪU NHIÊN:
Một số người giải thích sự khác biệt giữa mọi người là do sự ngẫu nhiên
may rủi. Họ cho rằng mọi người đều có sự may rủi ngẫu nhiên mà có sự khác biệt
giữa người sinh vào gia đình giàu sang qúy phái hay vào gia đình nghèo nàn bần
tiện, do sự ngẫu nhiên mà người này đẹp đẽ thông minh, người kia xấu xí đần độn
v.v…
Nếu công nhận sự ngẫu nhiên rủi ro thì dễ dãi quá, không có một sự lý luận
của bậc trí thức, vì có tính cách buông xuôi; nếu cho là ngẫu nhiên may rủi, tức
không công nhận có đời sống trước, không công nhận có đời sống sau, tức không
công nhận nhân quả. Đời sống chỉ bắt đầu từ lúc sinh ra và đời sống chấm dứt chẳng
còn gì khi thở ra lần cuối, như vậy, những người này sẽ sống vội vã để thụ hưởng
và là những kẻ giành giật làm cho xã hội mất đi sự công bằng, tạo nên khủng hoảng
xã hội, và tội ác sẽ đầy rẫy khắp nơi không thể nào dập tắt được.
Hơn nữa, nếu công nhận ngẫu nhiên may rủi, không thể giải thích được về
trí tuệ của những người có cùng một sở thích sống trong cùng một hoàn cảnh, mà
tính khí người này lại khác với người kia, tại sao vậy? Và thuyết ngẫu nhiên
may rủi không thể giải thích được trường hợp “Thần đồng” cùng trong môi trường
sống của một xã hội nhưng lại xuất chúng về tài năng.
2).
THUYẾT KHỔ HẠNH:
Có người chủ trương chỉ có khổ hạnh mới trừ hết tội lỗi đã gây ra, họ
dùng những cách hành hạ xác thân như tự đánh đập mình, chỉ đứng một chân, phơi
nắng chống tay chổng chân lên trời, nằm trên sỏi trên gai, ăn cỏ v.v… Họ cho rằng
chỉ có khổ hạnh mới diệt hết được nghiệp đã gây và được giảt thoát an vui,
nhưng những người này không biết nghiệp quá khứ họ đã làm gì gây tội. Họ cũng
không biết cần phải tu loại khổ hạnh nào trong bao lâu để dứt khổ và được giải
thoát, họ đã thực hành dựa trên sự không biết, nên chẳng biết kết quả sẽ ra
sao; họ cũng không biết rằng nghiệp báo nhân quả thuộc tinh thần mà họ đầy đọa
xác thân thuộc vật chất, thì làm sao gột rửa được nghiệp báo?
3).
THUYẾT CÓ MỘT THƯỢNG ĐẾ:
Nhiều người tin có một vị Chúa tể của loài người, có uy quyền rộng
lớn, có phép thần thông biến hóa bao trùm hết vạn vật con người. Họ quy trách
nhiệm cho vị Thượng Đế tối cao làm mọi việc mà họ không thể giải thích được. Họ
chỉ cần nói: “Thượng Đế muốn như vậy, mọi người phải tuân theo như vậy,
không có thắc mắc, không được oán trách quyết định của Thượng Đế tối cao. Họ
yên tâm lễ bái cầu xin vị ấy tha tội và ban ơn cho họ được thế này hay thế
khác, chấp thuận hay không là quyền của Thượng Đế. Quan điểm này họ truyền lại
cho thế hệ sau”.
Nhưng có người nói: “Con người trở thành nô lệ cho một vị Thần
linh tưởng tượng đã được dựng lên”. Họ còn nói: “Con người tạo ra Thượng
Đế theo ý của con người và theo hình ảnh của con người, chứ sự thực, không một
vị Chúa tể nào lại có thể đủ thời giờ nhòm ngó vô lượng chúng sanh về mọi vấn đề
trong cùng một lúc ở khắp mọi nơi. Vả lại, đã là Thượng Đế, tức là bậc toàn
giác, toàn trí, toàn năng, toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, sao lại bất công giữa
người này và người kia, tại sao có người sinh vào nơi giàu sang quyền qúy sung
sướng, có người sinh vào chỗ nghèo hèn khổ sở; tại sao có người sinh ra đẹp đẽ
thông minh, có người sinh ra xấu xí ngu đần tật nguyền mù điếc ngọng câm dị
hình dị thể, tại sao có người mạnh khoẻ, sống lâu, có người ốm đau chết yểu, tại
sao Thượng Đế không công bằng như thế?”
Rev. W Kirkus viết trong Orthodoxy Scripture and Reason nơi trang 34: “Rõ
ràng không thể chứng minh một cách chính xác sự hiện hữu của Thượng Đế. Cho đến
nay, hầu hết đều nêu lên ở tiền đề như dẫn chứng, những gì phải được chứng minh
ở phần kết luận…...Ta đi đến chỗ phải nhìn nhận rằng có những tội lỗi xấu xa nằm
trong vũ trụ và điều ấy là trách nhiệm của Thượng Đế, chúng ta không thể phủ nhận
khuyết điểm của Thượng Đế đã cho phép tội lỗi và đau khổ tồn tại”.
4).
THUYẾT CỦA KHOA HỌC:
Các nhà Khoa học dựa vào sư quan sát của năm giác quan để giải thích về sự
chênh lệch giữa người này và người kia. Họ cho rằng sự chênh lệch là do nguyên
nhân vật lý, hóa học, tổng hợp, truyền thống, xã hội.
Nhà sinh lý học Julien Huxley nêu ra những đơn vị sinh lý gọi là “Gene”,
tế bào cực nhỏ có ảnh hưởng đến cấu trúc của cơ thể con người mà họ tìm thấy
trong tinh trùng của người cha truyền cho con. Tế bào cực nhỏ này có ảnh hưởng
đến tuổi thọ, sức khỏe, thông minh con người; tuy nhiên về tinh thần phức tạp,
không thể chứng minh cụ thể, và không thể xác nhận rõ ràng như về thể chất.
Thành ra, giải thích về hiện tượng lý hóa chỉ đúng một phần về thể chất chứ
không đúng hẳn, còn về tinh thần lại càng mù mịt không rõ ràng, vì sao? Vì nhà
Khoa học không thể giải thích được trường hợp hai trẻ sinh đôi có cùng một thứ
gene của cha mẹ, cùng một môi trường như nhau, dù giống nhau nhưng vẫn có điểm
khác nhau; nhất là tính nết mỗi đứa trẻ một khác nhau, tại sao thế? Ngay cả khi
cha hoặc mẹ có một bệnh kinh niên nào đó, khi sinh con hoàn toàn khỏe mạnh
không có bệnh ấy, Khoa học không giải thích được.
Về truyền thống gia đình không thể giải thích được sự khác biệt tính nết
giữa các người trong gia đình nhiều khi trái ngược nhau, cũng không giải thích
được do đâu có những thần đồng, vĩ nhân, mà người trong gia đình của thần đồng
vĩ nhân không có, kể cả các thế hệ trước hay thế hệ sau cũng không có đặc tính
thần đồng vĩ nhân ấy; vì vậy thuyết truyền thống cũng không đứng vững.
5).
THUYẾT CỦA PHẬT GIÁO:
Rất
may có thuyết “Nghiệp báo nhân quả” của Phật giáo giải thích từng
chi tiết tỷ mỉ qua qúa trình nhiều kiếp liên tiếp. Luật nghiệp báo nhân quả là
một chân lý của sự thật, nó tương đương với chân lý về khổ, chân lý về vô thường;
tuy nhiên nó thuộc lãnh vực cao hơn, phức tạp hơn, mà ai hiểu được, thấy được,
người này có đủ chính kiến để sống an vui.
Đức Phật không công nhận thuyết cho rằng có một vị Chủ tể duy nhất toàn
trí toàn năng tối thượng, Phật giáo bác bỏ quan điểm cho rằng có một linh hồn
trường cửu được tạo nên bởi sự ngẫu nhiên và độc đoán. Phật giáo nêu lên định
luật chân lý thiên nhiên, không phải là một đấng Thượng Đế toàn năng hay một Đức
Phật toàn năng tạo nên; theo định luật chân lý thiên nhiên thì mỗi hành động đều
gây nên một phản ứng tương xứng, mà người đời lầm tưởng là một sự ban ơn hay trừng
phạt.
Phật giáo bác bỏ thuyết ngẫu nhiên may rủi, và chỉ công nhận một phần
thuyết về truyền thống và giới thân cận giáo hóa của khoa học mà thôi; Phật
giáo bổ khuyết cho sự thiếu sót bằng luật nghiệp báo nhân quả, tức là tổng hợp
hết các hành động của một người trong qúa khứ và hiện tại. Chính ta phải chịu
trách nhiệm về những hành động của ta mà được an vui hay đau khổ. Chính ta tạo
thiên đường hay địa ngục cho ta, chính ta tạo tương lai cho ta. Không ai có thể
quyết định được tương lai của ta qua các hành vi tạo tác.
Thời Phật còn tại thế, một hôm có một thanh niên đến hỏi Ngài về sự khác
biệt giữa người nọ và người kia, đức Phật trả lời: “Tất cả mọi người đều mang
theo cái nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí
thân, như chỗ nương tựa. Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi người mỗi khác, nên
mới có sự khác biệt giữa người nọ và người kia”.
Do sự khác biệt giữa các nghiệp của mỗi chúng sinh, nên người sống thọ kẻ
chết yểu, người giàu sang kẻ nghèo khổ, người đẹp đẽ thông minh kẻ xấu xí đần độn,
người được tôn trọng kẻ bị khinh khi, người có quyền cao sai bảo kẻ phải hầu hạ
vâng làm v..v…
Chính do nghiệp chuyển mà chúng sanh luân chuyển tồn tại không ngừng trong
sáu cõi. Do nghiệp chuyển mà chúng sinh được tôn vinh sung sướng hay bị chê bai
khổ sở. Do nghiệp chuyển chúng sinh vướng mắc cấu hợp với nhau, xoay vần như
bánh xe quay mãi mãi.
VII).
NGHIỆP CHUYỂN NÊN TÁI SINH.
(Còn
tiếp)
__._,_.NGHIỆP
BÁO NHÂN QỦA
Posted
by: Dinh Ho <___
Posted by: Tien Do
Posted by: Tien Do___
Toàn Không
(Tiếp theo)
VII). NGHIỆP CHUYỂN NÊN TÁI SINH.
Theo khoa
học, con người do cha mẹ sinh ra, nên trước đời sống có đời sống, nhưng khoa học
không thể giải thích người đầu tiên ở đâu ra; đối với Phật giáo chủ trương thời
gian “Vô thủy vô chung” (không có khởi đầu, cũng không có sau
cùng), về không gian “Vô biên” (không gian vô tận, không có biên
giới). Chúng sinh như những dây chuỗi vô tận, chính do hành động tạo nghiệp của
ta trong quá khứ tạo điều kiện tái sinh; chính thần thức mang theo nghiệp gá
vào tinh cha huyết (trứng) mẹ, nên có nguồn sống cho bào thai.
Chính nghiệp lực vô hình từ quá khứ là hiện tượng tâm linh tạo cơ hội cho
“tế bào mầm” nẩy nở phát triển khi đủ nhân duyên; nó là chủng tử là mầm
sống, đừng hiểu lầm đây là linh hồn bất tử, tại sao? Vì nếu là linh hồn bất tử,
nó có quyền lựa chọn chỗ tốt mà đến, không thèm lựa chỗ nghèo nàn khổ sở; còn
thần thức do nghiệp đưa đẩy không có quyền lựa chọn, mà tùy nghiệp thiện ác đã
làm mà phải đến nơi tương ưng lành dữ.
Sự sinh
tử luân hồi giống như quả đất quay quanh mặt trời, lúc mặt trời lặn ở phiá Tây
châu Mỹ, là lúc mặt trời mọc ở phiá Đông châu Á. Nghĩa là một người tắt thở chết,
sẽ có một chúng sinh khác ra đời; nó cũng giống như làn sóng nhấp nhô trên biển
cả, khi chết mất sóng, khi sinh sóng nhô lên. Vô số chúng sinh chết đi sinh ra
nhấp nhô như sóng biển, sinh tử, tử sinh của kiếp sống luân hồi mãi mãi như thế;
chỉ khi nào ái dục bị cắt đứt hoàn toàn, vô minh sạch hết mới không còn tái
sinh nữa mà vào Niết Bàn an vui đời đời; tái sinh ở đây bao gồm cả sáu cõi chứ
không chỉ một cõi Người mà thôi.
1).
DO ĐÂU TIN CÓ TÁI SINH?
Nghiệp tác động tạo
điều kiện để tái sinh, nghiệp qúa khứ tạo điều kiện tái sinh kiếp này, nghiệp
qúa khứ và nghiệp kiếp này tạo điều kiện tái sinh kiếp sau; khi đang thọ quả ta
lại tạo nhân, do đó nhân quả còn mãi mãi.
Trong
các Kinh Đức Phật nói rất nhiều về các kiếp của chính Ngài và nhiều người khác,
nếu chúng ta đọc Kinh sách của Phật giáo sẽ thấy chuyện tái sinh đầy rẫy rất
nhiều; theo dõi báo chí thỉnh thoảng chúng ta cũng thấy nêu lên chuyện có người
nhớ được tiền kiếp của mình. Thiết tưởng chuyện tái sinh hầu như trên thế giới
ngày nay coi như chuyện bình thường, không còn mấy người ngạc nhiên hay thắc mắc
nữa.
Bác
Sĩ Edgar Casey tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ thứ 20 mà nhiều người đã biết, ông
chuyên bắt mạch định bệnh bằng thiền định và dùng mắt thần để nhìn các kiếp trước
của bệnh nhân, mà người ta gọi là dùng “thôi miên” để nhìn xem
người bệnh đã trải qua các kiếp trước như thế nào để định bệnh cho bệnh nhân và
chữa trị trong mấy chục nghìn trường hợp, mà hiện hồ sơ còn được lưu giữ.
Bác sĩ
Edgar Casey có dùng thuốc chữa trị cho bệnh nhân, nhưng rất ít. Ông thường bảo
bệnh nhân tu sửa lối sống, tu sửa nội tâm, và làm việc thiện để tự chữa bệnh.
Những bệnh nhân tin tưởng làm theo đều có kết quả cụ thể. Nhưng có những trường
hợp ông cho biết bệnh không thể hết vì nghiệp qúa nặng, không thể cứu vãn dù có
gia tăng phúc đức hiện tại cũng chỉ được hưởng ở kiếp sau, chứ kiếp này không
thể làm gì hơn được nữa. Cũng như quả ác đã chín mùi rồi phải lĩnh thụ đền trả
nghiệp xưa.
Không
thể giải thích hiện tượng thần đồng, nếu ta không giải thích bằng nghiệp báo
tái sinh luân hồi của một em bé mới hai ba tuổi đã nói được nhiều thứ tiếng ngoại
quốc. Chỉ có thể giải thích rằng em bé kiếp trước đã là người được học nói nhiều
thứ tiếng ngoại quốc mà thôi.
2).
CÁC TRƯỜNG HỢP GÂY NGHIỆP XẤU:
Như đã nói ở trên về các nghiệp ác, chúng ta xét thêm vài trường hợp đặc biệt
gây nghiệp xấu như:
1. Hứa
hẹn:
Hứa hẹn mà không giữ lời hứa, kiếp sau sẽ bị người hứa hão lại, buôn bán gì
cũng thất bại; vậy kiếp này chúng ta hãy tập giữ lời hứa, cố ghi nhớ lời hứa.
Vì hứa là làm cho người hy vọng vào ta, rồi không làm theo lời hứa, tức là làm
cho người thất vọng buồn rầu; hơn nữa, ta nên làm gấp hai gấp ba lời hứa, thì nghiệp
báo đời sau sẽ gấp lên hai ba chục lần, vô cùng tốt đẹp.
2. Phỉ
báng:
Phỉ báng, nói xấu, hay nhục mạ người khác đưa đến kiếp sau làm người thấp hèn,
mắc bệnh lở lói hôi hám xấu xa. Nếu phỉ báng bậc Thánh tội đọa Địa ngục, Ngạ quỷ,
Súc sinh; khi được trở lại làm người là người bị một trong bệnh tật: méo miệng,
sứt môi, câm, ngọng, cùi hủi. Muốn tránh những quả báo ấy, chúng ta nên hướng tâm
về Chư Phật và Chư Bồ Tát khởi lên niềm tôn kính vô biên, chúng ta cũng nên có
tâm thương yêu kính trọng mọi người; ngoài ra đối với mọi loài, chúng ta cũng
trải lòng thương vô bờ bến, phúc đức dần dần sẽ tới với chúng ta vô lượng vậy.
3). NGHIỆP QỦA TÁI SINH
CÓ THỂ GIẢI THÍCH:
Thuyết
nhân qủa nghiệp báo và tái sinh có thể giải thích như sau:
1. Sự khác biệt giữa
người nọ và người kia.
2. Sự xuất hiện của
thần đồng và vĩ nhân.
3. Hai trẻ sinh đôi
có cá tính khác biệt.
4. Trẻ con tự nhiên
có tật xấu như tham, sân, si v.v…
5. Mỗi người đều có
tính xấu và tính tốt.
6. Có người sung sướng,
có người đau khổ …
7.Người sinh trong
nhà nghèo, người sinh trong nhà giàu.
8. Người sinh ra
khuyết tật, người sinh ra nguyên vẹn.
9. Có người chết yểu,
có người sống thọ. v.v…
VIII). HÓA GIẢI NGHIỆP XẤU:
(Còn tiếp)
NGHIỆP
BÁO NHÂN QỦA
Toàn Không
(Tiếp theo)
VIII). HÓA GIẢI NGHIỆP XẤU:
Một số
người lầm tưởng chỉ cần tu thiền định hay niệm Phật, không cần để ý đến mười điều
lành (là ba điều về thân, bốn đều về miệng, và ba điều về ý) phải thực hành,
hay giữ năm giới. Nếu không giữ gìn sẽ không dễ dàng yên ổn để tu Thiền hay Tịnh,
mà bị các nghiệp quấy phá như nghèo túng phải làm việc cực nhọc, bệnh hoạn, ngứa
ngáy, buồn ngủ, tê chân ngồi thiền không được v.v… và bị sống trong không tiện
lợi cho việc tu hành. Ngoài việc giữ giới, hóa giải nghiệp xấu còn có:
1).
LÀM CÁC VIỆC THIỆN: Như:
1. Bố thí với tâm trong sạch,
không ganh tị, không khoe khoang hẹp hòi; bố thí thể hiện chân thật của tình
thương, không ở miệng lưỡi, mà ở cử chỉ và hành động.
2. Phóng sinh chim,
cá, ốc, cua, tôm, sò, hến, v.v… hóa giải ngục tù, hóa giải mạng sống đang bị đe
dọa bởi bệnh nan y. Người không nghiệp sát sinh, mà phóng sinh được hưởng sự
bình an lại sống thọ, không bị bức bách bởi bệnh khổ.
3. In Kinh sách Phật hoặc góp phần in
Kinh sách Phật sẽ tạo công đức rất lớn lao.
4. Đã có vị Thầy chữa
bệnh
nan y bằng cách yêu cầu bệnh nhân viết mười điều lành trên mười tờ giấy, rồi bệnh
nhân đưa cho mười người thân hữu, mỗi người cũng làm tương tự như thế để có 100
người thực hành mười điều lành để hồi hướng công đức làm lành ấy cho người bệnh.
Người bệnh đã giải trừ được bệnh nan y do nghiệp ác gây ra, và còn có lợi về
lâu về dài của 100 người ấy nữa.
2).
DUYÊN HỖ TRỢ VÀ CẢN TRỞ NGHIỆP:
1. Duyên hỗ trợ: Làm cho nghiệp qủa
dễ sinh, thuận lợi cho quả trổ. Như sinh vào gia đình giàu có tiền của làm cho
quả lành dễ phát sinh, vì được ăn học nên đỗ đạt hiển vinh v v…
2. Duyên cản trở: Làm cho nghiệp báo
không phát ra được. Như sinh vào gia đình nghèo quả lành không phát sinh được,
vì không tiền ăn học, nên không đỗ đạt hiển vinh, khó giàu có được v.v…
Dung mạo
cũng là yếu tố quan trọng làm cho một người thành công hay thất bại, một người
đẹp đẽ tuy nghèo nhưng vẫn được cảm tình của những người khác; ngược lại một
người xấu dễ gây ác cảm với người đối diện.
Dù không
hoàn toàn lệ thuộc nghiệp, nhưng ta cũng không hoàn toàn làm chủ được mình; những
yếu tố trợ duyên hay phản duyên sẽ ảnh hưởng đến nghiệp do sự tái sinh. Do nghiệp
hỗ trợ hay nghiệp cản trở, mà có thể một người làm ác khi chết sinh vào chỗ tốt
lành, một người làm thiện khi chết sinh vào chỗ dữ. Khi gặp sự gì xảy đến,
chúng ta phải nhận định rằng mình đang gặt quả mà mình đã gieo, đang hưởng hay
trả nợ trong qúa khứ; nhưng chúng ta không nên hưởng hết phúc cũ mà phải tạo
thêm phúc mới; chúng ta cũng phải cố gắng diệt trừ nợ xấu bằng cách gieo giống
tốt để có tương lai tốt đẹp.
IX).
NGHIỆP KHÔNG PHẢI ĐỊNH MỆNH:
Nguyên
nhân sự chênh lệch khác biệt giữa người này và người kia là do nghiệp, nhưng
không phải hoàn toàn như vậy. Nếu tạo nghiệp gì phải chịu quả ấy cũng giống như
thuyết “Định mệnh an bài”, mọi sự đã được định sẵn, có sẵn số phận,
không thể thay đổi được. Tất cả phải tuân theo, tất cả phải gánh chịu theo “Số
mệnh”, không một ai được tự mình cải thiện đời sống hiện tại và tương
lai của mình.
Nếu tin
vào một vị Chủ tể có toàn quyền định đoạt số phận của ta, và ta phải tuân theo,
cũng giống như tin rằng Nghiệp tạo ra số phận của ta, ta phải tuân theo không
thể chống cãi lại được; tuy nhiên thuyết nghiệp báo nhân quả của Phật giáo
không phải với ý nghiã cứng ngắc như thế. Tại sao? Vì tùy vào nhân duyên liên quan
để phát triển nhân quả như sau:
1- Môi trường: Nhân duyên liên
quan đến môi trường như thời tiết nóng lạnh, nắng mưa, bão tuyết v.v…
2- Vật thể: Nhân duyên liên
quan đến vật thể là giống nào có dòng ấy như hột lúa sinh cây lúa, hột cam sinh
cây cam v.v…, việc này liên quan tới tế bào cực nhỏ (gene) mà các nhà khoa học
đã khám phá ra.
3- Hành động: Nhân duyên liên
quan đến hành động thiện hoặc ác đưa đến quả báo lành hoặc dữ. Đây là luật tự
nhiên, chứ không phải là thưởng hay phạt, mà nhiều người lầm tưởng có bàn tay của
một vị Tối cao.
4- Hấp lực: Nhân duyên liên quan
đến hấp lực trong vũ trụ, sức hút của mặt trời, trái đất, mặt trăng v.v… hấp lực trong vũ trụ
ảnh hưởng đến mọi vật mọi hiện tượng.
5- Tâm thức: Nhân duyên liên
quan đến tâm thức như thần giao cách cảm, tâm lực, huệ nhãn, huệ nhĩ, tha tâm
thông v.v… mà khoa học chưa giải thích được.
Do năm
nguyên tắc trên, Phật giáo có thể giải thích tất cả các hiện tượng vật lý, sinh
lý, và tâm lý trong vũ trụ. Năm nguyên tắc trên không do một oai lực thiêng
liêng nào tạo nên cả.
Đúng là
làm thiện hưởng quả lành, làm ác hưởng quả dữ, nhưng không hẳn đúng là như vậy;
nếu ta biết rằng ta đã làm ác, và ta cố ý tạo việc thiện khác để hóa giải làm dịu
nghiệp lực ác; chúng ta có đủ năng lực để chuyển cái nghiệp ác thành vô hiệu,
nhiều hay ít là tùy ta làm được nhiều hay ít việc thiện. Nó tùy thuộc ở ta và
hành động thiện của ta, do đó ta sẽ không bị nghiệp trói buộc như “Định mệnh,
số phận an bài”, hay “Tiền định” do một oai lực huyền bí định
đoạt mà ta không thể sửa đổi được
Ta phải
đặt tất cả lòng tin nơi ta, tạo an vui cho ta và cho tất cả. Tin tưởng sự tinh
tấn nơi ta, không đặt lòng tin nơi nào khác, vì chỉ có ta mới mang lại hạnh
phúc cho ta mà thôi. Chính ta là người xây dựng hay phá đổ tương lai của ta,
chính ta tạo thiên đường cho ta, và cũng chính ta tạo địa ngục cho ta, hoàn toàn
tùy thuộc nơi ta; chính những ý nghĩ, lời nói, việc làm của ta đưa đến nghiệp
quả tốt xấu cho tương lai của ta.
Bởi vậy
sự cố gắng làm lành tránh làm ác của mỗi người là quan trọng hơn cả, vì ta có
thể tạo nghiệp tốt để chuyển đổi nghiệp cũ xấu, tạo hoàn cảnh mới thuận tiện;
khi có hoàn cảnh để trợ duyên mà không cố gắng, tức bỏ lỡ cơ hội, lúc quả dữ tới
dịp phát tác là ta mất cơ hội tốt rồi.
X). KẾT LUẬN VỀ NGHIỆP QỦA.
(Còn tiếp)
NGHIỆP BÁO NHÂN QỦA
Toàn Không
(Tiếp theo)
X). KẾT
LUẬN VỀ NGHIỆP QỦA.
Nghiệp báo nhân quả là con đường vô hình, không thấy, nên nhiều người không
tin. Đúng, vì chúng ta không mắt thấy tai nghe, và chỉ khi nào mắt thấy tai
nghe chúng ta mới tin. Nhưng, qua lịch sử đã chứng minh, có những sự mắt thấy
rõ ràng mà lại sai lầm. Như hồi thế kỷ thứ mười sáu tại Âu châu, người ta thấy
rõ ràng mặt trời và tất cả tinh tú quay quanh trái đất. Mặt đất trông như một mặt
phẳng, nên mọi người bảo là chỗ chúng ta ở là trung tâm vũ trụ, tất cả mặt trời,
mặt trăng, và các tinh tú có nhiệm vụ xoay vòng chung quanh nó v.v…
Vì vấn đề này, nên đã làm khổ một số người, trong đó có các nhà khoa học vì đã
nói rằng: “Không phải như thế, mà đất là một qủa cầu, và quả đất quay
quanh mặt trời”. Nhưng họ cho rằng đó là lời của “tà giáo dị giáo”,
vì không đúng với mắt họ thấy và nhất là đi ngược lại Kinh sách của họ nên một
số người đã bị họ giết hại; phải đợi mãi vài trăm năm về sau mọi người mới tin
các nhà khoa học đúng, thì đã lỡ muộn mất rồi!
Đây là vật chất, vật thể, nhìn thấy được, mà còn nhìn sai, huống là vô hình
không thấy như nghiệp báo nhân quả; nhưng chúng ta yên tâm tin tưởng vì đã nói
ra bởi Đức Phật, một bậc toàn giác, biết tất cả sự thật trong vũ trụ; lại nữa
biết bao nhiêu trường hợp của những người nhớ được kiếp trước nên đã chứng minh
nghiệp báo nhân quả tái sinh là có thật.
Một vấn đề được đặt ra, đó là có người cả đời hiền lành lại hay bị tai
ương, đời sống ngắn ngủi, như bị tai nạn, nước, lửa, thiên tai, hay bệnh rồi phải
qua đời, tại sao? Vì nghiệp qúa khứ thường do từ sát sinh, qúa nặng. Đáng lẽ phải
trả trong ác đạo, nhưng vì một nghiệp thiện nào đó người này đã không bị đọa
vào cõi dữ, và đời này ăn ở đạo đức nhưng vẫn bị tai ương chết yểu. Đó là do
nghiệp nặng cũ hoành hành, nếu người ấy không ăn hiền ở lành, còn bị nặng hơn nữa.
Nhờ có đạo đức nên đã vơi đi phần nào, và kiếp sau sẽ được giàu sang tốt đẹp
hơn; còn kẻ làm ác lại nhởn nhơ khỏe mạnh giàu có, vì họ hưởng phúc từ đời trước;
đã hưởng hết phúc lại tạo ác, đời sau chắc chắn họ sẽ phải sống đời tương ưng
trong khổ sở; vì vấn đề phức tạp này của nghiệp báo nhân quả, mà nhiều người
không hiểu, không tin.
Trong một nước, người đứng đầu rất quan trọng, cũng như một đàn trâu rừng,
con đầu đàn hướng dẫn đàn trâu lội qua một khúc sông khúc suối. Nếu nó biết lựa
chọn, nó quan sát kỹ càng lựa chỗ tốt để dẫn cả đàn trâu qua một cách êm xuôi dễ
dàng. Nếu nó không biết quan sát lựa chọn, nó sẽ dẫn đàn trâu vào nguy hiểm như
bị nước cuốn, ghềnh đá mấp mô, hoặc gặp đàn cá sấu giết hại ăn thịt. Người đứng
đầu một nước, một vùng, một khu cũng vậy, phải đủ đức tính của một người lãnh đạo
như thông minh, biết nhiều, khỏe mạnh, đạo đức; lại biết thương dân, vì dân,
công bằng, liêm chính, biết dùng người tài giỏi trong mỗi ngành chuyên môn
v.v….Người lãnh đạo còn phải sống gương mẫu cho người dân bắt chước sống theo,
từ thái độ sống của người dân sẽ ảnh hưởng đến đời sống vui khổ của họ.
Tóm lại, Đức Phật dạy:
“Nếu
nói người nào làm nghiệp gì phải chịu quả báo cố định như thế, nếu sự kiện đúng
như vậy thì không có sự tu hành, không có cơ hội để đoạn diệt đau khổ.
Nếu người gây nghiệp thế nào tức là có tội thế ấy, nếu như vậy thì có sự tu
hành, có cơ hội để diệt đau khổ; ở đây, có người không tu tập về thân, về giới,
về tâm, vị kỷ (vì mình), nhỏ nhen; người như vậy, dù có làm nghiệp ác nhỏ cũng
đủ đưa vào Địa ngục.
Còn người có tu tập về thân, về giới, về tuệ, không vị kỷ, không nhỏ nhen; người
như vậy dù có làm việc ác nhỏ tương tự, ngay trong hiện tại, một chút khổ báo
cũng không có, huống là nói nhiều ư?
Ví như bỏ một nắm muối vào một bát nước nhỏ, nước đó sẽ mặn, còn bỏ nắm muối
vào một dòng sông, nước sông không thể mặn được; sự kiện là như vậy, có tu hành
là có cơ hội diệt khổ”.
Nhân quả nghiệp báo là có, nhưng nếu tu hành giữ giới làm lành tránh ác, nghiệp
ác sẽ rửa được; cho tới khi tu hành đắc đạo, nghiệp báo sẽ hết luôn; mọi người
từ vô thủy tới giờ đã tạo biết bao nhiêu tội lỗi, gây biết bao nhiêu nghiệp chồng
chất. Vì thế cho nên, kể từ ngày hôm nay ta bắt đầu làm nhiều việc thiện, giữ giới
trong sạch từ thân miệng ý đều phải kiểm soát trong mỗi ngôn ngữ cử chỉ hành động;
đó là ta bắt đầu tích chứa đầy nước công đức trong một dòng sông, dù nghiệp ác
cũ có nhiều nặng như cả tấn muối cũng không thể làm mặn một dòng sông đầy nước
công đức.
Nghiệp báo nhân quả là căn bản cho đời sống con người. Nếu mọi xã hội đều
được giảng dạy môn “Nghiệp báo nhân quả”, nó bao gồm cả “Đạo
đức học” và “Xã hội học”. Chúng ta không còn phải giáo huấn
các tù nhân, chỉ còn ít người phạm pháp, không cần nhiều nhà tù, không cần nhiều
người trông coi gìn giữ trật tự nữa v.v…, vì các thế hệ trẻ hiểu được luật nghiệp
báo nhân quả rồi sẽ cố gắng làm lành tránh ác. Dần dần tới khi mọi người đều hiểu
được sự lợi ích của làm thiện, và sự tai hại của việc làm ác, sẽ đều làm mười
điều lành một cách tự nguyện tự giác; lúc bấy giờ thế giới này sẽ là thế giới
an lạc vậy., .
__._,_.___
__._,_.___
__._,_.___
__._,_.___
__._,_.___
No comments:
Post a Comment