Popular Posts

Thursday, April 30, 2020

TRÍ HUỆ


TRÍ HUỆ
Toàn Không 
1). TRÍ HUỆ LÀ GÌ? 
   Trí Huệ: Do chữ Nam Phạn (Pali) “Panna” chữ 
Bắc Phạn (Sancrit) “prajna”, là hiểu rõ sự lý cùng tột, 
là Bát nhã, là trực nhận tánh không, là giác ngộ, 
là “Trí biết tục đế, Huệ thông chân đế”. Có thể nói 
Trí là thể tính sáng suốt trong sạch, Huệ là cái sáng 
chiếu soi, Trí Huệ rộng lớn (Ba La Mật) là thể tính 
sáng suốt soi sáng một cách tinh tường không thể 
nhầm lẫn; Trí Huệ là sự hiểu biết siêu việt cùng tột, 
là Giải thoát. 
2). TẠI SAO CẦN CÓ TRÍ HUỆ? 
   Con người sống từ vô thủy tới nay luôn luôn si mê 
nên mới khởi tham sân tà kiến, tạo biết bao nhiêu 
đau khổ cho mình, cho người và chúng sanh; đó là 
đầu mối của vô minh, do vô minh sinh ra ý nghĩ các 
điều sai trái, miệng nói những lời điên đảo, thân làm 
các việc động trời. Vì thế bị trôi lăn trong sáu cõi, 
chịu biết bao khổ đau; muốn hết đau khổ, người 
Phật tử phải hết si mê, muốn dứt si mê phải tu để 
có Trí Huệ. Khi có trí huệ sẽ hết vô minh, hết vô 
minh sẽ không còn có ý khẩu thân điên đảo; ý 
khẩu thân không điên đảo sẽ không còn tạo nghiệp, 
không tạo nghiệp sẽ không còn sinh tử luân hồi tức 
là Giải thoát, bởi thế chúng ta cần có Trí Huệ là vậy. 
3). TRÍ HUỆ KHÁC TRÍ TUỆ RA SAO? 
   Trí Tuệ là danh từ thường dùng trong đời sống con 
người, Trí Tuệ được hiểu như là sự thông minh sắc bén, 
hiểu biết tinh mẫn, thông minh linh hoạt. Trí Tuệ là của 
bộ óc tìm tòi phát minh sáng chế theo suy luận, v.v…
   Chúng ta không nên hiểu lầm Trí Tuệ của thế gian 
cũng giống như Trí Huệ của Phật giáo, vì Trí Tuệ của 
thế gian chỉ có thể như các nhà Khoa học, Triết học, 
Bác sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư, Bác học v.v…  có kiến thức 
hiểu biết về một lãnh vực nào đó, chứ không thể 
là bậc đã đạt đạo có Trí Huệ thấy biết như thật cùng 
khắp vũ trụ vạn vật, có đủ Ba minh, Bốn trí, Sáu thần 
thông, Năm nhãn v.v…của bậc Thánh.
   Muốn đạt Trí Tuệ cần phải học hỏi suy nghĩ, nghiên cứu 
thí nghiệm, nghiền ngẫm lý thuyết; muốn đạt Trí Huệ 
cũng cần học hỏi nghiên cứu, nghiền ngẫm giáo pháp, 
và còn đi xa hơn nữa, đó là “Hành trì”, “Thiền định”; 
nếu muốn dùng chữ Trí Tuệ, chỉ được coi như những 
người thông minh học nhiều nhớ giỏi, chứ chưa phải 
là người đạt Trí Huệ đạt Giác ngộ tức Giải thoát. 
   Dù trong nhận thức trực tiếp hay trong suy luận người 
có Trí Huệ sẽ luôn luôn đúng, trong khi người có Trí Tuệ sẽ 
có khi đúng có khi sai. Do đó chúng ta thấy rõ sự khác 
biệt giữa Trí Huệ và Trí Tuệ. 
4). CÓ MẤY LOẠI TRÍ HUỆ? Có hai loại:
A). CĂN BẢN TRÍ:
     Là Giác tính minh diệu mà mọi chúng sanh đều có sẵn, 
nhưng bị vô minh che lấp nên chưa xuất hiện; thí dụ như 
chất vàng lẫn trong quặng đất sỏi đá, như mặt trời bị che 
bởi sương mù về mùa đông. 
B). HẬU ĐẮC TRÍ:
     Là Trí Huệ có được nhờ công phu tu tập, ví như vàng 
đã được lọc luyện từ quặng đất sỏi, vàng không còn lẫn lộn 
với bất cứ chất gì khác; người tu hành đến khi hết vô minh 
phiền não, Trí Huệ hiện ra. 
   Tuy phân ra hai loại nhưng chỉ là một, cũng như một thứ 
vàng; sau khi tu đạt Hậu đắc trí tức Trí Huệ hiện, các thức 
được chuyển biến thành các trí như sau: 
1. Thành sở tác trí:
     Năm thức Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân trở thành trong sạch 
không còn một tí gì bợn nhơ của Năm trần là Sắc, Thanh, 
Hương, Vị, Xúc, nghĩa là không còn vẩn đục bởi phàm trần. 
Tâm hành giả: như hồ nước trong lặng không gợn sóng, 
lúc đó năm thức biến thành “Thành sở tác trí”; nghĩa là năm 
giác quan của chúng ta trở thành có năng lực thần diệu kỳ 
bí, chứ không còn là giác quan của kẻ phàm phu chỉ nhận 
biết một cách hạn hẹp mà thôi. 
2. Diệu quan sát trí:
     Thức thứ sáu, Ý thức là thức góp ý nhận biết cho 
Năm thức nêu trên, thức này làm việc suốt ngày đêm 
không ngưng nghỉ. Ban ngày suy nghĩ tưởng nhớ hết 
việc này qua chuyện khác, lo lắng buồn khổ, hân hoan 
sung sướng v.v…, ban đêm khi ngủ mộng mơ đủ cả. 
Khi tâm viên ý mã (tâm ý  như khỉ ngựa) ấy đã được 
cột lại một chỗ hết đường cựa quậy qua sự tu hành rồi, 
thức này chuyển thành “Diệu quan sát trí” có công năng 
quan sát thâm diệu cùng khắp. 
3. Bình đẳng tính trí:
     Thức thứ bảy Mạt Na là thức tự ý thức về chính mình, 
ô nhiễm cho rằng mình có một cái ta, Mạt Na phân biệt 
chủ thể khách thể tạo nên ý thức nhị nguyên chấp ngã (ta) 
nhân (người) chúng sanh (muôn loài). Năm giác quan cùng 
Ý thức báo cho Mạt Na thông tin từ bên ngoài, chính Mạt Na 
là kẻ đánh giá và ra lệnh cho sáu thức kia phản ứng hành động, 
đồng thời Mạt Na lại đưa tất cả các cảm giác (chủng tử) vào 
A Lại Da là Thức thứ tám. Khi tu hành phá vỡ tan tành chấp 
tướng ngã nhân của Mạt Na thì nó chuyển thành “Bình đẳng 
tánh trí”, nghiã là Trí Huệ này có năng lực nhận thức chân thật 
về tính bình đẳng vô ngã trong muôn pháp. 
4. Đại Viên cảnh trí: 
     Khi cảm giác của tất cả các hoạt động của Năm căn và 
Ý thức được Mạt Na đưa vào A Lại Đa, thức này có nhiệm 
vụ giữ gìn tất cả các tin tức ấy, gọi là chấp trì sinh mạng 
chủng tử. Khi tu hành đạt đến địa vị Vô lậu (không còn ô 
nhiễm), thức này chuyển thành “Đại Viên cảnh trí”, tức là 
thành cái Trí Huệ sáng suốt trong sạch như chiếc gương 
khổng lồ tròn đầy trong sạch soi chiếu cùng khắp, tương 
ưng cho chân tâm chân như Phật tánh. 
5). LÀM SAO CÓ TRÍ HUỆ?
(Còn tiếp)






 
TRÍ HUỆ
Toàn Không
(Tiếp theo) 
5). LÀM SAO CÓ TRÍ HUỆ? 
   Muốn có Trí Huệ, Đức Phật đã dạy tám vạn bốn nghìn 
pháp môn tu, người Phật tử có thể chọn bất cứ pháp môn 
nào thích hợp với mình để tu hành, đều có thể đạt được 
Trí Huệ tức là Giải thoát. Tuy nhiên, căn cứ Duy thức học, 
sau khi tu theo Duy thức, khi hành giả đạt Trí Huệ sẽ có 
Bốn trí nêu trên; ngoài ra, trước khi tu chúng ta cần tìm hiểu 
nghiên cứu cho tường tận, không còn một điều gì nghi ngờ 
khó hiểu. Rồi còn phải suy gẫm xem pháp môn tu có thích 
hợp với mình không, có những trở ngại gì cần phải vượt qua, 
nghiã là hành giả phải hiểu biết pháp môn mình sẽ tu. Sau 
khi đã hiểu rõ pháp môn tu, hành giả mới bắt đầu tu tức là thực 
hành; khi đã thực hành rồi, phải tinh tấn chuyên cần không 
ngưng nghỉ không gián đoạn, kiên cố thực hành sẽ có ngày đạt 
Trí Huệ, tức là Giải thoát. 
6). CÔNG NĂNG CỦA TRÍ HUỆ RA SAO?      
     Như trên đã nói, Tám thức chuyển thành Bốn trí, Bốn trí 
có công năng diệu dụng vô cùng rộng lớn, khó mà diễn tả hết 
được, nhưng có thể nêu ba công năng như sau: 
1. Khi Trí Huệ phát sinh thì phiền não hết, như ánh sáng phát 
ra thì bóng tối không còn nữa. 
2. Khi Trí Huệ khai mở chiếu soi sự vật, sẽ thấy rõ thực thể bản 
chất, thực tướng của vạn vật đều được phơi bày. 
3. Khi Trí Huệ bừng sáng thấy rõ tâm cảnh đều là Chân Không, 
nên thể nhập được Chân lý, tức là Giác ngộ vậy. 
7). TRƯỜNG HỢP THỂ HIỆN TRÍ HUỆ: 
     Trong bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển 1, trang 312 viết: 
Một thời, Tôn giả Đại Ca Chiên Diên, đại đệ tử của Đức Phật 
Thích Ca, dẫn một số đông đảo Tỳ Kheo đi du hóa đến nước 
Bà Na. Khi Tôn giả đang ở bên một bờ hồ, có Trưởng lão Bà 
la môn tên Thượng Sắc dẫn một số đông đảo đệ tử đến gặp, 
Sau khi chào hỏi xong, vị Trưởng lão nói:
- Như Ca Chiên Diên đây nói là người tu hành, nhưng không 
hành đúng pháp luật của người tu, vì Tỳ Kheo trẻ tuổi mà không 
làm lễ các bậc trưởng thượng cao đức Bà la môn của chúng tôi. 
   Tôn giả Ca Chiên Diên trả lời:
- Các vị Bà la môn nên biết, Đức Phật Thích Ca thuyết hai địa vị, 
một là địa vị già cả, hai là địa vị trai tráng. 
   Bà la môn hỏi:
- Thế nào là địa vị già cả, thế nào là địa vị trai tráng? 
   Tôn giả đáp:
- Cho dù người tuổi sáu mươi, bảy mươi, tám mươi, mà không 
dừng được ái dục tham sân si, làm các việc ác, chấp chặt các 
việc ở đời; người này tuy có thể bảo là già, mà thực ra họ ở 
địa vị trai tráng. 
   Còn người tuổi độ hai mươi, ba mươi, bốn mười, năm mươi; 
người ấy chẳng tập quen dâm dục, sạch hết tham sân si, chẳng 
chấp việc đời, cũng chẳng làm các hạnh ác, đó là người trai tráng 
ở địa vị già cả. 
   Ba la môn lại hỏi:
- Trong đại chúng của ông có một Tỳ Kheo nào không hành ái 
dục, chẳng tạo hạnh ác chăng? 
   Tôn giả trả lời:
- Trong đại chúng của chúng tôi đây không có một Tỳ Kheo nào 
ái dục tập dục, không có một Tỳ Kheo nào làm hạnh ác cả; tất 
cả Tỳ Kheo đây, người nhỏ nhất cũng đã thấy dấu đạo, vì sao? 
Vì Tỳ kheo nhỏ nhất cũng đã đạt qủa vị Tu đà hoàn, một qủa vị 
trong bốn qủa vị của bậc phạm hạnh là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, 
A na hàm, và A la hán. A la hán là bậc đã sạch hết các nhơ bẩn, 
có Trí Huệ đầy đủ, và đã thoát ra khỏi cảnh khổ sinh tử luân hồi. 
   Bà la môn nghe nói như vậy, liền đứng dậy vái và nói:
- Các ông tuổi trai tráng mà ở địa vị già cả, thật qúy hóa thay, 
còn tôi già cả mà còn ở địa vị niên thiếu, thật đáng trách; rồi Bà 
la môn nói tiếp:
- Xin cho con được quy y Ngài. 
   Tôn giả nói:
- Ông chớ quy y tôi, ông nên quy y nơi bậc mà tôi đã quy y. 
Ngài là bậc Chính Đẳng Chính Giác, là bậc Đại Trí Huệ, là Thầy 
của Trời và Người, là Như Lai, Phật. Ngài đã nhập Niết Bàn mất rồi! 
   Trong khi nói, Tôn giả quỳ hướng về nước Câu Thi nơi Đức Phật 
nhập diệt mà vái lạy, Bà la môn thấy Tôn giả lạy, nói như thế thì thưa:
-  Nếu Như Lai còn ở đời, con không quản ngại đường xa đến kính lễ, 
nay Như Lai đã Nhập Niết Bàn, con xin quy y Phật, Pháp và Chúng Tỳ Kheo. Xin Ngài chấp nhận cho, con sẽ học hỏi và tuân hành theo các lời Ngài dạy. . .
 (Còn tiếp)


__._,_.___

Posted by: Tien Do 

Wednesday, April 22, 2020

HUYỀN THOẠI GIẢ TẠO TỪ TRUYỆN NGẮN "THẰNG KHÙNG"


HUYỀN THOẠI GIẢ TẠO TỪ TRUYỆN NGẮN

"THẰNG KHÙNG"



Thằng Khùng (Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH) là một điển hình về những trò bịp bợm hết sức gian trá, trơ trẽn của Hội Đồng Giám Mục Thiên Chúa Gíao Việt Nam. Tôi thực sự không hiểu ông Nguyễn Tuân, người kể lại câu chuyện về Thắng Khùng Chính Vinh cho nhà văn Phùng Quán viết lại để làm gì trong khi ông Nguyễn Tuân là một người có trinh độ để đọc Candide, Voltaire, bản thân ông ta cũng là một nhà văn. Không hiểu cái tên Nguyễn Tuân này có thật hay không hay đây chỉ là một trò tá danh để quảng cáo?. Vấn đề nữa là truyện Thằng Khùng có đúng của Phùng Quán hay không? Hay chỉ là mượn đỡ danh tiếng và uy tín của nhà văn từng đi tù trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm cho câu chuyện thêm phần giá trị?.
Tất nhiên những câu hỏi này chỉ có Tổng Gíao Phận Hà nội và Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã Việt Nam là nhóm quyết định quảng bá bài viết và thực hiện âm mưu bịp bợm biến "thằng khùng" trong truyện hư cấu của Phùng Quán thành ông Gioan Lasan Nguyễn văn Vinh mới đủ thẩm quyền trả lời trước công luận.
Như chúng tôi trình bày, toàn bộ sự việc này khởi đi từ một truyện ngắn của nhà văn Phùng Quán đây là câu chuyện hư cấu xảy ra ở một nơi tuy không có địa danh nhưng qua tình tiết của câu chuyện không gian và thời gian cho người đọc thấy diễn biến sinh hoạt  của nhân vật đang ở trong một nhà tù vùng trung du có đồng ruộng để cày cấy canh tác, có sông bãi tức là dòng sông khá lớn nếu không muốn nói rất lớn. Trại tù có những điều kiện như thế ở miền Bắc chỉ có thể là trại Tân Lập, nếu đi từ Hà Nội người ta phải xuống xe hỏa ở ga Ấm Thượng, đi vào vùng A Mai, vượt qua bến đò Ngọc mới đến K1 trại chính. Thời gian xảy ra cái chết của nhân vật Thằng Khùng vào khoảng cuối đông năm 1971 vì theo Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã Việt Nam thằng khùng đó là một linh mục có tên là Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh được miêu tả như một "thánh tử đạo" như lời thiệu sau đây (THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài. Phùng Quán viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân - không phải là nhà văn có cùng tên - khi cùng ở trong tù).

Trò bịp này hoàn toàn thành công vì tác phẩm "Thằng Khùng" kèm theo tiểu sử linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh được quảng cáo trên toàn bộ các website thuộc giáo hội Thiên Chúa Gíao , lan sang các website khác. 
Khi chúng tôi, Kim Âu đọc được huyền thoại bịp này, không thể nào chúng tôi im lặng, tuy chưa từng gặp ông Chính Vinh nhưng chúng tôi được biết qua lời kể của Biệt Kích Hoàng Ngọc Chính vì anh ta đã ở sát với linh mục Vinh khi ở trại Yên Thọ, Yên Bái, năm 1969 và nhóm Biệt kích đó và linh mục Vinh cùng chuyển lên Trại Cổng Trời.

Linh mục Vinh sống và chết ở trong khu biệt giam trại Cổng Trời, Quyết Tiến, Hà Giang với những điều kiện thời tiết, cảnh trí, không gian, sinh hoạt hoàn toàn không giống một chút nào với trại tù nơi nhân vật "Thằng Khùng" của nhà văn Phùng Quán bệnh chết và Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã Việt Nam dọn chỗ để tạo dựng lên huyền thoại Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh.
Trại Quyết Tiến ở Cổng Trời không có dòng sông lớn nào, trại đóng trên triền núi khá bằng phẳng của một đỉnh núi cao vùng Cổng Trời - Quản Bạ. Quanh khu vực trại chỉ có những khe suối nhỏ nên không thể có một dòng sông, bến tắm trâu và bãi cát như đoạn văn dưới đây trong truyện "Thằng Khùng":

TRÍCH

"Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông."

HẾT TRÍCH


Trại Cổng Trời cũng có vài con trâu nhưng không thể nuôi trâu trên trại chính vì trại quanh năm mây phủ, quá lạnh vì thế trại có mấy gian nhà ở cây số ba mươi dưới chân núi, cách trại khoảng 10 cây số đường xe hay khoảng một tiếng rưỡi đến hai tiếng đi bộ bằng đường tắt theo kiểu leo núi, khu vực chân núi là một vùng khí hậu ấm  áp khác hẳn. Nhưng vào mùa đông, mấy con trâu cũng phải mặc áo tơi và sưởi lửa tử tế, nếu không chúng sẽ lăn quay ra chết trở thành khẩu phần bồi dưỡng cho tù. Những tù nhân được cho vào đội chăn nuôi này đều thuộc thành phần phạm cán, phạm binh ở mấy tỉnh vùng thượng du. Cho tới khi chúng tôi xuống núi năm 1978 khi trại đóng cửa, xóa sổ hoàn toàn; tù chính trị không bao giờ được đưa vào đội này.

Trại Cổng Trời chỉ xây cất đủ chỗ cho khoảng tối đa 240 tù nhân, trong thời gian tôi bị đày hơn năm năm ở Cổng Trời, số tù chết ở trại chỉ có ba người. Trong năm năm đó, số tù nhân tăng giảm trong khoảng 180 - 208 người.
Đợt bộ Công An thả khoảng gần hai chục tù Biệt Kích ra công trường vào năm 1977 được xem như kỷ lục. Không có chế độ nhà tù nào trên thế giới có đội khâm liệm, họa chăng chỉ có trại tập trung Auschwitz có đội thiêu người như là đặc điểm của nền văn minh Tây Phương, học theo việc tử hình dị giáo của Thiên Chúa Giáo thời Trung Cổ.
Vì thế nhà văn Phùng Quán viết truyện này chắc để xóa bỏ tư cách kẻ sĩ mà ông có được từ bài thơ "Lời mẹ dặn".

Trước đây khi thấy ông linh mục Nguyễn Hữu Lễ nói láo tôi rất lấy làm ngạc nhiên nhưng đến nay thì không vì bọn đội lốt tu hành của tất cả các tôn giáo đều là bọn xài bạc giả nhà nghề do được đào tạo để nói láo, nói xạo như việc làm này của cả tập đoàn gọi là Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã Việt Nam.

Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chết trong khu biệt giam nơi chúng tôi từng bị cùm hơn hai năm. Trong khu biệt giam chỉ có một dãy nhà xây bằng đá chia thành hai buồng lớn. Buồng biệt giam có bốn phòng, từ ngày hoàn thành năm 1968 chỉ để cấm cố các linh mục ngoài ra không có loại tù nào, các vị linh mục không hề bị cùm kẹp. Buồng kỷ luật có tám phòng để trừng trị những thành phần chống đối.Trong nhà cùm mà tù nhân tại trại gọi là Cung Điện Mùa Đông này có bốn biệt kích đăng ký ở lâu dài theo thứ tự là Nguyễn Công Thành (4), Nguyễn Văn Độ (3), Đặng Đình Thúy (2) sau cùng lâu nhất là Hà Văn Sơn (1) tức Kim Âu chịu cùm đến hơn hai năm vẫn không chết, đó là một kỳ tích phi thường trong điều kiện đói rét cùng cực không ai biết để tả nổi.

Trong hơn hai năm cùm từ 1973 - 1975, buồng biệt giam có tất cả năm vị linh mục có ba vị tôi biết cả họ lẫn tên đó là linh mục Nguyễn Ngọc Bảo, tôi gặp ở Trại Tân Lập lúc chúng tôi học tập chuẩn bị trao đổi trao trả, chờ ký kết Hiệp Định Paris. Ông ở bên cạnh chúng tôi và có nói chuyện vài lần, ông cho tôi biết ông là giám mục của giáo phận Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang) hai vị kia là linh mục Trịnh Như Khuê và Trịnh Văn Căn.

Suốt thời gian bị cùm hơn hai năm trên trại Cổng Trời, thỉnh thoảng một hai tháng, chúng tôi được cho ra tắm rửa. Do bị cùm quá lâu nên chúng tôi đóng kịch giả sức tàn, chân tay yếu đuối không kéo được nước giếng nên trực trại cho phép mấy vị linh mục ở khu biệt giam ra kéo nước giúp chúng tôi. Linh mục Bảo kéo nước từ giếng lên, hai vị còn lại dội nước gội đầu, kỳ lưng cho tôi như tình cha con. Tôi hỏi quý danh, hai vị đích thân cho biết một vị tên là Trịnh văn Căn, Xã Đoài, một vị tên là Trịnh Như Khuê, Hà Nội. Ngoài ra trong khu biệt giam còn có linh mục Thông (bị điên) linh mục Thịnh bị điếc ở trong phòng không ra ngoài.

Sau này về lại miền Nam, chúng tôi được biết hai vị Trịnh Như Khuê và Trịnh Văn Căn đã trở thành Hồng Y. Phần linh mục Nguyễn Ngọc Bảo tôi không thấy nơi nào nhắc đến tông tích của ông. Kẻ nào trong Hội Đồng Giám Mục Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã Việt Nam đã âm mưu xóa tên ông khỏi danh sách các linh mục bị Việt Cộng giam giữ?

Tôi có kể lại chuyện này với một số bạn thân và đùa rằng chắc tôi nhờ được hai ông Hồng Y tắm gội cho tôi nên mạnh khỏe, thông minh, sáng suốt mãi cho đến già lão. Thấy việc gán ghép câu chuyện hư cấu vào với người thật là một "trò xài bạc giả" quá trắng trợn nên chúng tôi lên tiếng chỉ rõ ở trại Cổng Trời không hề có giòng sông nào chảy qua vì trại ở trên triền một đỉnh núi cao vút, không có ông linh mục nào được cho đi chăn trâu, nuôi lợn, nhà tù Quyết Tiến không có chuyện khâm liệm. Phùng Quán không bao giờ có mặt ở trại Cổng Trời.

Đọc thấy đoạn viết về Hồng Y Trịnh văn Căn nên chúng tôi thuật lại sự gặp gỡ trong tù và những gì đã xảy ra mà bản thân tôi là người trong cuộc. Lập tức nhà "trí thức y sĩ cuồng tín Nguyễn Tiến Cảnh" giở giọng hạ lưu, côn đồ, đứng bến chửi bới văng thị mẹt để lấp liếm, xóa bài. Hành động ngu đần của y không thay đổi được sự thật, chỉ làm tôi khinh bỉ.

Tôi là người Việt Nam chỉ thờ quốc tổ và gia tiên, đối với tôi chúa, phật đều là người ngoại chủng, các vị đại hiền này có để lại di sản tinh thần cho nhân loại, nếu điều gì hay, đúng thì tôi học hỏi và vận dụng còn sai và dở tôi quẳng nó đi.
Vì thế Hồng Y hay Giáo Hoàng cũng chỉ là phàm nhân trần tục đối với tôi chẳng có gì đáng để "bắt quàng làm họ", sở dĩ tôi nhắc đến hai ông Trịnh văn Căn và Trịnh Như Khuê vì hai ông có hiện diện trong đời sống của tôi, hình ảnh và hành động của hai ông nằm trong ký ức của tôi. Tôi nhắc đến hai vị linh mục Trịnh Như Khuê, Trịnh Văn Căn với lòng quý trọng vì nhớ ơn các vị ấy đã thể hiện tình người với tôi trong những phút giây nghiệt ngã nhất của một chiến sĩ sa cơ, lâm vòng tù tội đang chịu sự tra tấn, đày đọa lâu dài của kẻ thù...

Nguyễn Tiến Cảnh là một "kẻ xài lại bạc giả" đã mất lý trí khi viết ra những lời lẽ hạ cấp, bất xứng với nền giáo dục mà ông ta đã được thừa hưởng. Hàng trí thức mà cuồng tín xem ra còn tệ hơn loại con hoang vô giáo dục.

Việc linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chết trong tù, tự nó đã tạo cho ông một nhân cách có giá trị, không cần ai tưởng tượng ra những lời nói vớ vẩn như : (Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.)

Ai nghe được và ghi lại chuyện này? Láo toét, nói dối, xạo sự trơ trẽn đến mức không còn chút liêm sỉ.

Không lẽ cán bộ cao cấp đó báo cáo với những vị đang xài bạc giả hay sao? Mười điều răn quý vị rao giảng có điều thứ tám là "Chớ làm chứng dối" nhưng thực tế cho thấy bọn xài bạc giả chẳng hề nghe lời chúa của chúng.

Thế mới rõ lớp áo chúng mặc, chức sắc trong hàng giáo phẩm chỉ để che mắt thế gian cho dễ làm điều bất lương, gian dối. Tôi là một ngòi bút hay dùng chiêu "gậy ông đập lưng ông" nên mượn lời kinh của quý vị Thiên Chúa Giáo đang nói láo, làm láo xem thường cả thiên hạ trong vụ bịp bợm trắng trợn và lộ liễu này như sau:
 “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.” (Mt 23,27)
Con người thường cảm thấy bị xúc phạm khi người khác vạch ra những điều sai trái của mình, nhất là đối với những người có quyền thế, đang có chức sắc, khoa bảng. Những người này tưởng mình đang sở hữu sự thật, nhưng thực ra họ đang đánh đĩ lương tâm, quay lưng lại với sự thật, chối bỏ sự thật, vùi dập sự thật, tự lừa mình, dối người và làm nô lệ cho sự giả trá.
Chúng tôi là người thật chỉ tôn trọng sự thật dù "sự thật mất lòng" nhưng chúng tôi biết "sự thật sẽ giải phóng con người". Khi nói lên sự thật, con người sẽ phá tung mọi xiềng xích câu thúc, tận hưởng bầu không khí tự do, biết mình  thực sự có tự do.

Kim Âu
Oct 08/2017
---------- Forwarded message ---------
From: DNGeorgeNguyen
Date: Sun, Apr 19, 2020 at 9:08 PM
Subject: [ChinhNghiaViet] Fw: Thanh ngang trên thập tự giá / truyện ngắn Phùng Quán
To: KVVNNCVC DienDan <>

 
Ngày 19-04-2020

Xin phép Forward
Truyn Ngn do Nhà Văn Phùng Quán
viết v mt V Linh Muc Công Giáo trong Tri Tù Công Sn,có mt thi 
Người là Giáo Sư dy hc ti B/CVA ngày Xưa.
Môt Gương Sáng rt đáng Kính Phc theo Truyn.

Ngày Xưa,tôi là Hc trò,và Cá nhân tôi 
 rt Kính Phc Đc Cha Trn Phúc V và Đc Cha Trn Văn Hiến Minh

Kính,
MD/NDN



----- Forwarded Message -----
From: Cuong Truong 

CHUYỂN TIẾP.  VỊ NÀO ĐÃ ĐỌC RỒI, MỜI ĐỌC LẠI.

:


  Thanh ngang trên thập tự giá / truyện ngắn Phùng Quán

THẰNG KHÙNG - Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá - Phùng Quán

"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hì...

THẰNG KHÙNG - Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá - Phùng Quán

"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hì...


THẰNG KHÙNG
Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá

 

Phùng Quán
(Phùng Quán viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân – không phải là nhà văn có cùng tên – khi cùng ở trong tù)
  
"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác.. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào - sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris.. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges .
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

TGP Hà Nội - 2013
BBT (Theo HĐGMVN)



--


__._,_.___

Posted by: =?UTF-8?Q?KIM_=C3=82U?= 

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List