TRÍ HUỆ
Toàn Không
1). TRÍ HUỆ LÀ GÌ?
Trí Huệ: Do chữ Nam Phạn (Pali) “Panna” chữ
Bắc Phạn (Sancrit) “prajna”, là hiểu rõ sự lý cùng tột,
là Bát
nhã, là trực nhận tánh không, là giác ngộ,
là “Trí
biết tục đế, Huệ thông chân đế”. Có thể nói
Trí
là thể tính sáng suốt trong sạch, Huệ là cái sáng
chiếu
soi, Trí Huệ rộng lớn (Ba La Mật) là thể tính
sáng suốt
soi sáng một cách tinh tường không thể
nhầm
lẫn; Trí Huệ là sự hiểu biết siêu việt cùng tột,
là
Giải thoát.
2). TẠI
SAO CẦN CÓ TRÍ HUỆ?
Con người sống từ vô thủy tới nay luôn luôn si mê
nên
mới khởi tham sân tà kiến, tạo biết bao nhiêu
đau
khổ cho mình, cho người và chúng sanh; đó là
đầu
mối của vô minh, do vô minh sinh ra ý nghĩ các
điều
sai trái, miệng nói những lời điên đảo, thân làm
các
việc động trời. Vì thế bị trôi lăn trong sáu cõi,
chịu
biết bao khổ đau; muốn hết đau khổ, người
Phật
tử phải hết si mê, muốn dứt si mê phải tu để
có
Trí Huệ. Khi có trí huệ sẽ hết vô minh, hết vô
minh
sẽ không còn có ý khẩu thân điên đảo; ý
khẩu thân không điên đảo sẽ không còn tạo nghiệp,
không
tạo nghiệp sẽ không còn sinh tử luân hồi tức
là
Giải thoát, bởi thế chúng ta cần có Trí Huệ là vậy.
3).
TRÍ HUỆ KHÁC TRÍ TUỆ RA SAO?
Trí Tuệ là danh từ thường dùng trong đời sống con
người,
Trí Tuệ được hiểu như là sự thông minh sắc bén,
hiểu
biết tinh mẫn, thông minh linh hoạt. Trí Tuệ là của
bộ
óc tìm tòi phát minh sáng chế theo suy luận, v.v…
Chúng ta không nên hiểu lầm Trí Tuệ của thế gian
cũng
giống như Trí Huệ của Phật giáo, vì Trí Tuệ của
thế
gian chỉ có thể như các nhà Khoa học, Triết học,
Bác
sĩ, Tiến sĩ, Giáo sư, Bác học v.v… có kiến thức
hiểu
biết về một lãnh vực nào đó, chứ không thể
là
bậc đã đạt đạo có Trí Huệ thấy biết như thật cùng
khắp
vũ trụ vạn vật, có đủ Ba minh, Bốn trí, Sáu thần
thông,
Năm nhãn v.v…của bậc Thánh.
Muốn đạt Trí Tuệ cần phải học hỏi suy nghĩ, nghiên cứu
thí
nghiệm, nghiền ngẫm lý thuyết; muốn đạt Trí Huệ
cũng
cần học hỏi nghiên cứu, nghiền ngẫm giáo pháp,
và
còn đi xa hơn nữa, đó là “Hành trì”, “Thiền định”;
nếu
muốn dùng chữ Trí Tuệ, chỉ được coi như những
người
thông minh học nhiều nhớ giỏi, chứ chưa phải
là
người đạt Trí Huệ đạt Giác ngộ tức Giải thoát.
Dù trong nhận thức trực tiếp hay trong suy luận người
có
Trí Huệ sẽ luôn luôn đúng, trong khi người có Trí Tuệ sẽ
có
khi đúng có khi sai. Do đó chúng ta thấy rõ sự khác
biệt
giữa Trí Huệ và Trí Tuệ.
4).
CÓ MẤY LOẠI TRÍ HUỆ? Có
hai loại:
A).
CĂN BẢN TRÍ:
Là Giác tính minh diệu mà mọi chúng sanh đều có sẵn,
nhưng
bị vô minh che lấp nên chưa xuất hiện; thí dụ như
chất
vàng lẫn trong quặng đất sỏi đá, như mặt trời bị che
bởi
sương mù về mùa đông.
B). HẬU
ĐẮC TRÍ:
Là Trí Huệ có được nhờ công phu tu tập, ví như vàng
đã
được lọc luyện từ quặng đất sỏi, vàng không còn lẫn lộn
với
bất cứ chất gì khác; người tu hành đến khi hết vô minh
phiền
não, Trí Huệ hiện ra.
Tuy phân ra hai loại nhưng chỉ là một, cũng như một thứ
vàng;
sau khi tu đạt Hậu đắc trí tức Trí Huệ hiện, các thức
được
chuyển biến thành các trí như sau:
1.
Thành sở tác trí:
Năm thức Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân trở thành trong sạch
không
còn một tí gì bợn nhơ của Năm trần là Sắc, Thanh,
Hương,
Vị, Xúc, nghĩa là không còn vẩn đục bởi phàm trần.
Tâm
hành giả: như hồ nước trong lặng không gợn sóng,
lúc
đó năm thức biến thành “Thành sở tác trí”; nghĩa là năm
giác
quan của chúng ta trở thành có năng lực thần diệu kỳ
bí,
chứ không còn là giác quan của kẻ phàm phu chỉ nhận
biết
một cách hạn hẹp mà thôi.
2. Diệu
quan sát trí:
Thức thứ sáu, Ý thức là thức góp ý nhận biết cho
Năm
thức nêu trên, thức này làm việc suốt ngày đêm
không
ngưng nghỉ. Ban ngày suy nghĩ tưởng nhớ hết
việc
này qua chuyện khác, lo lắng buồn khổ, hân hoan
sung
sướng v.v…, ban đêm khi ngủ mộng mơ đủ cả.
Khi
tâm viên ý mã (tâm ý như khỉ ngựa) ấy đã được
cột
lại một chỗ hết đường cựa quậy qua sự tu hành rồi,
thức
này chuyển thành “Diệu quan sát trí” có công năng
quan
sát thâm diệu cùng khắp.
3.
Bình đẳng tính trí:
Thức thứ bảy Mạt Na là thức tự ý thức về chính mình,
ô
nhiễm cho rằng mình có một cái ta, Mạt Na phân biệt
chủ
thể khách thể tạo nên ý thức nhị nguyên chấp ngã (ta)
nhân
(người) chúng sanh (muôn loài). Năm giác quan cùng
Ý
thức báo cho Mạt Na thông tin từ bên ngoài, chính Mạt Na
là
kẻ đánh giá và ra lệnh cho sáu thức kia phản ứng hành động,
đồng
thời Mạt Na lại đưa tất cả các cảm giác (chủng tử) vào
A
Lại Da là Thức thứ tám. Khi tu hành phá vỡ tan tành chấp
tướng
ngã nhân của Mạt Na thì nó chuyển thành “Bình đẳng
tánh
trí”, nghiã là Trí Huệ này có năng lực nhận thức chân thật
về
tính bình đẳng vô ngã trong muôn pháp.
4. Đại
Viên cảnh trí:
Khi cảm giác của tất cả các hoạt động của Năm căn và
Ý
thức được
Mạt Na đưa vào A Lại Đa, thức này có nhiệm
vụ
giữ gìn tất cả các tin tức ấy, gọi là chấp trì sinh mạng
chủng
tử. Khi tu hành đạt đến địa vị Vô lậu (không còn ô
nhiễm),
thức này chuyển thành “Đại Viên cảnh trí”, tức là
thành
cái Trí Huệ sáng suốt trong sạch như chiếc gương
khổng
lồ tròn đầy trong sạch soi chiếu cùng khắp, tương
ưng
cho chân tâm chân như Phật tánh.
5).
LÀM SAO CÓ TRÍ HUỆ?
(Còn
tiếp)
TRÍ
HUỆ
Toàn Không
(Tiếp theo)
5).
LÀM SAO CÓ TRÍ HUỆ?
Muốn có Trí Huệ, Đức Phật đã dạy tám vạn bốn nghìn
pháp
môn tu, người Phật tử có thể chọn bất cứ pháp môn
nào
thích hợp với mình để tu hành, đều có thể đạt được
Trí
Huệ tức là Giải thoát. Tuy nhiên, căn cứ Duy thức học,
sau
khi tu theo Duy thức, khi hành giả đạt Trí Huệ sẽ có
Bốn
trí nêu trên; ngoài ra, trước khi tu chúng ta cần tìm hiểu
nghiên
cứu cho tường tận, không còn một điều gì nghi ngờ
khó
hiểu. Rồi còn phải suy gẫm xem pháp môn tu có thích
hợp
với mình không, có những trở ngại gì cần phải vượt qua,
nghiã
là hành giả phải hiểu biết pháp môn mình sẽ tu. Sau
khi
đã hiểu rõ pháp môn tu, hành giả mới bắt đầu tu tức là thực
hành;
khi đã thực hành rồi, phải tinh tấn chuyên cần không
ngưng
nghỉ không gián đoạn, kiên cố thực hành sẽ có ngày đạt
Trí
Huệ, tức là Giải thoát.
6).
CÔNG NĂNG CỦA TRÍ HUỆ RA SAO?
Như trên đã nói, Tám thức chuyển thành Bốn trí, Bốn trí
có
công năng diệu dụng vô cùng rộng lớn, khó mà diễn tả hết
được,
nhưng có thể nêu ba công năng như sau:
1.
Khi Trí Huệ phát sinh thì phiền não hết, như ánh sáng
phát
ra
thì bóng tối không còn nữa.
2.
Khi Trí Huệ khai mở chiếu soi sự vật, sẽ thấy rõ thực
thể bản
chất,
thực tướng của vạn vật đều được phơi bày.
3.
Khi Trí Huệ bừng sáng thấy rõ tâm cảnh đều là Chân Không,
nên
thể nhập được Chân lý, tức là Giác ngộ vậy.
7).
TRƯỜNG HỢP THỂ HIỆN TRÍ HUỆ:
Trong bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển 1, trang 312 viết:
Một
thời, Tôn giả Đại Ca Chiên Diên, đại đệ tử của Đức Phật
Thích
Ca, dẫn một số đông đảo Tỳ Kheo đi du hóa đến nước
Bà
Na. Khi Tôn giả đang ở bên một bờ hồ, có Trưởng lão Bà
la
môn tên Thượng Sắc dẫn một số đông đảo đệ tử đến gặp,
Sau
khi chào hỏi xong, vị Trưởng lão nói:
-
Như Ca Chiên Diên đây nói là người tu hành, nhưng không
hành
đúng pháp luật của người tu, vì Tỳ Kheo trẻ tuổi mà không
làm
lễ các bậc trưởng thượng cao đức Bà la môn của chúng tôi.
Tôn giả
Ca Chiên Diên trả lời:
-
Các vị Bà la môn nên biết, Đức Phật Thích Ca thuyết hai địa vị,
một
là địa vị già cả, hai là địa vị trai tráng.
Bà la
môn hỏi:
- Thế nào là địa vị
già cả, thế nào là địa vị trai tráng?
Tôn giả
đáp:
-
Cho dù người tuổi sáu mươi, bảy mươi, tám mươi, mà không
dừng
được ái dục tham sân si, làm các việc ác, chấp chặt các
việc
ở đời; người này tuy có thể bảo là già, mà thực ra họ ở
địa
vị trai tráng.
Còn người tuổi độ hai mươi, ba mươi, bốn mười, năm mươi;
người
ấy chẳng tập quen dâm dục, sạch hết tham sân si, chẳng
chấp
việc đời, cũng chẳng làm các hạnh ác, đó là người trai tráng
ở
địa vị già cả.
Ba la
môn lại hỏi:
-
Trong đại chúng của ông có một Tỳ Kheo nào không hành ái
dục,
chẳng tạo hạnh ác chăng?
Tôn giả
trả lời:
-
Trong đại chúng của chúng tôi đây không có một Tỳ Kheo nào
ái
dục tập dục, không có một Tỳ Kheo nào làm hạnh ác cả; tất
cả
Tỳ Kheo đây, người nhỏ nhất cũng đã thấy dấu đạo, vì sao?
Vì
Tỳ kheo nhỏ nhất cũng đã đạt qủa vị Tu đà hoàn, một qủa vị
trong
bốn qủa vị của bậc phạm hạnh là Tu đà hoàn, Tư đà hàm,
A
na hàm, và A la hán. A la hán là bậc đã sạch hết các nhơ bẩn,
có
Trí Huệ đầy đủ, và đã thoát ra khỏi cảnh khổ sinh tử luân hồi.
Bà la
môn nghe nói như vậy, liền đứng dậy vái và nói:
-
Các ông tuổi trai tráng mà ở địa vị già cả, thật qúy hóa thay,
còn
tôi già cả mà còn ở địa vị niên thiếu, thật đáng trách; rồi Bà
la
môn nói tiếp:
- Xin cho con được
quy y Ngài.
Tôn giả
nói:
-
Ông chớ quy y tôi, ông nên quy y nơi bậc mà tôi đã quy y.
Ngài
là bậc Chính Đẳng Chính Giác, là bậc Đại Trí Huệ, là Thầy
của
Trời và Người, là Như Lai, Phật. Ngài đã nhập Niết Bàn mất rồi!
Trong khi nói, Tôn giả quỳ hướng về nước Câu Thi nơi Đức Phật
nhập
diệt mà vái lạy, Bà la môn thấy Tôn giả lạy, nói như thế thì thưa:
- Nếu Như Lai còn ở đời, con
không quản ngại đường xa đến kính lễ,
nay Như Lai đã Nhập Niết Bàn, con
xin quy y Phật, Pháp và Chúng Tỳ Kheo. Xin Ngài chấp nhận cho, con sẽ học hỏi
và tuân hành theo các lời Ngài dạy. . .
(Còn
tiếp)
__._,_.___