From: ngocdtran
Date: Mon, 1 Jul 2013 12:10:20 -0700
Subject: Chú Chó Trung Th ành
Văn Hóa Sống Trên Đời
*
Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
LTS: Phải đặt mình vào các cụ ta xưa khi còn sống ở Động đình
Hồ, Cao bằng, Lạng Sơn, Ba Vì, Việt trì
Tuyên Quang,
Phú thọ…đời sống còn quá thô sơ chân chất, quanh năm chi có tôm cá bắt được ở
các sông ngòi, hồ ao, rau hái trong rừng hoặc vườn sau nhà, gà vịt, lợn, trâu
bò còn rất ít không dám giết thịt, vả nghèo thì tiền đâu mà giết gà vịt, lợn
bò? Chó nuôi giữ nhà nhưng lúc cần phải dùng nó cho bữa tiệc của con người thì
cũng phải đành, chứ ai không thuơng nó. Mời bạn đọc đi sâu vào truyện ngắn sau
đây của Nhà văn Bút Xuân TĐN để hiểu được vì sao chúng ta lại có Văn hóa Sống
trên đời. Trân trọng.
Trước
hết, Văn hóa thường được định nghĩa như một tập hợp tòan thể các họat
động nói chung của con người trên một lục địa, một miền, trong một dân tộc, một
bộ tộc v.v...Thí dụ ở thời cổ có Văn hóa Ai Cập, Văn hóa Trung Hoa, Văn hóa Ấn
Độ, Văn hóa Mesopotamia, Văn hóa Âu châu, Văn hóa Hi lạp v.v...Ngày nay có Văn
hóa Tây phương, Văn hóa Đông phương, Văn hóa châu Mỹ Latinh v.v...
Ăn
là một nét đặc thù của Văn hóa vì ăn đứng đầu và quan trọng nhất trong sinh họat
của con người. Ngày Tết bàn về các món ăn là điều rất hợp vì cổ nhân ta
thường nói:
Làm như ngày dưng ăn sao cho hết
Ăn như ngày Tết lấy gì mà ăn.
Món
ăn ngày Tết thì nhiều, rất nhiều, nhớ không xuể kể không hết, nhưng vì là năm
con Chó, chúng ta chỉ giới hạn một món cờ tây, món sống trên đời,
thức ăn khoái khẩu bổ dưỡng đã từng được ca tụng hết mình do nhiều văn nhân,
thi sĩ trong văn chương bình dân.
Sống trên đời ăn miếng dồi chó
Chết xuống âm phủ biết có hay
không?
Chết
là bỏ lại tất cả mà vẫn còn nhớ nhỏm cái món thích khẩu ấy, đủ biết nó phải
ngon như thế nào!
Tuy
nhiên, vì người Việt hiện nay di tản đi khắp cùng thế giới nhập nhiễm nhiều nền
Văn hóa địa phương nên khi nói về “Văn hóa Sống trên đời” hay “Văn hóa cờ tây”,
chúng ta phải giao hẹn với nhau thế này. Trước nhất phải dùng cái tâm thức thuần
túy Việt Nam để cùng bàn bạc vì món cờ tây là một món ăn đặc thù không món ăn
Việt hoặc ngọai quốc nào tương tự. Nếu nói chuyện hạ cờ tây với lớp người trẻ
Việt đã sinh ra hoặc sinh sống nhiều năm tại Hoa kỳ, Âu châu ... đã nhiễm tư tưởng
học thuật Tây phương; các bạn trẻ này sẽ không thể hiểu được vì sao người ta
dám...giết chó và ăn thịt chó.
Thứ
hai, nếu bạn đã từng thưởng thức món “hương nhục” ở Việt Nam và nhận biết nó
ngon không thua một thứ thịt gì, hoặc có phần trội hơn, thì câu chuyện đang kể
bạn nghe đây mới lí thú, bằng không nó chỉ là những dòng chữ chóan cho đầy
trang báo mà thôi.
Để
cho có đầu đuôi, chúng ta nên ngược dòng từ nguồn gốc. Quí bạn đọc cũng dư biết
Bắc Việt chính là cái nôi của nước Việt Nam ta. Nông thôn Bắc Việt, một năm mới
có một lần Tết, có nhiều người, một năm mới được ăn thịt một lần vào dịp Tết,
thế thì Tết chẳng đáng cho người ta mong chờ, quan trọng hóa và hồi hộp khi trống
mõ làng báo tin Giao thừa sao?
Chẳng nói đâu xa, chỉ ngay trong thời Pháp thuộc,
vật trâu vật bò là chuyện đại sự của làng, của tổng, của huyện; mổ heo khi có
đình đám lớn của làng hay tư nhân khá giả. Còn một, hai gia đình, khi có lễ lạc,
mừng rỡ chỉ dám hạ cờ tây là cùng vì tiền đâu mà mua heo, mua bò? Cờ tây tiện ở
chỗ vừa túi tiền, nó rẻ hơn heo, bò. Bốn gia đình đánh đụng một con tức mỗi phần
một đùi là đủ cho một dịp lễ lạc, vợ chồng, con cái no nê hạnh phúc.
Cờ tây lại
cũng ngon không thua bất cứ thứ thịt gì ngòai chợ, nó lại được tiếng là bổ dưỡng,
kiện tì, tráng thận, ích tim. Bằng ấy lí do xác thực, người nông dân Bắc Việt
đa số tay làm hàm nhai khi xưa chẳng ăn cờ tây thì ăn cái gì cho có chút thịt
thà ngày lễ, ngày tết? Một điều nữa, gia vị cho heo, bò thì tốn chứ gia vị cho
cờ tây chỉ kiếm trong vườn. Con cháu gái cứ xách rổ ra vườn đào vài mậm riềng,
xắn vài củ chuối non, hái một ít xương xông, mìn tưới, ngò gai, húng quế, húng
lủi và nhất là lá mơ tam thể đang leo từng bụi lớn, chọn lá ngon mà hái.
Thế là
xong! Đỗ xanh và vừng, nhà nào không trữ? Vài đồng bánh đa đem nướng lên. Vài cút
rượu đâu mua từ cô hàng rượu bán rong sáng nào không nhởn nhơ khắp giong, khắp
xóm trêu nguơi mấy anh bợm nhậu?
Còn trời, còn nước, con non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa!
(Ca dao)
Dễ
dàng vậy và giản dị vậy, lại rất bình dân học vụ, chẳng nhắm vào cờ tây thì còn
nhắm cái gì?
Chúng
ta cũng cần ghi nhận một điều tối quan trọng. Thịt chó ta khác thịt chó Mỹ, chó
bẹc-dê xa lắc xa lơ, một trời một vực về phẩm chất vì chó ta xưa nay chỉ ăn
cơm, ăn cám heo, mút mát miếng xương miếng xẩu của chủ thải ra nên chó ta
thịt thơm, dòn cũng ví như thịt gà thả rẫy, gà đi bộ chứ không phải lọai gà nhốt
trong chuồng, nuôi thúc cho béo, thịt mủn mùn.
Của đáng tội, dù không thanh lắm
cũng phải thêm rằng, thỉnh thỏang ban đêm thằng cu Tèo hay cái Đĩ nhớn, Đĩ bé có
yếu bụng, mẹ nó chẳng cần phải gọi bố nó nằm chình ình bên cạnh mà cứ việc mắt
nhắm mắt mở cầm hai cẳng chân đứa con giơ ra. Vàng, Vện hay Mực đã túc trực từ
bao giờ, tự động lo liệu sạch sẽ như lau như li. Xong việc, hai mẹ con lại trùm
mền ôm nhau ngủ tiếp không phí đến mươi giây đồng hồ trong khi “bố nó” vẫn cứ
ngáy đều như cái bễ lò rèn. Thật là tiện lợi!
Trở
lại những năm tôi còn đi dạy học ở Sàigòn, quen biết cũng khá nhiều, dân ở
thành cũng đông mà dân miền quê ỏ các tỉnh phụ cận cũng lắm, một số là phụ
huynh học sinh có con học tôi tại Sàigòn.
Một
bữa thứ bảy mát trời, ba ông bạn đến rủ đi chơi. Hai ông và hai bà ngồi
chung chiếc xe Jeep dân sự với tôi và nhà tôi; còn một ông chở bà xã trên chiếc
xe Vespa lái theo sau vì xe của tôi đã quá chật.
Lái
xe ra xa lộ Biên hòa, chưa biết có nên đi Lái Thiêu mua ít sầu riêng, măng cụt
và soài cát, thì chợt ông bạn ngồi phía sau - Được - nói:
“Ði Hố Nai kiếm thịt cầy ăn đi cậu! Tớ thấy nhớ thịt cầy rồi.”
Vì
chẳng có định kiến, nghe đề nghị, tôi đáp:
“Ừ thì Hố Nai!”
Xa
lộ do nhà thầu Hoa Kỳ RMK làm, phẳng phiu láng bóng như mặt kiếng, chẳng bao
lâu chúng tôi đã tới Hố Nai. Hai chiếc xe ngừng trước một ngôi nhà khang trang,
sân gạch, tường xây, mái tôn. Hai con chó nhỏ xồ ra sủa inh ỏi làm ông chủ nhà
đã có tuổi bước ra:
“Ủa thầy giáo Vũ! Sao lạ lùng vậy?”
“Chào bác. Chúng tôi đến thăm hai bác đây. Hai bác và gia đình có khỏe không?”
Ông
chủ nhà mời chúng tôi vào phòng khách, bảo đứa con gái nhỏ nấu nước pha trà.
Ông là hàng xóm của tôi năm xưa khi tôi có căn nhà ở khu Chợ Quán, hơn nữa,
mấy đứa con ông đã học tôi mấy năm. Sau đó gia đình ông dọn về khu Hố Nai hố bò
này nhưng thỉnh thỏang lên Sàigòn ông vẫn ghé thăm chúng tôi.
“Mời thầy cô giáo và các ông các bà mời nước.”
Sau
khi uống xong được một tuần trà, bác Hạng - tức ông chủ nhà - hỏi tôi:
“Thầy giáo Vũ đến thăm chúng tôi hôm nay còn có việc gì không?”
Tôi
đặt cái tách Nhật xuống khay:
“Anh em muốn bác cho thưởng thức một bữa nai đồng quê. Tiệm tùng không thiếu nhưng
thấy không ngon và sạch sẽ bằng ở nhà làm.”
“Quá dễ. Để tôi bảo cháu Long lo liệu.”
Tôi
móc túi lấy xấp giấy bạc trao vào tay bác Hạng:
“Bác trao cho anh Long để trả tiền con cầy và mua gia vị.”
Bác
Hạng giẫy nẩy:
“Ấy không, thầy cô giáo với các ông các bà xuống thăm gia đình tôi là quí lắm rồi.
Thường ngày cha con tôi cũng mua về giết hòai. Chúng tôi đãi thầy cô giáo và
các ông các bà một bữa không được sao?”
“Được vẫn là được, chỗ bác với chúng tôi mà. Nhưng xin bác cứ cầm cho chúng tôi
vui lòng. Lần sau chúng tôi mới dám đến quấy rầy bác nữa.”
Bác
Hạng vẫn không cầm nhưng tôi nhất định không nghe, cứ dúi tiền vào tay bác,
đóan chừng số tiền ấy cũng đủ để làm bũa tiệc.
Anh
Long, con lớn bác Hạng nghe bố dặn dò ở dưới bếp xong lên chào chúng tôi rồi ra
đề xe Lam ba bánh chạy đi. Bác Hạng bảo với chúng tôi, tuyến đường xe Lam đưa
khách hôm nay người kia chạy, Long được nghỉ.
Chẳng
bao lâu, tôi thấy Long về, khệ nệ vác một cái bao tải. Anh ném ịch cái bao xuống
sân gạch và lôi ra cho chúng tôi coi một con chó vàng to trung bình, lông ngắn,
tai nhỏ mới khỏang hơn năm, giống chó ta hòan tòan.
“Nhất
bạch, nhì hòang, tam khoang, tứ đốm.” Được lắm đây. Nhưng các thầy lang ta lại cho
điểm Mực cùng với bạch đứng đầu sổ:”Nhất bạch, mực, nhì hòang, tam khoang, tứ đốm”vì
các cụ nói cái mật con chó mực chữa được nhiều bệnh lắm. Để chiều các cụ “lương
y như từ mẫu”, thôi cũng cứ được đi.
Con
chó đã bị trói bốn chân và mõm không cựa quậy được, đôi mắt của nó trông thật
buồn rầu. Sau khi cho coi, Long đưa chó ra vườn sau, ở đó có bác Hạng gái, vợ
Long và mấy đứa em phụ việc mổ chó và nấu nướng. Để cho chúng tôi được tự
nhiên, bác Hạng cũng rút về phía nhà bếp.
Cũng
như mọi lần đã đến đây ăn, tôi không nghe một tiếng chó kêu vì Long nói, để nó
bớt đau đớn, Long đã cho nó một cái vồ vào giữa ót xong mới cắt tiết.
Chỉ
hơn tiếng sau, khi chúng tôi đang đánh chắn ở phòng khách giết thì giờ thì chợt
nghe mùi chả nướng thơm tưng thơm lừng theo khói từ ngòai sân bay vào. Vợ anh
Long và vài cháu gái khác lên bày bàn ăn. Khỏang nửa tiếng sau, bác Hạng mời bọn
tôi nhập tiệc. Tôi hỏi bác Hạng:
“Hôm nay anh chị Long làm có vẻ nhanh dữ. Chỉ mới ba tiếng từ lúc đi bắt chó mà
bây giờ đã được ăn?”
‘Hôm nay quả nhanh thực vì con chó này tôi đã mua xong và trả tiền cho chủ, Long
cứ đến là trói đem về. Còn nếu lại phải đi hỏi dăm, ba nhà mới mua được thì mất
thời gian thêm. Việc nấu nướng cũng đã qui họach từ trước. Ai việc nào cứ việc ấy,
từ người pha thịt đến người đâm riềng, nhặt rau thơm nên bớt việc mà lại nhanh.
Ấy vợ chồng Long nó tính nếu mệt về cái xe ba bánh này thì chúng cho mướn, xong
ở nhà mở một quán cầy tơ, ngày giết một con cũng đủ sống. Cái quán ở đầu xa lộ
đường vào Biên hòa nghe nói ngày tiêu thụ ba con cơ đấy. Nào mời thầy cô và các
ông các bà.”
“Mời hai bác cùng ngồi ăn cho vui.” Tôi nói.
“Vâng, tôi xin ngồi tiếp thầy cô và các ông các bà một lát thôi. Tôi ngồi lâu mỏi
lưng không chịu được.”
Chúng
tôi đã mang theo một chai rượu thuốc của chú Năm ngã ba Tân Vạn vì có mồi
ngon mà thiếu chén rượu “bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi” này thì mồi ngon cũng hỏng.
Lại có thêm bia 33 và bia-lây, ai không hạp rượu thì uống bia, các bà không uống
bia thì uống bia-lây. Nhưng quả thực tuy không nói ra, ăn thịt cầy mà uống nước
ngọt thì cũng y như mặc áo gấm đi đêm ba mươi, nó phí cả thịt cả áo đi. Thịt cầy
chỉ đế, uống đến la-de đã là bết rồi.
Tôi
phải xuống bếp cố chèo kéo bằng được Long lên bàn ăn. Long là học trò cũ của
tôi những năm lớp 10 và lớp 11, sau đó đi khóa Hạ sĩ quan Đồng đế, bị thương
đang khi huấn luyện, được tạm thời về chờ ngày ra Hội đồng Miễn dịch quyết định
thương tật.
“Mời thầy cứ tự nhiên. Con còn bận tay lắm. Con phải coi nồi xáo này để lát quí
vị ăn bún.”
“Cứ để đó cho chị ấy coi giùm. Lên uống với thầy một li đã.”
Long
bất đắc dĩ phải để cho vợ coi và lên bàn ngồi, nhưng chỉ uống hết một li la-de
là đã cáo lỗi trở xuống bếp.
Một
cái bàn lớn đầy những đĩa, những bát. Đầu tiên, theo thông lệ, chúng tôi ăn tiết
canh. Những lát gan thái mỏng đặt kín trên mặt đĩa tiết canh đông cứng đã để tủ
lạnh một lúc, trên đó là đậu phọng rang đâm nhỏ và lưa thưa mấy lá ngò gai,
húng quế. Chúng tôi nâng những cái chén nhỏ đặc biệt để uống rượu rắn hổ, to
hơn chén mắt trâu một chút. Uống kiểu này không có uống từ từ mà cứ mỗi chén chỉ
tợp một cái ực. Thế mới ngon. Thế mới đã. Vắt chút chanh vào miếng tiết canh, ngắt
vài cái lá húng quế, ngò gai, ngò ôm bỏ lên trên, rồi từ từ và vào miệng.
Ôi chao sao nó ngon, nó bùi!
Nhất là miếng tiết canh đang ăn lại trúng ngay cái
cổ họng con cầy nhai sần sật trong miệng. Miệng nhai nhưng tay vẫn bẻ miếng
bánh đa vừa nướng dòn tan, thơm phức ăn kèm. Món tiết canh này nghe đâu đã có từ
thời Hồng Bàng vì các cụ ta quí máu huyết lắm. Trâu, bò, lợn, gà, vịt...khi giết
các cụ không bỏ huyết đi bao giờ. Quí cũng phải vì máu huyết trong mỗi sinh vật
chính là sự sống còn của sinh vật đó. Thiếu huyết, cạn huyết, sinh vật lăn quay
ra ngay. Tuy nhiên, về cái “sự cố”đánh tiết canh, chúng ta còn thua người
Lào và người Lào-Hmong một bậc. Chúng ta chỉ ăn tiết canh vịt chứ không ăn tiết
canh gà nhưng các người Lào và Lào Hmong lại hãm tiết gà đánh tiết canh thưởng
thức cũng y như vịt vậy. Và họ khen rất ngon.
Xong
tiết canh thì đến các thứ khác như chả nướng trên bếp than, có rắc mè lên trên.
Những miếng thịt vàng ươm vì có ướp bột nghệ, hành, riềng, mẻ, nước mắm đem nướng
trên than, khi mỡ sôi xèo xèo trên mỗi miếng thịt và thịt săn lại, ngả mầu nâu
nhạt ấy là chả đã chín. Một hớp rượu, một miếng chả, mảnh bánh đa, mảnh riềng mỏng,
vài cọng húng, lá mơ. Đời quả là đáng sống, các cụ ạ!
Chắc Lưu Linh, bợm rượu
và hai ông Lưu Thần, Nguyễn Triệu lạc vào động Thiên thai xưa kia được tiên
cung phụng cũng chỉ ăn ngon đến thế! Ghiền thịt cầy nhà sư giả dạng Lỗ trí Thâm
trong chuyện Thủy Hử hay 108 Anh hùng Lương sơn Bạc làm gì có chả nướng, rựa mận
mà ăn. Đùi chó luộc, ông cứ bỏ vào tay nải, hễ ngon ngót bụng lại moi ra ngọam,
chấm chút muối. Riềng, lá mơ chẳng có, bánh đa thì không, may ra có được vò đế
nhưng ăn mộc tồn kiểu đó sao bằng chúng tôi đang thưởng thức với đầy đủ gia vị,
rượu ngon ở nhà bác Hạng đây. Yến lão đã là nhất nhưng không hơn bữa hạ cờ tây
này được.
Sách
kể rằng có mấy nhà sư chân tu có vẻ khi dể chế diễu ông Lỗ khi ông uống rượu và
ăn thịt chó tì tì:
Đi tu Phật đã dạy rằng:
Chớ ăn thịt chó, chớ năng liếc đào!
Ông
Lỗ giận lắm, một lần, hai lần rồi ba lần, không nhịn nổi nữa, ông không nói
không rằng xô tới dằn ngửa nhà sư kia ra ở ngay sân chùa, thồn đùi chó vào miệng,
bắt ăn bằng được, gây ra một cuộc vật lộn thi đấu quyền cước công phu dữ dội,
đá cát bay mù mịt làm anh hùng hảo hớn trong giới võ lâm cười vỡ bụng.
Sau
tiết canh và chả là đến rựa mận. Cờ tây bảy món mà. Miếng thịt do lửa riu riu
quánh lại với nhau thấm đủ các thứ gia vị như riềng, mẻ, xương sông, lá mơ,
thơm mùi thơm đặc biệt không thứ thức ăn nào có. Thịt nấu rựa mận còn cả da, vừa
nạc vừa mỡ, tuy nhiên chó ta hong hong con - với phụ nữ gọi là mình dây - mỡ ít
mà thịt nhiều. Khi ăn ta thong thả vừa nhai vừa ngẫm nghĩ cái bùi béo, thơm
tho, mảnh da dòn sần sật và phải chịu rằng các thứ gia vị đã tạo cho miếng thịt
cầy một ý vị đằm thắm, một hợp chất hài hòa đến không thể nào làm hơn. Cũng có
những người lại thích ăn rựa mận với chút bún trắng tươi, lấy làm vô cùng mãn
nguyện.
Lại
đến cái món dồi. Đúng là Sống trên đời. Ruột chó được “ken” có ngghĩa là rửa thật
sạch bằng những chất khử mùi hôi nhu chanh, lá khế, muối để những chất lờn, chất
dơ theo nước rửa đi ra hết chỉ còn lại bộ ruột dài thòng, mỏng, dai, sạch sẽ từ
trên xuống dưới. Nhân bên trong dồi là thịt, mỡ vụn, tiết đọng, là mơ, ngò gai,
húng quế và cả đỗ xanh, tất cả đã cà, đã đâm nhỏ trộn với riềng mẻ, mắm tôm, nước
mắm... Sau đó, nhân được nhồi vào trong ruột cho đầy, cho chắc. Bịt hai đầu lại,
lấy kim châm một ít lỗ thông hơi trên khúc dồi xong cho vào nồi nước luộc đang
sôi.
Sau
khi luộc xong, Long còn đem cả khúc dồi quấn vào một thanh tre đem hơ trên bếp
than cho đến khi mầu da vàng hực, miếng dồi chắc và khô. Dồi thái ra đặt chung
với tim, gan và khi ăn, ăn nó với thịt luộc cùng một lúc. Dồi và luộc thì
phải chấm mắm tôm chanh, đánh cho thật nổi lên, thêm chút đường cho dịu. Cùng là
những thứ nhà quê nhà mùa với nhau, mắm tôm chanh sao lại ăn ý hết mình với thịt
cầy như thế. Còn nếu ai không quen với mắm tôm thì cứ muối tiêu chanh cũng chẳng
sao.
Thịt
chó ngon như thế không hổ là thịt chó Việt và các tiền nhân ta, các người đã
ăn, đã mê nó không phải là vô lí. Danh bất hư truyền.Chứ cái giống chó bẹc-giê,
chó Mỹ, sống để làm cảnh, chết chôn chứ ai dám động vào một miếng thịt hôi rình
và nhẽo nhèo nhèo của nó?
Khi
chúng tôi đã thấy gần no rồi, sắp sửa buông chén buông đũa thì chị Long khệ nệ
bưng lên một thố thịt hầm củ chuối để ăn với bún. Dù là món cuối, bao tử không
tiếp nhận được mấy nữa nhưng món hầm ăn với bún này thật ngon, mỗi người cũng phải
một tô nhỏ vơi vơi.
Chúng
tôi ra khỏi nhà bác Hạng thì trời đã ngả chiều. Trên đường về, các bà còn đòi
cho ghé mấy quán bên đường mua bưởi Biên Hòa, thứ bưởi tôi nghĩ ngon nhất thế giới,
cũng như khóm Long An.
Sau
ngày 30-4-1975, di tản sang nước Mỹ, tôi có cái may mắn là được ở cùng một
thành phố miền Đông Nam cùng với một số quân nhân Hạ sĩ quan và binh sĩ trước
kia dưới quyền tôi trong một đơn vị. Kể cả gia đình tôi là bảy, chúng tôi cùng
được một nhà thờ Tin Lành bảo trợ từ Guam sang và nhà thờ mướn cho chúng tôi mỗi
gia đình một căn trong chúng cư thuộc một khu trung bình không quá giầu cũng
không quá nghèo trong thành phố mà mùa Đông tuyết rơi ngập đường đi lên cả
foot.
Có
gia đình và bạn bè thật đấy nhưng sao những ngày đầu đến đây, chúng tôi vẫn buồn
nẫu ruột. Hầu như ai cũng còn cha già mẹ héo, anh chị em, cháu chắt bỏ lại nơi
quê hương. Chúng tôi nao lòng khi nghĩ đến đại đơn vị và các cấp chỉ huy, các bạn
cũ sau khi sẩy đàn tan nghé, những bạn bè nào còn sống, những ai đã nằm
xuống và quê hương yêu dấu khi xưa giờ chỉ còn là một nơi tan hoang, điêu tàn,
đau khổ cho những người còn đang phải đối diện với những thực tế chua chát não
lòng.
Càng
đau khổ, chúng tôi càng tựa vào nhau, bám víu vào nhau để tìm lẽ sống bởi xung
quanh chỉ tòan là xa lạ, hờ hững, lạnh lùng. Thực ra, giáo dân của giáo xứ bảo
trợ đã hết lòng giúp đỡ chúng tôi: tặng giường, nệm, bàn ghế, nồi niêu bát đĩa,
tuy đã dùng nhưng thảy đều còn tốt, còn đẹp. Ngòai những buổi lễ chủ nhật chở
chúng tôi đến làm việc phụng vụ tại nhà thờ, họ cũng thay phiên chở chúng tôi
đi chợ mua thêm thức ăn, đi bưu điện, đi bác sĩ và cả đi làm.
Sau
hơn tháng, chúng tôi được chở đi thi lấy bằng lái xe nhưng chỉ có tôi và một
người nữa đậu vì 100 câu hỏi được đặt vào những chiếc máy computer, thi abc
khoanh nhưng phải hiểu câu hỏi rồi mới bấm vào câu trả lời trên màn hình. Bữa
thi, khi tôi còn đang tiếp tục làm bài thì bỗng cái máy reo lên một hồi chuông
dài. Cô thư kí đến bảo tôi đậu rồi vì tôi đã đáp trúng 75 câu. Nếu làm xong 100
câu mà không trúng được 75 thì kể như hỏng. Tôi vui nhưng thấy năm bạn rớt nên
cũng ái ngại cho các bạn. Họ là những tài xế rất giỏi trong đơn vị nhưng khổ
cái chưa học tiếng Anh bao giờ. Để có đủ trình độ làm bài thi này, tôi không
nghĩ chỉ học sáu tháng. Nếu được thi bằng tiếng Việt thì quả là may mắn.
Tôi
không hiểu nếu cả bảy người trong nhóm chúng tôi đều đậu thì giáo xứ có đủ xe
cũ phát cho anh em chúng tôi mỗi người một chiếc không nhưng một tuần sau
khi Sở Lộ Vận thành phố gửi bằng lái xe cho tôi và Mười thì đồng thời ông chủ tịch
Hội đồng giáo xứ cũng giao cho tôi và Mười mỗi người một chiếc xe. Tôi được chiếc
Chevrolet, Mười được chiếc Ford, cả hai đều tám máy, bự tổ chảng tuy ghế nệm giữ
kĩ còn khá mới. Máy xe còn khá tốt, không có bệnh gì chỉ mỗi tội chúng uống xăng
quá ấy là lúc đó xăng chưa tới nửa đô-la một ga-lông.Từ nay, tôi và Mười tình
nguyện làm tài xế cho cả bảy gia đình cho đến khi mỗi gia đình có được ít nhất
một người tài xế và một chiếc xe.
Chúng
tôi đưa nhau đi làm để kiếm sống bằng hai chiếc xe “đầu đời” này. Làm đủ thứ việc
khi có người mướn: trồng cây, cắt cỏ, làm sạch vườn tược, tỉa cây, cưa cây, dọn
dẹp kho hàng... Khi mới chân ướt chân ráo tới đây, tiếng Anh tiếng U còn quá dở
thì không có quyền kén việc mà chỉ có việc kén người miễn sao cho các bà xã có
đủ gạo và thức ăn nấu nướng mỗi ngày, đám trẻ nhỏ được cắp sách đến trường là
vui rồi.
Ba
tháng đầu, chúng tôi không phải lo tiền nhà vì đã có giáo xứ yểm trợ.
Mỗi
thứ bảy, chúng tôi vẫn luân phiên tổ chức ăn uống truyện trò cho đỡ nhớ nhà.
Các bà xã bày ra nấu bún bò Huế, phở, bún riêu, rán chả giò, làm nem cuốn.
Nhưng ăn mãi các thứ này rồi cũng chán. Một bữa, thượng sĩ Chửng, nói với tôi
và cả bọn:
“Có một món nhớ quá đã lâu không được ăn, ông thầy ơi!”
“Món gì vậy chú Chửng?” Tôi hỏi.
“Ông thầy có nhớ ngày xưa thỉnh thỏang ông thầy vẫn bảo tụi tui đến Sở bắt chó đường
Yên đổ xin cờ tây về nhậu không?”
“Sao quên được. Nhưng ở đây đâu có xe bắt chó?”
“Để tụi em tính, ông thầy.”
Tôi
thấy manh nha một cái “sự cố” không nên, không phải bèn chặn ngay:
“Ấy, cái xứ này người ta trọng mấy con cầy lắm. Họ gọi chúng là “man’s best friend”.
Các chú có thèm thì mua giò heo thui lên nấu giả cầy ăn đỡ nhớ. Chớ có đụng vào
mấy con khuyển kẻo tù rục xương đó.”
Thấy
tôi lo ngại, Năm Gò Quao trấn an ngay:
“Tụi em nhắc cho vui đấy ông thầy. Làm gì có cái vụ hạ cờ tây ở Mỹ.”
Chửng
nhắc làm tôi nhớ ra, anh Q. thú y sĩ được đào luyện từ trường Quân Y là bạn tôi
lâu ngày. Chúng tôi học với nhau năm Đệ Nhất tức lớp 12. Sau khi đậu Tú tài II,
chúng tôi cùng ghi danh vào trường Đại học Khoa học. Tôi theo ban Tóan ra
làm nghề godautre, còn anh học Lý Hóa Sinh và thi vào trường Quân Y ra bác sĩ Thú
y. Chúng tôi gặp lại nhau khi anh được bổ nhiệm về Sở Thú Y đô thành đường Yên
Đổ, trong đó có dịch vụ đi bắt chó lạc.
Ngồi
với tôi trong một quán thạch chè đường Phan đình Phùng, Q nói có ngày xe bắt về
cả hai, ba chục con chó vô chủ hoặc đi lạc. Chó nhốt lâu ngày rất tốn đồ ăn mà
ngân quĩ có hạn nên thường phải giải quyết bằng cách chích thuốc cho ngủ rồi
đem chôn tập thể nếu sau hai tuần chủ chó không đến nộp phạt chuộc chó về. Lúc
đó,Trung đội của tôi vốn chỉ là một trung đội yểm trợ quân xa đóng ở Sàigòn
nhưng cũng có khi chúng tôi đi ra những vùng phụ cận như Tây Ninh, Hậu Nghĩa
...để công tác. Tôi hỏi Q xin cờ tây cho Trung đội ăn thịt, có trở ngại gì
không? Q. nói, mặc sức đem xe đến mà bắt. Thế là thỉnh thỏang khi có giờ rỗi rảnh
một chút, tôi gọi điện thọai cho Q. xong bảo mấy đệ tử đến bắt chó, nhưng tôi
không cho bắt nhiều, chỉ mỗi lần một con, khi nào muốn đãi cả đại đội mới bắt
hai con. La-de Quân tiếp vụ, các thứ gia vị tôi bỏ tiền cho anh em đi mua, trực
gác đã sắp xếp đâu vào đấy, cả mấy chục người chúng tôi trải bạt ra sân chén
chú chén anh vô cùng hào sảng.
Như
trên đã nói, tôi đã dặn đi dặn lại. Tất cả vâng vâng dạ dạ ngon lành trước khi
ai về nhà nấy.
Nhưng
khỏang hơn tuần sau, một bữa thứ bảy đến phiên chú Mười, khi đang ngồi trò chuyện
tại bàn ăn, Mười cười cười bảo tôi:
“Ông thầy lại đây em cho coi cái này.”
Vừa
nói Mười vừa lại đứng bên cái tủ lạnh. Tôi theo Mười, vừa đứng trước tủ thì Mười
mở tủ ra cho tôi nhìn thấy một cái đầu chó lông cạo sạch sẽ, đang nhe hai hàm
răng trắng nhởn như răng ông da đen thuốc đánh răng Hynos ở Sàigòn. Tôi ngạc
nhiên nhưng rồi nghĩ liền ra, mấy đệ tử thân mến của tôi bất kể lời tôi dặn đã
bắt được con chó này làm thịt. Tôi chưa kịp nói gì thì thì cả bọn đã nhao nhao
lên:
“Tiết hãm đàng hòang ông thầy à. Đánh tiết canh, làm dồi, nướng chả, nấu rựa mận,
bó giò, nấu xáo ăn với bún. Thầy trò mình hôm nay phải thiệt say nghen ông thầy!”
Đã
đến nước này, tôi có lùi cũng không được mà có khi còn bị đồ đệ chê là ông thầy
không chịu chơi, không chịu làm đầu tầu cho đám đàn em. Tuy nhiên tôi nói họ phải
rất thận trọng vì nếu hàng xóm biết được thì rầy rà to:
“Không phải là tôi nhát nhưng các chú phải rất cẩn thận. Nhà mất chó nó sẽ đi tìm,
nó mà tìm ra báo Cảnh sát thì ở tù cả lũ, lại mang tiếng với người bản xứ nữa.
Đã lỡ rồi thì đành chịu vậy nhưng đây là lần chót, nghe các chú. Vả lại, theo
chỗ tôi biết, chó Mỹ thịt mủn và hôi vì chó Mỹ ăn thực phẩm riêng chứ không
ngon và thơm như chó ta, ăn cơm như người. Lúc ăn các chú sẽ thấy. Thế các chú
bắt nó bằng cách nào?”
“Tụi em thấy nó đi ở bên đường liền dùng xe cán. Chó cán xe, xe cán chó đấy mà ông
thầy.Xong vứt lên xe, đưa về nhà hãy còn nóng hổi, thế là lấy huyết. Không một
tiếng kêu. Êm thấm lắm.”
Tôi
đưa tiền cho Năm Gò Quao đi mua la-de và gia vị rồi về qua nhà trong khi
Chửng pha thịt làm các món. Mười bắc nồi nước luộc để lấy nước dùng đánh tiết
canh. Bà xã của Mười và hai, ba bà khác đã sẵn sàng để phụ. Lúc tôi trở qua thì
hai bà đang quạt chả, thơm tưng thơm lừng nhưng khói um lên muốn ngạt thở. Mười
bảo không dám đưa ra ngòai sợ lối xóm nghi, bể mánh. Tôi phải chịu là mấy ông đệ
tử của tôi làm nhiệm vụ quân nhân - ngày còn ở trong nước - cũng hăng mà nhậu
cũng không thua ai.
Buổi
chiều hôm đó, chúng tôi quây quần thưởng thức món mộc tồn nơi xứ lạ quê người.
Y như tôi nói, phẩm chất thịt chó ta và thịt chó Mỹ một trời một vực. Tôi nhấm
nháp chút đỉnh còn chỉ uống cầm chừng nhưng tôi phải ngồi cho anh em vui. Hơn
chục người, trẻ con người lớn thưởng thức tận tình các món vừa làm xong chỉ phải
cái thiếu gia vị như riềng, rau thơm, lá mơ mà mãi ít năm sau các chợ Việt
ở quận Cam, Cali mới có. Nhưng thôi, được voi đòi tiên, biết thế nào thỏa mãn
được mọi thứ. Vừa cầm li la-de nhâm nhi tôi vừa ngẫm nghĩ chắc chủ con chó bị mất
đi tìm nó dữ lắm và biết đâu họ không trình Cảnh Sát? Nhưng mọi chuyện đã được
bảo mật phòng gian tối đa đến nỗi các bà mẹ phải dặn dò cẩn thận những đứa con
đã đi học chớ có nói với bạn hay cô giáo rằng gia đình tôi mới ăn “real hot
dog” mà bỏ mạng sa tràng đấy nhé!
Đó
là lần đầu và cũng là lần cuối thầy trò tôi biểu diễn “Văn hóa Sống Trên
Đời” ngay trên cái xứ mà cầy tơ được coi trọng rất mực này.
Little
Saigon, CA Tân Xuân Bính Tuất 2006
GS Xuân Vũ TRẦN ĐÌNH NGỌC
GHI CHÚ: Hot dog (chó nóng) ở
Mỹ là một lọai súc-sích làm bằng thịt heo hay bò, chiên hoặc nướng lên ăn kèm
bánh mì, khá ngon. Real hot dog: thịt chó thật, không phải súc-sích nữa.
Bao giờ người Việt mình mới hiểu
là không nên ăn thịt chó ?
Nhiều
con vật còn trung thành hơn con người.
On
Thu, 6/27/13, Nhu Nguyet <> wrote:
Chú Chó Trung Thành
Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ
lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình
tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn
phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg. Cũng như nhiều gia đình khác,
những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh!
Mỗi lần muốn gọ...i, chỉ cần: "Êu, Êu" là nó xuất hiện, ve vẩy
đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương! Thường
ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu
hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là
người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng
rỡ.
Từ
ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con
chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ
ấm cho nó. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông.
Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc
xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn
quẩn bên ông.
Một
hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên
cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần
một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà
tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn
nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no. Mẹ tôi bàn với
cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng
con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ
khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất
cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng
như thêm một miệng ăn nữa. "Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm
nuôi nó mãi?" - Mẹ tôi bảo thế.
Có
một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó,
thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được
tiếng người? Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm
chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho đến khi cha tôi nước
mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn
nó chui ra! Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và
bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha
tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến
lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng!...
Người
ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên
giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài
thườn thượt... Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông
vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì
phải tiếc quá như vậy? Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi! Cha tôi
không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng...
Đêm
hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi
thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống
thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao,
buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm... Vào khoảng 2-3
giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở
vách cửa. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có
con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm?
Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm
phải rình mò? Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó
đã trở về! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo
cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội
nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn
dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút,
bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào
nhau. Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau
sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn
để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn. Lạ
lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm
ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần
ngại... Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi
vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và
một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.
Sáng
hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi.
Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả
lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết
đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.
Từ
hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa
cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song
ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được
điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng
với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi
theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi
theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông
về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà!
Khoảng
chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng
lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không
rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo
lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc
từ hàng trăm năm nay. Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm
lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều
lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn
bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới
cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương,
dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới
đìa.
Hôm
đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc
một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết
định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp
hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị
lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt
vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi. Ngay
lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ
con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa.
Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó
làm con chó gãy đôi xương sống! Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn.
Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân
nhão! Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang
theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn
quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân
chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm
chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo,
mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con
chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm.
Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn.
Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và
chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố
định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp
chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi
thuốc và băng bó vết thương.
Buổi
chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào
quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít
khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó
ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào. Cả
xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá
khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa.
Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của
trời! Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống
cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con
người!
Khoảng
hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy
nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi
lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối
của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được
theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau
những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.
Từ
dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của
ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai
miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như
nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy
rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không
muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình
như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm!.
Cuộc
sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào
cũng nhắc đến chuyện con trăn! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại
tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời! Tôi còn nhớ như in, hôm
đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông.
Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để
ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó ướt lút thút
như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa
dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được
con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất
cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà? Chỉ đến khi
trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ
lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như
hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm...
Sáng
hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không
còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào,
nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở
về? Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó
không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt heo luộc, những
thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt
nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm
ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.
Sau
hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng
tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó
ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.
Rồi
một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra
nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi
người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình: Con chó liệt đã nằm
chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ,
hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm
nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt...
Chúng
tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó
dưới chân mộ cha tôi... Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng
miên man nghĩ ngợi: Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu
bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của
Người đã mãi mãi đi theo Người...
Khổng
Văn Đương
On Sun, 6/30/13, VietHai Tran <>
wrote:
From: VietHai Tran <>
Subject: Re: Chú Chó Trung Thành
Date: Sunday, June 30, 2013, 7:50 AM
Bài viết cảm động “Chú Chó
Trung Thành”
Nai đồng
quê, văn hóa ẩm thực không chính danh
Chó BBQ,
chó nướng, chó quay da dòn đến món chó luộc mắm tôm truyền thống.
Bạn có
khi nào ghé qua phố xá Tôn Thọ Tường trong khu Chợ Lớn, Việt Nam ?
Phố thương mại vang danh các món BBQ của quận 5 ngày trước có những
cửa hiệu bày biện vịt, gà, bồ câu, ngỗng, heo, và sau 75 báo chí mô
tả có luôn món chó quay, chó BBQ da dòn với mùi rượu Mai Quế Lộ
cùng tiêu tỏi, hành, ngũ vị bay thơm lừng khứu giác. Xơi heo quay
tòan mỡ ngậy mỡ sa đe dọa sự an toàn cho con tim, chó hay nai đồng
quê barbecued bởi luật tạo hóa cho chó dáng thon thả, bắt mắt đối
tượng hơn, không phương phi, dáng sồ sề kém thẩm mỹ, vì kém diet giữ
slim shape, giữ eo corp như mấy trự trư bát giới vốn lắm
cholesterol. Eo ơi, bỏ quên con tim ngất ngây khứu giác ở phố hàng
quay Tôn Thọ Tường mấy hồi...
Kế đến,
thịt chó luộc là mồi nhâu bắt cảm giác cao, còn dồi chó nên dùng
kèm với lá mơ, rau sống và mắm tôm, đệm vị riềng,.. Khi chiều xuống,
tan sở làm ra, vọt ngay đến điểm hẹn tại một quán thịt chó bình dân
ở miệt Ngả Tư Bảy Hiền hay Ngã Ba Ông Tạ cho ta hương vị thòm thèm
nai đồng quê. Xơi thịt chó là nên đi kèm với rượu đế hay đặc sản
whisky Bà Quẹo; hoặc la-de Con Cọp của hãng BGI, còn bảnh hơn có
bia ngoại như Budweiser, Miller, hay Hamm's, do các chú GIs nhảy dù
những chuyến hàng chôm từ PX quân đội Huê Kỳ (Military Postal
Exchange).
Thực khách chuộng món nai đồng quê đánh giá cao loại mồi
nhậu này, vì theo họ thì nó là loại bắt rượu nhất. Thịt chó cũng là
loại thịt duy nhất có thể gây tính "nghiện", ăn riết hóa
nghiền chớ phải giỡn sao ? Nếu đã biết ăn thịt chó nếu một thời
gian thiếu vắng không ăn lại thì quả là nhà mùa chua hề lên tỉnh
bao giờ cả, ăn hồm trước đến hồn xao xuyến dạ dày, khiến bao tử dày
vò đòi nạp mồi ngay ngày hôm sau, để thực khách mãi cái cảm giác
thòm thèm xôn xao khi trở lại món thịt chó.
Tuy
nhiên, theo quan niệm của nhiều thực khác chuộng món thịt chó, nhất
là đối tượng vốn thích những tụ điểm "chén chú chén anh",
ăn thịt chó được dân bợm tửu coi là sẽ bị xui xẻo nên người ta chỉ
thường ăn vào những ngày cuối tháng, từ khoảng ngày 22 Âm lịch trở
đi nhằm "giải xui". Những ngày cuối năm âm lịch thịt chó
rất đắt hàng. uối gtha1n g, cuối năm cái xui phải ra đi, chả nhẽ
xui xẻo cắm dùi ở hoài thì làm sao sống nữa đây hỡ trời ? Do thịt
chó có tính "ôn" ăn với các gia vị tính nóng đi kèm.
Trong ca dao Việt Nam có gián tiếp nhắc nhở đến món thịt chó cùng
gia vị như riềng đi kèm theo:
"Con
gà cục tác lá chanh
Con lợn
ủn ỉn mua hành cho tôi
Con
chó khóc đứng khóc ngồi
Bà ơi
đi chợ mua tôi đồng riềng"
thơ về
chó và lá mơ,
"Cho
ta ước một bình nguyên đầy chó,
Một
ruộng đồng bát ngát lá mơ xanh
Một
vườn rau trồng đầy ớt, sả, hành
Một rừng
bia rừng rượu ôi xả láng"
"Lạy
ông Giời cho con đùi chó nướng
Chả
chìa, rựa mận riềng sả lá mơ
Mộc tồn
quay bên dồi thơm ngào ngạt
Tạ ơn
Giới hạnh phúc chỉ đấy thôi !"
Hiện ở
Việt Nam số người yêu chuộng mode xơi nai đồng quê càng nhiều hơn,
theo lý thuyết kinh tế của Adam Smith hay David Ricardo về thuyết
cơ bản cung cầu, nếu cung luôn khiếm hụt so với cầu cao, người cần
chó chui từ các nơi khác lặng lẽ tuôn vào để quân bình lý luận thuyết
kinh tế; Vì thế nên ngoài việc nuôi chó cho thịt có khi còn phải
cho nhập nội chui từ xứ Thái, xứ trường chay rau quả làm chuẩn thì
chó theo thuyết cung cầu sẽ tạo ra chó thặng dư mà chó lên bàn tiệc
lại ít quá, theo lý thuyết đã dẫn chuyển sự thặng dư nai đồng quê
sang cứu bồ đất lâng quốc vậy. Dễ hiểu thôi. Ngoài xứ chay rau quả
Thái quốc, hai xứ chay Lào quốc, cùng xứ Chùa Tháp cũng chuộng rau
quả nên là nguồn cung ứng nai đồng quê khả tín.
Do nhu cầu
cao, báo chí bên nhà cùng tin quốc tế loan báo nạn "cẫu tặc",
bắt trộm chó cũng hoành hành rất dữ dội, có nơi "cẩu tặc"
được mùa ví bọn chúng tinh ranh mát tay. Tuy vậy, cũng có thất bại
nặng nề, vì khi ra đi "cẩu tặc" quên cúng tổ hay sao đó để
tổ trác te tua. Tin tại Thanh Hóa hai "cẩu tặc" ra tay
chôm chó không xem kỹ lịch tử vi, nên một cẩu tặc bị sao Kế Đô chiếu
mạng bi dân làng vây đánh chết tươi ngay tại chỗ, "cẩu tặc"
thứ hai may mắn hơn được thoát hiểm ra khỏi tử lộ của sao Thái Bạch
hay sao La Hầu khi bỏ của (xe gắn máy) chạy lấy người. Tiếc las2
dân làng Thanh Hóa không có đội "Cammando K9 Team" như
Huê Kỳ.
Sự văn
minh của nhân loại chống báng việc ăn thịt chó và giết chó xẻ thịt
cho nhu cầu ẩm thực không nên được khuyến khích vì nó bị nhiều xã hội
mạnh mẽ lên án và đánh giá là dã man và sự việc như vậy còn có tác
dụng khuyến khích nạn bắt trộm chó phát triển nạn tàn sát những người
bạn dễ thương của con người.
Gần đây
nhu cầu tiêu thụ chó gia tăng tại việtt nam, tin CNN cho bản tin điều
tra không đẹp về quê hương ngày hôm nay luật lệ tơi tả và thú ẩm thực
ngon miệng nhưng trên trường quốc tế là tai tiếng bất lợi khi mà
nơi đó bây giờ là "Địa ngục trần gian” của loài chó. Nhu cầu
thịt chó tăng cao, hằng năm những tay buôn lậu tuồn khoảng 20.000
con chó còn sống từ phía đông bắc Thái Lan qua vào đất Việt để bán
cho các nhà hàng tại Việt Nam. Hàng ngàn lồng chó được xếp lên các
xe tải.
Mỗi chiếc lồng sắt chứa khoảng 20 con hoặc nhiều hơn. Chúng
không được uống nước và luôn ở trong chỗ chận hẹp nên trạng thái
tranh sống phải tấn công chó bên cạnh vì bị kích động do bản năng
sinh tồn. Thậm chí một số con còn chết vì nghẹt thở trong cuộc hành
trình vượt biên kéo dài nhiều ngày từ Thái Lan sang đất Việt Nam. Một
nhân viên là người đứng đầu tổ chức bảo vệ súc vật châu Á tại Việt
Nam cho báo chí biết: “Rõ ràng khi bạn xếp những con chó chồng lên
nhau, chúng sẽ cắn nhau vì sự khó chịu. Bất kỳ sự cử động nào trong
không gian chật chội đó cũng đều khiến một con chó sẵn sàng cắn lại
con bên cạnh”.
“Chó là
loài động vật rất thông minh. Nếu bạn giết một con ngay trước mắt
những con khác, chúng đều biết những gì đang diễn ra”, ông
Bendixsen cho biết tiếp. Vì nhu cầu chó bán cao giá tại Việt Nam,
vì người Thái ít xơi chó nên những tay buôn chó săn tìm từ những
con chó hoang đến chó được nuôi trong gia đình. Chúng sẽ được vận
chuyển lậu tới Việt Nam hoặc xa hơn tới thị trường xứ Tàu Ô, nơi thịt
chó được tiêu thụ mạnh mẽ.
Ông John
Dalley làm việc tại cơ quan Soi Dog Foundation có trụ sở tại
Phuket, ước tính 98% số lượng chó này đã được thuần hóa và thậm chí
một số con vẫn còn đeo vòng ở cổ và đã được huấn luyện để làm theo
mệnh lệnh con người. Hơn nữa, điểm đặc biệt, theo ông Dalley, những
con chó nuôi thông thường là mục tiêu của những tên săn trộm vì
chúng có máu ngoại giao cao, rất thân thiện và bị các mẹ mìn bắt dễ
dàng hơn những loại chó khác, tính vốn dữ dằn, hiếu chiến, khó chịu,
và ít máu hiếu khách, ít máu lịch sự ngoại giao hơn chó thân mật.
Những
tay buôn chó tìm săn mua tất cả các loại chó nòi trong các vụ vận
chuyển chó bất hợp pháp bằng đường thủy tại Thái Lan, từ chó săn
lông vàng đến chó sục, loại chó săn rất thông minh, lông dài. Một số
được những con buôn lậu mua lại, một số khác bị bắt cóc trên hè phố,
trong những ngôi đền đài trước cửa tgu72 bi rộn g mở cho những bạn
thân của con người và bọtn "cẩu tặc" giăng mắt cú vọ bắt
luôn, thậm chí từ những khu công viên hay vườn hoa là tghie6n đường
của chó, cda61u chân "cẩu tặc" vẫn bén mảng bám gót theo
ra đến những nơi cư dân đông đùc trong phố.
Trước
đây, giá của những con chó hoang tương đương giá vài đô Obama.
Nhưng hiện nay, do nhu cầu tiêu thụ chó ngày một gia tăng, đặc biệt
vào mùa đông, thịt chó thông dông y được coi là có tính năng nhiệt
cao, một món ăn “làm ấm áp long thể bình an”, ấm áp luôn cho nhiều
cơ quan nội tạng dù có tính nhúc nhích hay không. Một con chó tại
Thái Lan có thể bán với giá 10 đô Obama. Con số này tăng gấp 6 lần
sau khi qua diễn trình hóa phép, chế biến thèm nhỏ dãi, thơm nứt
mũi tại các nhà hàng ở Việt Nam.
Các nhà
hoạt động tranh đấu bảo vệ súc vật ước tính mỗi năm số lượng chó được
tiêu thụ tại Việt Nam không thôi là hơn 1 triệu con bạn dân, một
con số có thể khiến cho bà đào Brigitte Bardot hay bà đào Sophia
Loren phải hoảng vía nhăn mặt. Buôn lậu chó hiện đang là ngành kinh
doanh thu lợi nhuận nhiều và nhanh đã bùng nổ đối với những nước
thuộc khu vực sông Mekong.
Tại Thái
Lan, ông Dalley cho quan điểm rằng vấn đề này không phải là cuộc
tranh cãi đúng sai về vấn đề ăn thịt chó, mà đây là những việc kinh
doanh bất chánh,- bất hợp pháp của nhũng tay tội phạm mà trị giá
hàng triệu đô la mỗi năm. Một số cảnh quay hình mà các chuyên viên
điều tra nhận được thật khủng khiếp. Đó là những hành động vô nhân
đạo và là địa ngục trần gian theo đúng nghĩa đen của nó.
Bài viết
trên do tài liệu báo chi trong xứ Việt cũng như các hãng tin quốc tế
giờ đây báo động nạn xơi thịt chó gia tăng kinh khủng khiến các tổ
chức bảo vệ súc vật trên thế giới đã theo dõi, dán mắt điều tra cái
tệ nạn này, ví dụ như tin do CCN cho khúc phim tài liệu, một phóng
sự về nạn thương mại, mua bán chó giết lấy thịt.
Đây là
bài viết dẫn nhập về loài chó vốn là giống súc vật thông minh, có
tình nghĩa và gần gủi với con người. Trên quan điểm xã hội học hay
dân số học hay phạm vi thực phẩm, vấn đề "sát sanh" hay
giết súc vật vì miếng ăn vì sinh tồn hay vì khoái khẩu có 2 mặt của
nó, một lập luận cho là "vật dưỡng nhân", một khi đà
dân số gia tăng cần thực phẩm, không giết động vật nhu cầu thức ăn
sẽ thiếu hụt; Và mặt khác của vấn đề, quan niệm thứ hai cho là lòai
chó khi ta nuôi và thương yêu, cảm hóa, thuần hóa chúng bằng con
tim bao dung rộng mở thì chó cũng có thể trả lễ lại cho chúng ta.
Ví dụ như những người mù do chó làm hướng đạo dẫn đường đi đó đây mỗi
ngày hay khi chủ gặp nguy khốn chó xông pha nhào ra bảo vệ chủ được
an toàn.
Đề cập về
tình nghĩa của loại chó, GS. Dương Ngọc Sum đã dẫn chứng câu nói bất
hủ của vị luật gia Gloria R. Allred, nổi tiếng và chuyên tranh đấu
cho nhân quyền khi cho là: "Tôi càng hiểu loài người bao
nhiêu, tôi càng thương loài chó bấy nhiêu"; Thực vậy, loài chó
vốn trung thành, biểu lộ tình cảm quyến luyến với chủ nhân, trích
ngoại ngữ, ("The more I know about men the more I like
dogs", "A mesure que je connais les hommes, de plus en
plus j'aime bien les chiens!")
Sau đây
là những bài viết khá cảm động cho thấy loài chò lầ giống vật sống
có nghĩa thủy chung và rất tình cảm.
Việt Hải Los Angeles
On Sat, 6/29/13, Sum Duong <
Subject: Fw: Bài đọc cảm động /Chú Chó Trung Thành
To: "VietHai Tran" <
Date: Saturday, June 29, 2013, 7:54 AM
Dear các Em
Một nhà vân nước ngoài,
Thầy không nhớ tên, đã phát biểu (có lẽ quá đáng chăng? Con người
cũng có nhiều người
"dễ thương thấy mồ!"):
-"A mesure que je connais les hommes, de plus en plus j'aime
bien les chiens!"
(Tạm dịch: "Tôi
càng hiểu loài người bao nhiêu, tôi càng thương loài chó bấy nhiêu")
Thầy SUM
----- Forwarded Message -----
From: VietHai Tran <
Sent:
Thursday, June 27, 2013 10:53 PM
Subject: Re:
Bài đọc cảm động /Chú Chó Trung Thành
Mes
Pensées
En
parlant de mes amis, nous parlons souvent de nombreuses
questions au téléphone, l'un d'eux m'a dit qu'elle est
tellement fou de chiens, et elle ne peut pas vivre sans un
chien autour d'elle et elle n'a vraiment pas besoin d'un homme
à côté d'elle à tous. hic hic ... Je suis très triste pour sa
pensée sincère, puisque je n'ai pas de chance dans son choix
... Pourquoi est-il déraisonnable? Chả nhẽ chó hơn người sao?
Je ne
sais pas sa vraie nature créée par le Dieu céleste, et le but
de son existence sur la terre. Je suppose qu'elle est quelqu'un
qui a un cœur qui aime et a besoin d'un type spécial de
l'amour, aime les animaux et surtout les chiens. En fait, dans
mon propre point de vue il n'y a rien de mal à cela, mais sans
un homme comment beaucoup plus difficile qu'une femme peut gérer
et contrôler dans la vie, dans de nombreux cas, les chiens ne
peut pas faire un bon temps, ou une bonne vie dans de nombreux
significations que l'homme peut, d'accord nhé ?
Alors
qu'une femme devrait avoir, dans le même temps, un homme et
beaucoup de chiens comme elle veut équilibrer sa vie.
VHLA
Chỉ
Là Giấc Mơ Qua - Thúy Vi, Như Mai
Chỉ
Là Giấc Mơ Qua - Họa Mi, Ái Vân::
From: VietHai Tran
<viethai712@yahoo.com>
Subject: Re: [tinhbanghuu] Bài đọc cảm động /Chú Chó Trung
Thành
Date: Thursday, June 27, 2013, 8:22 PM
Bài đọc
cảm động /Chú Chó Trung Thành
Brigitte
Bardot: "Aimez-moi, aimez mon chien!"
Chú
Chó Trung Thành
Hồi tôi
mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con
chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp.
Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường
xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ
lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg. Cũng
như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không
được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh! Mỗi lần
muốn gọ...i, chỉ cần: "Êu, Êu" là nó xuất
hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như
tiếng rên, rất dễ thương! Thường ngày, khi không có
ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu
hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng
báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông
ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.
Từ ngày
mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn.
Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy
một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó.
Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho
sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông
vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó
gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn
quẩn bên ông.
Một hôm có
hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói,
họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày
mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt!
Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà
tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi,
mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không
ngày nào thật sự được ăn no. Mẹ tôi bàn với cha tôi
lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó
ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài
cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái
xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất
cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy
nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. "Người
chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi?" -
Mẹ tôi bảo thế.
Có một
điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý
bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất!
Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người? Chúng tôi
chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm
chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho
đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi,
thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui
ra! Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống,
trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu
rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc.
Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến
lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải
bán cậu Vàng!...
Người ta
trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha
tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua
trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt...
Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần
ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là
một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy? Nếu muốn,
lại sẽ mua con khác về nuôi! Cha tôi không nói gì, cứ
nằm im như người bệnh nặng...
Đêm hôm đó
trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một
mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật
diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc,
quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao,
buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý
lắm... Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu
tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa.
Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên
không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm? Mà nhà tôi
có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò? Nhưng chỉ một
phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở
về! Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi
vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào
nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ
nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn
dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và
bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn.
Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau. Cha
tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô
lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi
nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi
chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn. Lạ
lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên
được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt
nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại... Một lúc
sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi
vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông
lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc
ngủ bình thản và ngon lành.
Sáng hôm
sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở
lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn
biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người
mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết
đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai
nữa.
Từ hôm đó
chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha
tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu
chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành
cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu
được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác
hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn
bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như
hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho
nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng,
chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối
rít rồi theo ông vào nhà!
Khoảng
chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn
trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất
đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa
bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa
để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy
bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay.
Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới
thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới
đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân
người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá,
kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới
cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như
một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc
nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.
Hôm đó cha
tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên
bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một
con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc
đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn,
đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con
trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một
tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân
cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ
hãi. Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào,
nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm
răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con
trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng
một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương sống! Mõm
con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó
ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống
phân nhão! Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông
vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu
con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được
một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để
máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con
chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn
thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt
nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết.
Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó
nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm. Ông bảo tôi đi
tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi
chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm
thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá,
sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định
xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới
thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho
ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó
vết thương.
Buổi
chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập
hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang
trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn.
Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho
con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi,
nhưng không ăn một miếng nào. Cả xóm tôi đem con trăn
ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn,
nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được
vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra
mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời! Chỉ riêng
cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ
sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem
chôn nó như chôn một con người!
Khoảng hai
tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã
bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên
hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ
dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu
gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên,
từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp
khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày
ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình
thường.
Từ dạo đó,
cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và
ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng
hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng
dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó
biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó
không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi,
nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra
nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân
giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới
thấy yên tâm!.
Cuộc sống
như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và
gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn! Cho
đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi
bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời! Tôi còn nhớ như in,
hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng
người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì,
dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để ý trong
dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó
ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết
trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc
sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được
con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa
địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó
lại tự lê lết về nhà? Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp
đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ
lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ
nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng
ở đâu xa lắm...
Sáng hôm
sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra
cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường
nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu
ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có
trở về? Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó
ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ
gì. Tôi đem mấy miếng thịt heo luộc, những thứ
mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra
chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không
chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng,
kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.
Sau hơn
một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi.
Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi
cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút.
Nhưng nó không màng.
Rồi một
buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh,
chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá
trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến
mức không còn tin ở mắt mình: Con chó liệt đã nằm
chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm
lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang
quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh
thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt...
Chúng tôi
trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử
tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi... Tôi cắm mấy nén
nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ
ngợi: Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu
diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy
ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo
Người...
Khổng Văn
Đương
Câu
chuyện về chú chó Hachiko
Câu chuyện
xảy ra vào năm 1925, tại nhà ga Shibuya. Chú chó
Hachiko được giáo sư Ueno của trường đại học Tokyo
nuôi dưỡng. Gia đình giáo sư không có con trai (không
biết có một người con gái như trong phim hay không)
nên ông coi Hachiko như con ruột.
Hachiko là 1 chú chó nhỏ ,lông màu
trắng chào đời vào tháng 11 năm 1923 ở tỉnh
Akita , Nhật Bản.
Câu chuyện
xảy ra vào năm 1925, tại nhà ga Shibuya.
Chú chó Hachiko được giáo sư Ueno của trường đại học
Tokyo nuôi dưỡng. Gia đình giáo sư không có con trai
(không biết có một người con gái như trong phim hay
không) nên ông coi Hachiko như con ruột.
Hàng ngày như thường lệ, cứ mỗi buổi sáng là Hachiko
tiễn giáo sư Ueno Eizaburo đến nhà ga để ông lên tàu
đi làm và cả hai đều đi bộ tới nhà ga Shibuya,
chú chó trung thành Hachi, có nick name là
Hachiko. Hachiko không được phép theo giáo sư
đến Đại Học Hoàng Gia (nay là Đại Học Tokyo), nơi ông
đang giảng dạy, và chiều cũng vậy, cứ đến 3 giờ
chiều , Hachiko lại ra nhà ga đợi giáo sư về.
Nhưng vào ngày 12 tháng 5 năm đó, giáo sư Ueno đã qua
đời sau một cơn đột quỵ khi đang hảng bài trên giảng
đường ở trường đại học và mãi mãi không thể trở về
được. Còn Hachiko cứ như mọi ngày, vẫn đến nhà ga vào
lúc 3 giờ chiều để đón chủ nhânvề. Nhưng hôm đó đã
qua 3 giờ rất lâu, bao nhiêu chuyến tàu đã đi qua,
trời đã tối mà không thấy giáo sư về. Và Hachiko, chú
cho trung thành không hề nản lòng, Hachiko vẫn đứng
đợi và đợi.
Hachiko linh cảm rằng có chuyện gì chẳng lành đã xảy
ra, tuy vậy nó vẫn ra ga đợi chủ nhân vào lúc 3
giờ chiều mỗi ngày. Chẳng bao lâu sau, những
người xung quanh bắt đầu để ý tới sự chờ đợi vô vọng
của Hachiko đối với người chủ nhân đã qua đời
của mình. Lần lượt, từ người làm vườn trước đây của
giáo sư, đến giám đốc nhà ga và những người dân trong
vùng đã cho Hachiko ăn và thay phiên nhau chăm sóc
nó. Câu chuyện về chú chó trung thành nhanh chóng
được lan truyền khắp nơi và Hachiko được coi như một
tấm gương sáng về lòng trung thành. Người ta tìm đến
Shibuya chỉ để nhìn Hachiko, cho nó ăn, hoặc nhẹ
nhàng xoa đầu vào đầu nó để chúc may mắn. Năm 1932,
khi Hachiko đợi chủ nhân được 7 năm, 1 sinh viên của
giáo sư Ueno đã viết 1 bài báo kể về chuyện cảm động
này và gửi đăng ở 1 tờ báo lớn ở Tokyo . Ngay lập tức
có rất nhiều người quan tâm lo lắng cho chú chó trung
thành này. Cũng từ Hachiko mà người Nhật thêm vào từ
điển từ mới “chukhen” – chú chó nhỏ trung thành .
Bên
cạnh đó người ta còn có thuyết rằng bởi lẽ cạnh nơi
Hachiko ngày ngày vẫn ra ngóng đợi chủ nhân của mình
có một nhà hàng thịt nướng và Hichiko rất giỏi trong
việc gỡ những miếng thịt ra khỏi que dùng để nướng
nên được khách hàng thường cho chú ăn . Vì lẽ đó lý
do mà hàng ngày chú ra đây đợi chủ là vì những miếng
thịt nướng đó .
Nhiều ngày, nhiều tháng, rồi nhiều năm trôi qua,
Hachiko vẫn có mặt đều đặn ở nhà ga vào lúc 3h chiều,
mặc dù nó đã bị bệnh viêm khớp và đã quá già yếu rồi.
Cuối cùng vào ngày 8 tháng 3 năm 1935 (1 số tài liệu
nói là ngày 8 tháng 3 năm 1935), gần 11 năm kể từ
ngày nó nhìn thấy chủ nhân lần cuối cùng, người ta
tìm thấy Hachiko -lúc đó đã 12 tuổi -nằm gục chết tại
chính cái nơi mà nó đã đứng đợi chủ nhân của mình
trong suốt nhiều năm.
++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
No comments:
Post a Comment