-----
Forwarded Message -----From:To:
Sent: Sunday, July 28, 2013 8:54 AM
Subject: 1 bài ngắn: Dấu Hỏi & Dấu Ngã - Cao Chánh Cương
Sent: Sunday, July 28, 2013 8:54 AM
Subject: 1 bài ngắn: Dấu Hỏi & Dấu Ngã - Cao Chánh Cương
DẤU HỎI DẤU NGÃ - CAO CHÁNH CƯƠNG
(06/13/2013
05:55 AM) (Xem: 232)
DẤU
HỎI DẤU NGÃ
Văn hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú. Một trong những nguồn phong phú vô ngàn mà trên thế giới không ai có, đó là ý nghĩa về dấu hỏi ngã Thật thế, dấu hỏi ngã trong tiếng Việt đóng một vai trò quan trọng. Viết sai dấu hỏi ngã sẽ làm đảo ngược và có khi vô cùng tai hại cho văn chương và văn hóa Việt Nam.
Chúng tôi xin đơn cử một vài trường hợp như sau: Danh từ nhân sĩ, chữ sĩ phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một vị chính khách có kiến thức văn hóa chính tri... , nhưng nếu vô tình chúng ta viết nhân sỉ, chữ sỉ với dấu hỏi thì ý nghĩa của danh từ nhân sĩ sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ sĩ với dấu hỏi có nghĩa là nhục sĩ và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn.
Một
chữ thông thường khác như là hai chữ sửa chữa, nếu bỏ đi dấu hỏi ngã sẽ
có nhiều ý khác nhau: sửa chữa (sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã) tức là chúng ta sửa
lại một cái gì bị hư hỏng, thí dụ sửa chữa xe hơi. Nhưng nếu cho dấu ngã vào
thành chữ sữa và dấu hỏi trên chữ chửa tức có nghĩa là sữa của
những người đàn bà có thai nghén.
Người sai lỗi nhiều
nhất về viết sai dấu hỏi ngã là người miền Nam và Trung (người viết bài này là
người miền Trung).May mắn nhất là người thuộc miền Bắc khi sinh ra là nói và
viết dấu hỏi ngã không cần phải suy nghĩ gì cả. Nhưng khốn nỗi có khi hỏi họ
tại sao chữ này viết dấu hỏi chữ kia lại đánh dấu ngã thì họ lại không cắt nghĩa
được mà chỉ nở một nụ cười trên môi...
Bài viết này nhằm mục đích đóng góp
một vài qui luật về dấu hỏi ngã của tiếng mẹ đẻ Việt Nam chúng ta.
Dấu hỏi ngã được căn cứ vào ba qui
luật căn bản: Luật bằng trắc, chữ Hán Việt và các qui luật ngoại lệ.
A. LUẬT BẰNG
TRẮC
Qui luật bằng trắc phải được hiểu
theo ba qui ước sau.
1. Luật lập láy
Danh từ lập láy tức là
một chữ có nghĩa nhưng chữ ghép đi theo chữ kia không có nghĩa gì cả.
Thí dụ: vui vẻ, chữ vui có nghĩa mà chữ vẻ lại không nghĩa, chữ mạnh mẽ, chữ mạnh có nghĩa nhưng chữ mẽ lại không hề mang một ý nghĩa nào hết, hoặc chữ lặng lẽ, vẻ vang...
2. Luật trắc
Không dấu và dấu sắc đi
theo với danh từ lập láy thì chữ đó viết bằng dấu hỏi (ngang sắc hỏi).
Thí dụ:
Hớn hở: chữ hớn có dấu sắc, thì chữ
hở phải là dấu hỏi.
Vui vẻ: chữ vui không dấu, thì chữ
vẻ đương nhiên phải dấu hỏi.
Hỏi han: chữ han không dấu, như thế
chữ hỏi phải có dấu hỏi.
Vớ vẩn: chữ vớ là dấu sắc thì chữ
vẩn phải có dấu hỏi.
Tương tự như mắng mỏ, ngớ ngẩn, hở
hang,...
3. Luật bằng
Dấu huyền và dấu nặng đi
theo một danh từ lập láy thì được viết bằng dấu ngã (huyền nặng ngã).
Thí dụ:
Sẵn sàng: chữ sàng có dấu huyền thì
chữ sẵn phải là dấu ngã.
Ngỡ ngàng: chữ ngàng với dấu huyền
thì chữ ngỡ phải để dấu ngã.
Mạnh mẽ: chữ mãnh có dấu nặng, do đó
chữ mẽ phải viết dấu ngã.
Tương tự như các trường hợp lặng lẽ,
vững vàng,...
B. CHỮ HÁN VIỆT
Văn chương Việt Nam sử
dụng rất nhiều từ Hán Việt, chúng ta hay quen dùng hằng ngày nên cứ xem như là
tiếng Việt hoàn toàn. Thí dụ như các chữ thành kiến, lữ hành, lãng du, viễn
xứ,... tất cả đều do chữ Hán mà ra.
Đối với chữ Hán Việt
được sử dụng trong văn chương Việt Nam, luật về đánh dấu hỏi ngã được qui định
như sau:
Tất cả những chữ Hán
Việt nào bắt đầu bằng các chữ D, L, V, M và N đều viết bằng dấu ngã,
các chữ Hán Việt khác không bắt đầu bằng năm mẫu tự này sẽ được
viết bằng dấu hỏi.
Thí dụ:
Dĩ vãng:
hai chữ này phải viết dấu ngã vì dĩ vãng không những là hán tự mà còn bắt đầu
bằng chữ D và V.
Vĩ đại:
vĩ có dấu ngã vì chữ vĩ bắt đầu với mẫu tự V.
Ngẫu nhiên:
chữ ngẫu dấu ngã vì áp dụng qui luật Hán Việt nói trên.
Lẽ phải:
lẽ dấu ngã vì chữ L, phải dấu hỏi vì có chữ P.
Tư tưởng:
chữ tưởng phải viết dấu hỏi vì vần T đứng đầu.
Tương tự như: lữ hành,
vĩnh viễn,...
Để có thể nhớ luật Hán tự
dễ dàng, chúng tôi đặt một câu châm ngôn như thế này:
"Dân Là Vận Mệnh
Nước"
để dễ nhớ mỗi khi muốn
sử dụng qui luật Hán tự nói trên.
C. CÁC QUI ƯỚC
KHÁC
1. Trạng từ (adverb)
Các chữ về trạng từ
thường viết bằng dấu ngã.
Thí dụ:
Thôi thế cũng
được.Trạng từ cũng viết với dấu ngã.
Xin anh đừng trách em
nữa.Trạng tự nữa viết với dấu ngã.
Chắc anh đã mệt lắm
rồi.Trạng từ đã viết với dấu ngã.
2. Tên họ cá nhân và
quốc gia
Các họ của mỗi người và
tên của một quốc gia thường được viết bằng dấu ngã.
Thí dụ:
Đỗ đình Tuân, Lữ đình
Thông, Nguyễn ngọc Yến...
Các chữ Đỗ, Lữ, Nguyễn
đều viết bằng dấu ngã vì đây là danh xưng họ hàng.
Nước Mỹ, A phú Hãn,...
Các chữ Mỹ và Hãn phải
viết bằng dấu ngã vì đây là tên của một quốc gia.
3. Thừa trừ
Một qui ước thừa trừ ta
có thể dùng là đoán nghĩa để áp dụng theo luật lập láy và bằng trắc nói trên.
Thí dụ:
Anh bỏ em đi lẻ một
mình.Chữ lẻ viết dấu hỏi vì từ chữ lẻ loi mà ra, chữ loi không
dấu nên chữ lẻ viết với dấu hỏi.
Anh này trông thật
khỏe mạnh, chữ khỏe ở đây có dấu hỏi vì do từ khỏe khoắn mà ra,
khoắn dấu sắc thì khỏe phải dấu hỏi.
D. KẾT LUẬN
Văn chương là linh hồn
của nền văn hóa, viết sai dấu hỏi ngã có thể làm sai lạc cả câu văn, đó là chưa
kể đến nhiều sự hiểu lầm tai hại cho chính mình và người khác cũng như các việc
trọng đại. Không gì khó chịu cho bằng khi đọc một cuốn truyện hay nhưng dấu hỏi
ngã không được chỉnh tề.
Một ký giả người miền
Nam trong câu chuyện thân mật tại một quán phở thuộc vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn
đã thành thật công nhận điều thiếu sót và tầm quan trọng của dấu hỏi ngã trong
văn chương Việt Nam.Và cũng chính vị ký giả lão thành nói trên đã khuyến khích
chúng tôi viết bài này trong mục đích làm sống lại sự phong phú của nền văn
chương, văn hóa Việt Nam chúng ta, nhất là đối với những thế hệ trẻ hiện đang
lưu lạc trên xứ người.
CAO CHÁNH CƯƠNG
No comments:
Post a Comment