...Trái
lại, dân miền Bắc cũng “được” cảnh đổi đời, kiểu “chó nhảy bàn độc.” Biết bao
nhiêu anh từ thợ thiến heo, thợ bẻ ghi đường sắt, thợ đóng quan tài, hay làm
nghề khiêng cáng, bắt thịt heo lậu, đổi đời thành những cấp lãnh đạo đất nước,
giàu có lẫy lừng!
Những
chuyện đổi đời
Huy Phương
Tháng Tư
lại về, khơi lại biết bao nhiêu chuyện não lòng cho cả một dân tộc. Đây là giai
đoạn bi thảm nhất của miền Nam. Ba Mươi Tháng Tư được xem như một cơn đại hồng
thuỷ, nôm na nhân dân gọi là ngày đứt phim, ngày tan hàng, ngày quốc hận. Nhân
danh “cách mạng,” đây là một cuộc xâm lăng cướp bóc tàn bạo nhất trong lịch sử
dân tộc, mà chỉ có tập đoàn Cộng Sản Bắc Việt, nhắm vào những người miền Nam, đặc
biệt là những người thuộc chế độ VNCH, quân đội, hành chánh, đảng phái chính trị
và những người bị ghép vào tội phản động. Nếu không với lòng căm thù và ganh tỵ
vô biên từ chủ trương của đảng Cộng Sản, thì khó ai có thể tiến hành một cuộc
trả thù tàn bạo như thế.
Sau ngày
30 Tháng Tư, 1975, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu chiến dịch đàn áp có hệ thống với
hằng trăm ngàn vụ bắt bớ, đưa hàng trăm ngàn nhân viên quân cán chính miền Nam
đến các trại “cải tạo,” nơi mà “thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy!” Thực chất
đây là chuỗi trại tù tập trung theo kiểu Trung Cộng và Liên Xô, ở đó chúng giết
dần mòn tù nhân vì đói, bệnh tật, lao động cật lực và bị giết chóc.
Từ một miền
Nam an lạc, trù phú, Cộng Sản Bắc Việt sau ngày “giải phóng,” vơ vét các “chiến
lợi phẩm” mang về Hà Nội, đã biến mảnh đất này thành một nơi hoang tàn, bệnh tật,
đói rách, tối tăm, tưởng như nơi đây đã đi giật lùi về thời hoang dã.
Gia đình
các công viên chức miền Nam đã chịu một cuộc đổi đời bi đát.
Theo
Lewis Sorley (1999), một sử gia Hoa Kỳ có uy tín, có lẽ “65,000 người bị xử tử
bởi những người giải phóng họ” và “có đến 250,000 người bỏ mạng trong những trại
cải tạo tàn bạo.” Có hàng trăm trại tù cải tạo, rải trên khắp toàn cả nước, đã
đem lại bao nhiêu cảnh khốn cùng, nhà cửa bị tịch thu, lấn chiếm, thân nhân bị
đuổi việc, con cái học hành dở dang, vật vã kiếm miếng ăn, gia đình ly tán. Nhiều
gia đình nghe lời dụ dỗ đường mật của chính quyền mới, “đi kinh tế mới cho chồng
con mau về,” để trở thành những gia đình không nhà, cùng đường trở về sống vật
vờ trên hè phố.
Vụ “nạn
kiều” là một chương bi thảm nhất trong lịch sử loài người khi hàng trăm ngàn
người Việt gốc Hoa trong vùng cực Bắc Việt Nam năm 1978 bị cưỡng bức về Trung
Quốc. Những người Hoa nhiều đời trước, đã di dân đến Việt Nam làm ăn, sinh sống,
có người không biết tiếng Hoa, không biết quê hương, gốc gác mình nơi đâu, nay
được chỉ định khăn gói trở về Trung Quốc.
Ngay lúc
đó, Xuân Thuỷ, Bộ Trưởng Ngoại Giao còn trơ tráo tuyên bố: “Đảng và chính phủ
ta trước sau như một, vẫn đối xử với bà con người Hoa như bát nước đầy. Có một
số bà con trốn đi Trung Quốc, là do bọn xấu tác động! (Bên thắng Cuộc. T1-
121.)
Quảng
Ninh và Hải Phòng là hai nơi, người Việt gốc Hoa được chiếu cố nhiều nhất. Người
Hoa được chở xe lửa đi từ Hà Nội đi Lào Cai rồi đến Cầu Kiều. Nhưng số phận những
con người này ra sao?
Trước khi
qua biên giới, công an Việt Nam tịch thu mọi giấy tờ họ mang trong người. Về
phía TC đã có người ra đón, loa nhạc vang lừng. Nhưng đến ngày thứ ba, trở về
“tổ quốc” tất cả đều phải bắt buộc đăng ký đi nông trường trồng cao su Mông Xi,
ai chậm trễ sẽ phải đi Tây Tạng. 90% muốn trốn trở lại Việt Nam, nhưng đây là
điều bất khả.
Trước đó,
một phó chủ tịch tỉnh Quảng Ninh, gốc Hoa đã rạch bụng tự tử. Trần Vĩnh Ngọc,
hiệu trưởng một trường phổ thông, cha Hoa nhưng mẹ Việt, có vợ là người Việt gốc
Thái Bình. Bị xếp vào diện phải “trở về Trung Quốc,” kêu ca không được, Trần
Vĩnh Ngọc bắt ba đứa con “khăn quàng đỏ,” đội viên thiếu niên tiền phong Hồ Chí
Minh lên giường, lấy chăn bông đè cho đến chết. Sau đó, Ngọc lấy búa đập vỡ đầu
vợ và dùng dao đâm vào tim mình tự sát.
Không ít
một số người bị cơn bão “cải tạo công thương nghiệp” xô đẩy đến đường cùng, tán
gia, bại sản, bỏ thành phố, bị tù đày hay xô đuổi đi vùng “kinh tế mới,” hoặc bỏ
thây trên biển cả. Không phải như lúc ban đầu, đối tượng tư sản chỉ có 92 người,
mà gần 29,000 gia đình không phải chỉ là tư sản, mà trung thương, kể cả tiểu
thương chợ Trời cũng bị xoá sạch, do Đỗ Mười chủ trương cùng với bầy đàn kéo từ
Hà Nội vào.
Trong chiến
dịch này, Cộng Sản Bắc Việt chiếm thêm 5 tấn vàng và vô số kim cương, hột xoàn.
Số lượng người Sài Gòn bị mất hết tài sản tìm cách vượt biên hay bị cưỡng bức
đi kinh tế mới. Con số của Hà Nội đề ra là một triệu hai trăm ngàn người Sài
Gòn phải đi lập nghiệp ở các vùng kinh tế mới, tuy không thực hiện được chỉ
tiêu, nhưng Sài Gòn đã trở thành hoang vắng, một đô thị “tối lửa tắt đèn.”
Sau ngày
30 Tháng Tư năm 1975, cả một miền Nam “bị” cảnh đổi đời.
Trái lại,
dân miền Bắc cũng “được” cảnh đổi đời, kiểu “chó nhảy bàn độc.” Biết bao nhiêu
anh từ thợ thiến heo, thợ bẻ ghi đường sắt, thợ đóng quan tài, hay làm nghề
khiêng cáng, bắt thịt heo lậu, đổi đời thành những cấp lãnh đạo đất nước, giàu
có lẫy lừng!
Nguyễn
Quang Lập, một nhà văn của “Bên Thắng Cuộc” trong câu chuyện nội bộ của gia
đình ông, đã cho đây là “sự đổi đời kỳ diệu.”
“Sau ngày
30 Tháng Tư cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào
Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ
‘đã chết,’ giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi
còn sống, mừng hơn nữa là ‘triệu phú số một Sài Gòn.’ Ông bác tôi cũng mừng ba
tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là ‘gia đình bảy đảng viên Cộng Sản.’ Cuộc đoàn
tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên Cộng
Sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được
ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời kỳ diệu!” (
Huy Phương
__._,_.___
No comments:
Post a Comment