ĐỨC
PHẬT
VÀ CÁC
CÕI SIÊU HÌNH
Toàn Không
I). ĐỨC PHẬT VÀ THIÊN THẦN:
Một thời, Đức Phật giáo hóa tại Na Đà, xứ Kiền Trà, bấy giờ, Tôn giả A
Nan Đà ngồi một mình trong tịnh thất im lặng suy nghĩ:
“Thật là kỳ đặc, Đức Thế Tôn thụ ký cho từng người làm cho họ được nhiều lợi
ích, như đại Thần Già Già La sau khi chết, Đức Thế Tôn ghi nhận vị ấy dứt được
năm hạ phần kết sử, liền sinh về cõi Trời, khi hết tuổi thọ cõi Trời sẽ nhập
Niết Bàn, không phải trở lại cõi này nữa.
Tỳ Già Đà Lợi Châu, Già Lâu, Tẩu Bà Đầu v.v..., các đại Thần này sau khi qua
đời, Đức Thế Tôn đều thọ ký cho họ đã đoạn trừ năm hạ phần kết sử được sinh lên
cõi Trời, và sẽ diệt độ tại đó, không còn tái sinh lại đây nữa.
Lại có 50 người khác qua đời, Đức Thế Tôn thụ ký là họ sạch hết ba hạ
phần kết sử, chứng quả thứ hai là Tư Đà Hàm, chỉ còn tái sinh lại đây một lần
là dứt sạch gốc khổ. Đồng thời cũng có 50 vị khác qua đời, Đức Thế Tôn thọ ký họ
chứng quả thứ nhất Tu Đà Hoàn, không còn bị đọa vào ác đạo, chỉ còn tái sinh
vào cõi này 7 lần nữa, và cuối cùng sạch hết gốc khổ.
Hơn nữa, những đệ tử của Thế Tôn khi qua đời, Thế Tôn đều thụ ký cho họ rằng:
người này sinh chỗ này, người kia sinh chỗ kia. Người Ương Già, người Bạt Kỳ,
người Câu Tát La v.v..., 16 nước đều có người qua đời, Thế Tôn đều thọ ký cho họ
cả.
Trái lại, người nước Ma Kiệt, đều là dòng dõi Vua Chúa, đã có những người qua đời
không được Ngài thụ ký”.
Nghĩ rồi, Tôn giả A Nan Đà đứng lên đi đến chỗ Phật, cúi lễ rồi thưa:
- Vừa rồi, con ở
trong tịnh thất, im lặng suy nghĩ: “Thật là kỳ đặc, Đức Thế Tôn thụ ký cho từng
người, trong 16 nước đều có người qua đời đều được Thế Tôn thọ ký, làm lợi ích
cho họ, chỉ có nước Ma Kiệt, cũng có người qua đời nhưng chưa được Thế Tôn thụ
ký”, cúi mong Thế Tôn thọ ký cho họ, để làm lợi ích cho tất cả Trời Người.
Lại nữa Vua Tần Bà Sa La, Bình Sa Vương, là Cư sĩ, hết lòng tin Phật, có
nhiều sự cúng dàng Tam Bảo, nhưng chưa được Thế Tôn thọ ký, cúi xin Thế Tôn thụ
ký cho ông ta để làm lợi ích cho chúng sinh, thưa xong, Tôn giả A Nan Đà vái lạy
rồi lui đi.
Lúc ấy, Đức Phật vào thành Na Già khất thực, xong Ngài đến khu rừng ngồi
dưới gốc cây quán chiếu nơi thọ sinh của người nước Ma Kiệt đã qua đời. Khi đó
có một vị Thần đứng cách không xa Đức Phật, tự xưng tên mình và nói:
- Tôi tên là Xà Ni
Sa, tôi là Xà Ni Sa, tôi thấy được dấu đạo.
Đức Phật hỏi:
- Ông có việc gì mà
tự xưng là Xà Ni Sa, ông có pháp gì mà nói là thấy dấu đạo?
Xà Ni Sa đáp:
- Không có việc gì
khác, tôi vốn là một vị Vua ở trong giáo pháp của Như Lai, làm người Cư sĩ, nhất
tâm niệm Phật khi qua đời, nên được sinh làm Thái tử của Tỳ Sa Môn Thiên Vương,
được quả thứ nhất Tu Đà Hoàn, không còn đọa vào đường dữ nữa, và trong 7 đời
liên tiếp sẽ thường gọi là Xà Ni Sa.
Lúc đó, Đức Phật rời khu rừng ấy đến khu Na Đà xứ Kiền Trà, Ngài bảo một
Tỳ kheo:
- Thầy đi gọi Tỳ
Kheo A Nan đến gặp Ta.
Tỳ Kheo ấy thưa:
- Vâng.
Khi Tôn giả A Nan Đà đến vái lễ xong thưa:
- Hàng ngày con thấy
Thế Tôn tịch tịnh, bây giờ Ngài nghĩ gì mà dung nhan Thế Tôn vui tươi khác lạ?
Xin Thế Tôn cho con được biết.
Đức Phật bảo:
- Sáng nay, Thầy vì
người qua đời nước Ma Kiệt, đến chỗ Ta cầu thỉnh thọ ký, rồi ra đi. Ta đi khất
thực xong đến rừng ngồi dưới gốc cây quán sát chỗ thụ sanh của người Ma Kiệt
sau khi qua đời. Lúc ấy, cách Ta không xa, có một vị Thần, tự xưng tên rằng: “Tôi
tên là Xà Ni Sa, tôi là Xà Ni Sa”. A Nan, Thầy đã từng nghe tên Xà Ni Sa
chưa?
Tôn giả A Nan Đà thưa:
- Con chưa từng
nghe, nay con nghe tên ấy, con sinh lòng sợ hãi, lông tóc dựng ngược. Thưa Đức
Thế Tôn, vị Thần này chắc là có công đức lớn, nên có tên là Xà Ni Sa?
Đức Phật bảo:
- Rồi Thần ấy nói:
“Tôi thấy được dấu đạo”. Trước hết Ta hỏi Thần ấy: “Ông do pháp gì mà
tự xưng thấy dấu đạo?” Xà Ni Sa đáp: “Tôi chỉ vì trước kia là Vua người,
là đệ tử và có lòng tin Phật, chứng quả Tu Đà Hoàn, khi qua đời sinh vào làm
con Tỳ Sa Môn Thiên Vương. Tôi không còn sinh vào cõi dữ nữa, chỉ sanh lại cõi
Ngưòi 7 lần thì dứt hết gốc khổ. Trong 7 lần tái sinh đều có tên là Xà Ni Sa”
--- :: --
Bấy giờ, các vị Trời Đao Lợi tụ tập ở
một nơi, khi đó Tứ Thiên Vương đều ngồi theo hướng của mình như sau:
- Đề Đầu Lại Tra
Thiên Vương ngồi ở hướng Đông, quay mặt về hướng Tây, Vua Trời Đế Thích cõi Đao
Lợi ngồi trước mặt.
- Tỳ Lâu Nặc Thiên
Vương ngồi ở hướng Nam, quay mặt về hướng Bắc, Vua Trời Đế Thích ngồi ở trước mặt.
- Tỳ Lâu Bác Xoa
Thiên Vương ngồi ở hướng Tây, mặt hướng về phía Đông, Đế Thích ngồi ở trước mặt.
- Tỳ Sa Môn Thiên
Vương ngồi ở hướng Bắc, mặt hướng về phía Nam, Đế Thích ngồi ở trước mặt.
Sau khi Bốn Thiên Vương ngồi xong, tới phiên Xà Ni Sa và các đại Thiên Thần
ngồi. Các vị này, trước kia đều theo Phật tu hành, giữ giới, nên khi qua đời được
sinh đến cõi Trời Đao Lợi, được hưởng năm thứ phúc báo là:
1- Sống lâu,
2- Đẹp đẽ,
3- Người Trời,
4- An lạc,
5- Uy đức.
Khi ấy, chư Thiên Đao Lợi đều hân hoan vui mừng và nói: “Chúng Thiên
tăng lên, chúng Thần giảm xuống”.
Bấy giờ Vua Trời Đao Lợi biết chư Thiên có tâm niệm vui mừng, liền nói kệ:
Vô số Thiên Đao Lợi,
Cùng Đế Thích vui
chơi,
Kính lễ Đức Như
Lai,
Đấng Pháp Vương tối
thượng.
Chư Thiên được phúc
báo,
Thụ, sắc, danh, lạc,
oai,
Theo Phật tu phạm hạnh,
Nên sinh về cõi
này.
Lúc đó Thiên Thần Xà Ni Sa nói: “Sở dĩ chư Thiên Đao Lợi tập hợp tại
Thiện Pháp Đường, là để cùng nhau thảo luận, suy tư, quán sát về những giáo lệnh
ấy. Sau đó mới dạy cho Tứ Thiên Vương, bốn Thiên Vương nhận lãnh xong rồi theo hướng
của mình mà ngồi”.
(Còn
tiếp)
ĐỨC PHẬT
VÀ CÁC
CÕI SIÊU HÌNH
Toàn Khôn
Nhưng ngay khi đó có ánh sáng lạ chiếu
cả bốn phương.
Chư Thiên Đao Lợi thấy ánh sáng lạ đều kinh ngạc và nói: “Nay có ánh sáng
khác thường này, chắc là có điềm lạ gì đây? Ngay cả chư Thiên có oai Thần,
cũng cảm thấy sợ”.
Lúc ấy, Vua Trời Đại Phạm hóa thành Đồng tử, đầu có 5 búi tóc, đứng trong
hư không ở trên Thiên chúng, dung mạo tuyệt đẹp, vượt hẳn Thiên chúng cõi Đao Lợi,
thân màu sắc vàng tía, ánh sáng soi át hẳn ánh sáng chư Thiên.
Chư Thiên Đao Lợi thấy, lặng yên, không chào không đón; Phạm Đồng Tử từ từ
hạ xuống đúng chỗ mà ngồi một cách vui vẻ, vị Đại Phạm Thiên ấy vừa ngồi xong,
liền biến ra một Đồng Tử khác ngồi ngay ngắn bất động trong hư không trên chư
Thiên và nói kệ:
Đấng Điều phục vô
thượng,
Đem ánh sáng cho đời,
Giảng nói pháp nhiệm
mầu,
Phạm hạnh không ai
bằng,
Khiến chúng sinh
thanh tịnh,
Sinh về trời Tịnh
Diệu.
Nay ta nói để quý vị biết điều này, các vị hãy lắng nghe: “Các vị Cư
sĩ, đệ tử của Như lai ở nước Ma Kiệt qua đời, có người chứng quả vị thứ ba A Na
Hàm, có người chứng quả vị thứ hai Tư Đà Hàm, có người chứng quả vị thứ nhất Tu
đà Hoàn. Có người sinh đến cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, hoặc có người sinh đến cõi
Trời Hóa Tự Tại, có người sanh đến cõi Trời Đâu Suất, cõi Diệm Ma, cõi Đao Lợi,
Tứ Thiên Vương, hoặc có người sinh lại cõi Người vào dòng Vua Chúa (Sát Đế Lợi),
Quý tộc (Bà La Môn), được năm dục tự nhiên”.
Rồi Phạm Đồng Tử nói kệ:
Bà tắc nước Ma Kiệt,
Những người đã mệnh
chung,
Tám muôn bốn nghìn
người,
Ta nghe họ đắc đạo,
Chứng quả Tu Đà
Hoàn,
Không sinh vào cõi
ác,
Đi trên đường chân
chính,
Chứng đạo hay cứu tế,
Những hạng chúng
sanh này,
Giữ gìn các công đức,
Trí tuệ, lìa ân ái,
Hổ thẹn, lìa vọng
ngữ,
Ở giữa chư Thiên ấy,
Phạm Đồng nói như
thế,
Họ được Tu Đà Hoàn,
Chư Thiên đều hoan
hỷ.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương nghe bài kệ xong vui mừng nói:
- Đức Như Lai nói
pháp chân thật, thật là kỳ diệu chưa từng có, ta vốn không biết Như Lai xuất hiện
ở thế gian nói như thế, đồng thời khiến cho Chư Thiên Đao Lợi hoan hỷ.
Lúc ấy Phạm Đồng Tử bảo Tỳ Sa Môn Thiên Vương:
- Đức Như Lai dùng
sức phương tiện để nói về pháp thiện (lành) và bất thiện (ác) một cách đầy đủ,
nhưng không có được pháp ấy (Chư Thiên không có pháp thiện ác); đồng thời Ngài
nói pháp không tịch như có được pháp này (Chư Thiên có pháp này), đây là pháp
vi diệu cũng như đề hồ (thức ăn bổ ích).
LỜI
BÀN:
Đọc
đoạn Kinh trên, chúng ta nên tìm hiểu:
1). Sạch hết ba hạ
phần kết sử là gì?
Kết là tụ lại, Sử là sai sử, ràng buộc, Kết sử là bị trói
buộc. Sạch hết ba kết sử là người tu đã dứt hết ba thứ như sau:
1. Tham ái dục: Tham ái là tham muốn
nhục dục, luyến ái sáu trần, dính mắc bởi “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”.
Chúng là những cái mạnh nhất trói buộc con người vào vòng sinh tử. Muốn tận diệt
chúng, phải nhận thức mối nguy hại của chúng, kiên trì quán sát mối nguy hại,
kiểm soát sáu căn “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý”. Đây là những con rắn độc giết
hại tâm thanh tịnh.
2. Sân hận: Sân giận, hận thù,
oán hờn, tật đố ganh ghét, hành giả phải quán sát để thấy rõ nguồn gốc xấu xa tệ
hại của nó mà trừ bỏ xa lià nó. Đây là ngọn lửa dữ thiêu đốt con người, hành giả
dùng tâm Từ Bi để đối trị, khi đã trừ bỏ xa lià được rồi, lòng sẽ nhẹ nhõm, dễ
dàng tiến tới tâm định tĩnh vắng lặng.
3. Hôn trầm, thùy
miên:
Hôn trầm thùy miên là dã dượi, uể oải, không vui, ăn nhiều, ợ ngáp, lười biếng,
muốn ngủ nghỉ, không muốn hành thiền, không muốn tinh tấn. Hành giả phải cố gắng
ngăn chặn bằng cách suy nghĩ đến sinh tử vô thường đến lúc nào không biết,
không còn kịp nữa; lại một kiếp trôi lăn không biết sẽ về đâu, nên phải cố gắng
tỉnh thức, kiên trì.
Người dứt tham ái dục, xa lìa hết sân giận và hết hôn trầm là sạch ba hạ phần kết
sử, chứng quả thứ hai là Tư Đà Hàm, người này chỉ sinh lại cõi người một lần, rồi
tu tiếp sẽ dứt hết khổ.
2). Sạch hết năm hạ
phần kết sử là gì?
Là người đã dứt ba kết sử ở trên, còn dứt luôn hai kết sử sau đây:
4. Trạo hối, phóng
dật:
Là hối tiếc, có trạng thái buông xuôi, chao động của tâm khi đã làm những điều
bất thiện, hành động ác ấy đưa đến sự lo âu hối tiếc đã để xảy ra việc bất thiện.
Cũng có tình trạng lo âu khi việc thiện để qua mất không làm nên đưa tới buông
thả, lại có đủ thứ khoái lạc ở đời, nên thường nhớ nghĩ không dứt được, đối trị
trạo hối phóng dật bằng cách tự hứa hẹn sẽ không để tình trạng như thế xảy ra nữa.
Quyết dứt bỏ xa lià các điều lo âu và các điều vui thích ở đời, để đưa tâm trở
lại an ổn trong việc hành thiền.
5. Nghi ngờ: Nghi ngờ là do dự
trong qúa khứ, tương lai, và hiện tại, là nghi pháp hành trì, nghi Thiện tri thức
giảng dạy, nghi chính mình không đủ khả năng. Khi nghi ngờ sẽ có tâm bất định
làm cho việc hành trì bị trở ngại, hành giả phải chú tâm quán sát, tỉnh thức
theo dõi, quán sát để ra khỏi sự bất định của nghi ngờ.
Người dứt năm hạ phần kết sử, tức là chứng quả thứ ba A Na Hàm, sau khi
qua đời sinh lên cõi Trời, rồi ở đó tiếp tục tu cho tới khi qua đời sẽ nhập Niết
Bàn.
--- :: --
Một điểm chúng ta biết Vua Tần Bà Sa La,
hiệu Bình Sa Vương, nước Ma Kiệt sau khi chết vì người con tàn ác muốn giết cha
để đoạt ngôi, nhưng bị bắt quả tang, Vua cha đã không trừng trị, còn trao ngôi Vua
cho. Thế mà khi lên ngôi lại ra lệnh giam cha trong ngục tối không cho ăn bỏ
đói. Lại nữa, nếu không có người ngăn cản, còn giết luôn mẹ mình vì người mẹ lén
mang thức ăn vào dâng Vua cha!
Nhờ thần lực của Đức Phật và sự tinh tấn hướng về Phật mà Vua chứng được quả Tu
Đà Hoàn là quả thứ nhất, nhưng cái chết của Bình Sa Vương thật là thảm khốc do
người con thấy lâu ngày rồi mà người cha chưa chết, nên ra lệnh cho người thợ cạo
đến dùng dao sắc bén gọt gót chân, bôi dầu, muối rồi hơ trên lửa cho đến chết,
thật là thê thảm! Khi Vua Tần Bà Sa La chết rồi được sinh làm con của Tỳ Sa Môn
Thiên Vương là một trong Tứ Thiên Vương. Chúng ta tiếp tục xem Phạm Thiên Vương
nói về Phật pháp:
II).
ĐẠI PHẠM VƯƠNG
VÀ PHẬT PHÁP:
(Còn
tiếp)
__._,ĐỨC PHẬT
Posted by: Tien Do <.___
VÀ CÁC
CÕI SIÊU HÌNH
Toàn Không
(Tiếp theo)
II).
ĐẠI PHẠM VƯƠNG
VÀ PHẬT PHÁP:
1).
PHẠM VƯƠNG GIẢNG PHẠM ÂM:
Phạm Đồng tử nói kệ xong bảo Chư Thiên Đao Lợi: “Âm thanh của Chư Thiên có
năm thứ thanh tịnh, cho nên gọi là phạm âm (khuôn phép của âm thanh
lời nói), Năm thứ ấy là gì?
1- Âm thanh chính
trực, (đúng
như thật, không dối trá).
2- Âm thanh hòa
nhã, (êm
dịu, không chói tai).
3- Âm thanh trong
trẻo, (không
lanh lảnh, cũng không quá trầm).
4- Âm thanh sâu xa
đầy đủ, (ý
nghĩa cao siêu).
5- Âm thanh cùng khắp,
(chỗ
nào cũng nghe thấy).
Phải đầy đủ 5 đặc điểm này mới gọi là phạm âm”.
2).
PHẠM VƯƠNG GIẢNG TỨ NIỆM XỨ:
Rồi Đại Phạm Vương Đồng Tử lại bảo Chư Thiên:
- Các vị hãy lắng
nghe, hãy suy nghĩ kỹ về vấn đề này, ta vì quý vị mà nói, Đức Như Lai chí chân
khéo phân biệt và thuyết về Tứ Niệm Xứ. Bốn Niệm Xứ là gì? Đó là:
1. Quán Thân: Chuyên cần, chuyên
chú không quên, để trừ tham lam buồn phiền, gồm:
- Quán thân trong
thân: Sau khi quán thân xong, sẽ sinh Tha Thân Trí (biết rõ thân).
- Quán thân ngoài
thân.
- Quán thân trong
ngoài thân.
2. Quán Thụ (quán các cảm
giác): Sau khi quán thọ sẽ sinh Tha Thụ Trí (biết rõ cảm thọ).
3. Quán Tâm (ý nghĩ tưởng nhớ):
Sau khi quán Tâm sẽ sinh Tha Tâm Thông (biết rõ tâm mình, biết rõ tâm
người khác).
4. Quán Pháp: (vạn vật): Sau khi
quán Pháp xong sẽ sinh Tha Pháp Trí (biết rõ vạn vật như thật).
Đó là Bốn Niệm Xứ, quý vị phải suy nghĩ ghi nhớ và thực hành.
LỜI
BÀN:
à VỀ TỨ NIỆM XỨ: Bốn
Niệm Xứ là gì? Đó là:
1). QUÁN THÂN: Chuyên cần, chuyên
chú không quên, để trừ tham lam buồn phiền.
Thế nào là quán
Thân?
Là chú ý quán sát biết rõ cả cơ thể đang chuyển biến như thế
nào. Tỉnh táo ghi nhận thấy rõ ràng từng bộ phận, mỗi cơ quan trong và ngoài của
thân thể, và những diễn biến mỗi thứ của thân thể đang hoạt động ra sao. Tỉnh
giác trong lúc thở ra, thở vào, quán trong mỗi hành động lúc đi, đứng, ngồi, nằm;
cũng là quán thân bất tịnh v.v...
1. Quán thân trong
thân là sao?
Quán thân trong thân là quán những bộ phận trong con người mình như ruột, gan,
phổi, óc v.v...
2. Quán thân ngoài
thân là sao?
Quán thân ngoài thân là quán những pháp bên ngoài như tay chân, tai mắt, da
lông, tóc móng, v.v
3. Quán thân trong
ngoài thân là sao?
Quán thân trong ngoài thân như tương quan giữa tai trong và tai ngoài, tương
quan giữa miệng lưỡi và dạ dày, tương quan giữa mũi và phổi v.v...
Quán thân tới nơi tới chốn sẽ đạt được Tha Thân Trí, nghĩa là thấy biết rõ thân
thể mình, ví như có bệnh hay không, có bệnh ở chỗ nào v.v...
2). QUÁN THỤ.
Thế nào là quán Thụ?
Quán thọ là quán sát cảm giác, biết rõ cảm giác của mình về một sự việc gì. Chú
ý xem cái cảm giác ấy ra sao, nó vui sướng thích thú, khoái cảm đê mê, hay nó
buồn khổ, bực bội khó chịu, dễ ghét không ưa, hay nó không vui không buồn v.v….
Có ba loại Niệm thụ là: Thụ vui như trong lúc ngồi thiền cảm
thấy thoải mái nên vui, thụ khó chịu như trong khi ngồi thiền có nhiều tiếng ồn
ào, và thụ không khổ không vui như trong khi ngồi thiền có tiếng chim hót hay
gió thổi lá xào xạc, đó là hoạt động bình thường không có cảm giác bực bội hoặc
cảm giác thích thú v.v…
Sau khi quán thọ đúng mức rồi sẽ đạt Tha Thụ Trí, nghĩa là biết rõ ràng các cảm
thọ. Tỉ dụ khi đau tại chỗ nào biết rõ ràng là đau cơ quan nào, không cần phải
chụp hình dò dẫm như các Bác Sĩ thường làm.
3). QUÁN TÂM:
Thế nào là quán
Tâm?
Tâm là
ý nghĩ, tư tưởng, Quán tâm là quán sát chú ý biết ý nghĩ, tư tưởng khởi lên, gọi
chung là vọng tưởng, như nhớ ngày xưa đi học, hay nghĩ đến tương lai v.v…
Có
muôn nghìn ý nghĩ, tư tưởng, vọng niệm, nhưng đại loại có thể chia ra làm ba loại:
1. Vọng tưởng tốt
lành,
tức những điều suy nghĩ việc thiện như nghĩ đến việc giúp đỡ người, bố thí cho
kẻ nghèo, cúng chùa v.v…
2. Vọng tưởng dữ độc, tức những điều
suy nghĩ việc ác như nói xấu người, thù hằn không đội trời chung, nghĩ đến việc
lừa đảo, trộm cắp, tà dâm v.v…
3. Vọng tưởng không
thiện không ác,
tức là nghĩ đến những việc không lợi hại, không thiện ác như nghĩ đến vẻ đẹp của
một đóa hoa và sự tàn dần của hoa, nghĩ đến đám mây trôi và sự vô định của mây,
nghĩ đến biển cả và sóng vỗ vô tận của nó v.v…
Sau khi quán Tâm nhu nhuyễn rồi sẽ đạt Tha Tâm Trí, nghĩa là biết rõ tâm mình,
biết rõ tâm người là thật thà hay dối trá, biết rõ người lành hay ác v.v...
4). QUÁN PHÁP:
Thế nào là quán
Pháp?
Quán
pháp là quán sát chú tâm để biết đối tượng của tâm, đối tượng của tâm là pháp,
nếu không có pháp ta không thể thấy tâm, cũng như không có tâm ta không thể thấy
pháp.
A). CÓ MẤY LOẠI
QUÁN PHÁP?
Có bốn loại:
1. Năm Triền Cái: Là năm cái ngăn
che làm cho mê mờ gồm có: Tham dục, sân hận, hôn trầm (mờ mịt u tối như ăn nhiều,
ợ ngáp, yếu đuối, không vui, lười biếng), trạo cử (không yên, phóng dật), nghi
hối (nghi ngờ, do dự, lưỡng lự).
2. Năm Uẩn: Là năm thứ cấu tạo
nên thân, gồm: “Sắc, thụ, tưởng, hành, thức”. Sắc là thân; Thụ, tưởng, hành, thức
là tâm.
3. Sáu căn: Là năm giác quan gồm
“mắt, tai, mũi, lưỡi, thân”, và ý vô hình tướng; năm giác quan có năm đối tượng
trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”, và ý có đối tượng là “pháp”.
4. Bảy giác chi: Là bảy phần biết gồm:
“Niệm (nhớ, nghĩ, biết, chú ý, tỉnh thức v.v…), trạch pháp (chọn lựa), tinh tấn,
hỷ, khinh an, định, và xả”.
B). CÁCH QUÁN PHÁP
NHƯ THẾ NÀO?
1. Quán sát Năm Triền
Cái
là năm thứ hiện tượng ngăn che, như khi có ý muốn tham dục xuất hiện. Ta phải ý
thức tỉnh táo quán sát biết nó xuất hiện và lià bỏ nó. Khi sân hận nổi lên ta
phải chú ý biết sân hận nổi lên, nhìn kỹ nó, nó sẽ tự biến; khi mờ mịt tối tăm
xuất hiện (hôn trầm xuất hiện), ta phải tỉnh táo, hôn trầm sẽ tự dứt; khi xao động
không yên, ta chú ý xem, biết ngay nó là trạo cử, nó liền yên ổn; khi nghi ngờ
điều gì, ta chú ý biết là đang nghi hối điều không đâu, nghi liền tự xả.
2. Quán sát Năm Uẩn là những thứ tạo
nên thân tâm: Sắc thân cấu tạo bởi “đất nước, gió, lửa” hợp lại; xương, tóc,
móng, thịt do đất mà thành; hơi thở do khí gió mà nên; hơi ấm do lửa mà có;
máu, nước tiểu, nước bọt làm thành bởi nước, quán sát như thế biết rõ ràng sắc
chẳng phải là ta, sắc là của đất nước gió lửa, sắc chẳng phải là của ta, nên xả
được cái thân dễ dàng.
Tâm gồm
tất cả thụ tưởng hành thức. Quán sát thụ là do cảm giác vui buồn không vui
không buồn mà có, lià cảm giác đâu còn có thụ nữa. Tưởng là nhớ nghĩ, là tri
giác việc nọ việc kia, cái nọ cái kia, tưởng luôn biến đổi không ngừng; không
nhớ nghĩ sẽ không có tưởng. Hành là hoạt động có tác ý, có mong muốn, không còn
tác ý mong muốn sẽ không có hành; thức là sự nhận thức phân biệt khi căn tiếp
xúc với trần, không có sự tiếp xúc căn trần thì không có thức.
Tóm lại
ta ghi nhận để biết tất cả những cấu tạo, hoạt động của thân tâm, do đó không
còn dính mắc, dứt, xa lià, xả bỏ sẽ được thân khỏe tâm an.
3. Quán sát Sáu Căn là “mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý”, và đối tượng của sáu căn là sáu trần “sắc thanh, hương, vị,
xúc, pháp”.
1- Mắt thấy
hình sắc, ta không để bị lôi kéo hay ghét bỏ bởi hình sắc đẹp xấu.
2- Tai
nghe âm thanh, ta không để bị quyến rũ hay chê bai bởi âm thanh hay dở.
3- Mũi
ngửi mùi, ta không để bị đam mê hay khó chịu bởi mùi thơm tho hay hôi thối.
4- Lưỡi
nếm vị, ta không để bị vị dính mắc hay từ chối bởi ngon hay không ngon.
5- Thân
tiếp xúc, ta không để bị tùy thuộc ở cảm giác trơn nhám, êm dịu v.v…
6- Ý tiếp
nhận pháp trần, ta không để bị phân biệt điên đảo.
Như vậy
ta được yên ổn: Sau khi quán pháp nhu nhuyễn tới mức rồi sẽ đạt Tha Pháp Trí, tức
là biết rõ hết vạn vật vũ trụ thế gian.
3). ĐẠI
PHẠM VƯƠNG
GIẢNG
THẤT ĐỊNH CỤ:
(Còn
tiếp)
__._,_.___
Posted
by: Tien Do <
__._,_.___