LÒNG
TIN
Toàn Không
(Tiếp theo)
2. Câu
chuyện thứ hai:
Một
trường hợp khác về lòng tin những lời bàn tán, tin đồn, lúc ấy người nghe nếu
không có lòng tin vững chắc, sẽ gây sự nghi ngờ vô cùng tai hại; còn nếu đã có
sự tin tưởng tuyệt đối rồi, dù có đồn đại thế nào, có người nói ra nói vào thế
nào đi nữa cũng không làm thay đổi được lòng tin của mình. Một câu chuyện
liên quan tới lòng tin vững chắc mà chúng ta nên biết cũng trong quyển một bộ
Tăng Nhất A Hàm, trang 154 như sau:
Thời bấy
giờ tại nước Xá Vệ, có một Trưởng giả kia có một đứa con, ông rất thương yêu,
nhưng đứa con lại bị chết bất ngờ, ông rất sầu khổ đâm ra phát cuồng điên đi
lang thang khắp nơi, gặp ai cũng hỏi: “Có thấy con tôi không?”
Một hôm
ông đi lang thang lần tới đạo tràng Kỳ Hoàn, có Đức Phật đang ngự tại đó, gặp
Phật, ông ta cũng hỏi: “Sa Môn! Có thấy con tôi không?”. Đức Phật bảo: “Vì
sao ông không vui? Mặt mũi bơ phờ tâm trí rối loạn như thế?” Trưởng giả trả
lời: “Tôi như vầy vì con tôi chết, nó bỏ tôi, tôi nhớ nó, tôi buồn khổ, nay tôi
hỏi Sa Môn có thấy con tôi không?” Đức Phật trả lời: “Đúng vậy, sinh già
bệnh chết là thường ở đời, ái ân biệt ly khổ, đứa con vì vô thường mà bỏ ông,
há không nhớ nghĩ được sao?” Ông ta nghe Đức Phật nói thế, không bằng lòng
bèn bỏ đi.
Đi đường
gặp người ông liền nói: “Sa Môn Cù Đàm nói rằng: “Ái ân biệt ly liền có
khoái lạc”, như vậy có đúng không?” Người kia đáp: “Ái ân biệt ly mà vui
cái gì?”
Rồi Trưởng
giả ấy đi dần đến thành Xá Vệ, gần chỗ đánh bạc, lại nghĩ rằng: “Các người
đánh bạc đều thông minh, không việc gì chẳng biết, ta nên đến hỏi họ”, ông
bèn đến vào chỗ ấy, trong khi mọi người đang tụ họp đông đảo đánh bạc, ông bèn
cất tiếng to hỏi: “Sa Môn Cù Đàm bảo tôi rằng: “Ân ái biệt ly khổ, oán ghét
gặp gỡ khổ”, đây là khoái lạc, các ông nghĩ sao?” Mọi người đều nói: “Ân
ái biệt ly, oán ghét gặp gỡ”, có gì mà vui, có gì mà khoái lạc? Không đúng”
Ông ta lại nghĩ: “Sao lià ân ái lại có vui ư?, không đúng, không đúng”.
Rồi ông đi
vào thành Xá Vệ, đứng ở chỗ cửa thành hoàng cung la to lên rằng: “Sa Môn Cù
Đàm bảo rằng: “Ân ái biệt ly, oán ghét hội họp là khoái lạc””. Bấy giờ, trong
thành từ người này truyền qua người khác cho tới trong cung; ngay lúc đó, đại
vương Ba Tư Nặc và phu nhân Mạt Lợi đang ở trên lầu các, được tùy tùng bẩm lại
sự việc như thế, Vua bảo Phu Nhân: “Sa Môn Cù Đàm thật có nói: “Ân ái biệt
ly, oán ghét hội họp đều là khoái lac chăng?”, Phu Nhân nghĩ sao?”.
Phu Nhân trả lời: “Thiếp không nghe Thế Tôn dạy lời này, nhưng nếu Ngài có dạy
như thế cũng chẳng phải là lời hư dối”. Vua bảo: “Ví như thầy dạy đệ tử”
làm điều này, bỏ điều kia”, đệ tử đáp: “Xin vâng, đại Sư”. Nay bà cũng
như thế, Sa Môn Cù đàm nói lời như thế mà bà vẫn đồng ý nói rằng “không có hư dối”,
vậy bà hãy đi mau, đừng ở trước mặt ta nữa”.
Sau khi ấy, bà la môn Trúc Bác đến Kỳ Hoàn chỗ Đức Phật ngự, sau khi vái lạy
ông bạch lên Đức Phật những điều Phu Nhân Mạt Lợi đã dặn bảo rằng: “Thưa Đức
Thế Tôn, phu nhân Mạt Lợi cúi lạy Đức Thế Tôn và kính chúc Thế Tôn luôn mạnh khỏe,
giáo hóa người mê muội không mệt mỏi. Phu Nhân trình lên Thế Tôn một việc mà
người trong cung thành bàn luận điều Thế Tôn đã nói rằng: “Ân ái biệt ly, oán
ghét hội họp đều là khoái lạc”. Chẳng hay Thế Tôn có dạy như thế không? Xin Thế
Tôn chỉ dạy để con về thưa lại với Phu Nhân”.
Đức Phật
bảo bà la môn Trác Bát: “Trong thành Xá Vệ có một Trưởng giả bị chết mất một
đứa con mà ông ta rất thương yêu, vì thế, ông ta đâm ra điên cuồng loạn trí, đi
lang thang khắp nơi gặp ai cũng hỏi: “Có thấy con tôi không?”” Vậy thì ông
nên biết: “Ân ái biệt ly khổ, oán ghét hội tụ khổ, đều không có hoan lạc cả”.
Ngày xưa
trong thành có người mất mẹ già, có người mất cha già, có người mất anh chị em,
hết thảy đều vô thường, họ thấy sự vô thường này sinh ra cuồng loạn chẳng biết
phương hướng; cũng trong thành Xá Vệ, ngày xưa một Trưởng giả gả chồng cho con
gái, hai vợ chồng con gái rất thương yêu hòa thuận, rủi người chồng làm ăn sa
sút nghèo khó, ông bà Trưởng giả bàn luận định bắt con gái gả cho người khác,
người chồng biết được việc ấy, nên nói với vợ “cả hai cùng chết”, rồi
dùng dao bén đâm vợ và tự đâm vào bụng mình mà chết. Này Bà La Môn, xét vậy mà
biết ân ái biệt ly, oán ghét hội tụ khổ, đây đều là buồn khổ chẳng thể nói hết
được.
Bà la môn
Trúc Bác thưa: “Đúng vậy Thế Tôn! Có các thứ khổ não này thật chẳng vui, Sa
Môn Cù Đàm nói thật đúng như thế, con xin cảm tạ Thế Tôn, và xin kiếu từ”.
Bà la môn
liền đứng dậy vái chào, đi quanh Phật ba vòng, rồi đi đến chỗ Phu Nhân Mạt Lợi,
tâu trình đầy đủ những lời Đức Phật đã nói.
Phu Nhân
liền đến chỗ vua Ba Tư Nặc thưa:
“Thiếp có chỗ muốn hỏi, mong Đại vương nghe rồi xin trả lời từng việc một,
xin hỏi: “Đại vương có thương yêu vương tử Lưu Ly, vương tử Y La chăng?”
Vua đáp:
“Ta rất thương yêu các Vương Tử”.
Phu Nhân hỏi: “Nếu các Vương tử bị chết đi, Đại vương có sầu khổ không?”
Vua trả lời: “Đúng vậy, ta sẽ rất buồn khổ”.
Phu Nhân nói: “Như vậy ân ái biệt ly đều gây buồn khổ”.
Phu Nhân lại hỏi: “Đại vương có nhớ phu nhân Tát La Đà dòng Sát Lợi không?”
Vua đáp: “Rất nhớ”.
Phu Nhân lại hỏi: “Giả thử phu nhân Tát La Đà có sự biến đổi Đại vương có lo
không?”
Vua Trả lời: “Ta rất sầu lo”.
Phu Nhân nói: “Hãy lấy thí dụ này mà biết ân ái biệt ly khổ, oán ghét hội họp
khổ, đều là buồn lo chẳng thể vui được”.
Rồi Phu Nhân lại hỏi tiếp: “Đại vương có yêu qúy nhân dân Ca Thi Câu Tát La
không, giả thử trong nhân dân có biến đổi Đại vương có lo buồn không?”
Vua nói: “Ta rất yêu thương tất cả nhân dân, nếu có biến đổi thì mạng ta
cùng chẳng còn, vì sao? Ta nhờ nhân dân mới được tồn tại, huống là chẳng lo buồn
ư?”
Phu Nhân nói: “Lấy thí dụ mà biết ân ái biệt ly đều là lo buồn sầu khổ,
không vui vẻ”.
Lúc ấy
vua Ba Tư Nặc qùy gối phải chắp tay hướng về phiá đạo tràng Kỳ Hoàn mà nói: “Thật
kỳ lạ! Thật kỳ lạ! Thế Tôn nói pháp này, không phải pháp trước đây người ta nói
tin nhảm, nên đã có sự hiểu lầm đáng tiếc xảy ra!”
Bấy giờ Đức
Phật nghe (bằng Thiên nhĩ) phu nhân Mạt Lợi cùng vua Ba Tư Nặc bàn luận,
liền bảo các Tỳ Kheo: “Phu nhân Mạt lợi rất thông minh, nếu Ta bàn luận cũng
lấy nghĩa như thế nói cho Vua, giống như Phu Nhân đã nói không khác”.
LỜI BÀN:
Xuyên qua
câu chuyện, chúng ta thấy cùng là một sự việc nghe lời người đồn đãi, vua Ba Tư
Nặc có ngay kết luận rằng lời Phật nói như thế là không phải, không thể chấp nhận
được. Còn phu nhân Mạt Lợi lại khác, bà cho rằng nếu qủa thật Đức Phật có nói
như thế thì phải có lý do để nói, nên bà đã nói: “Thiếp không nghe Thế Tôn dạy
lời ấy, nhưng nếu Ngài có dạy như thế cũng chẳng phải lời hư dối”, Phu nhân
đã đặt lòng tin tuyệt đối vào Đức Phật, vì sao? Vì từ bấy lâu bà đã từng nghe rất
nhiều lần Đức Phật thuyết pháp, bà đã học hỏi được rất nhiều ở nơi Ngài và
không hề thấy một lời nói nào sai trái cả. Bà đã có tín tâm kiên cố đối với Đức
Phật, tức là lòng tin của bà đã có bằng chứng rõ ràng rồi, chứ không phải là
lòng tin mù quáng không thể chứng minh. Khi thấy Vua chê bai, bà không phản ứng
mà liền cử người đi gặp Đức Phật để hỏi cho rõ sự việc thực hư, khi đã biết chắc
chắn sự việc rồi bà liền gặp Vua. Bà nói về nghĩa yêu thương chia ly khổ, oán
ghét hội họp khổ không vui, để giải thích cho Vua một cách khéo léo làm cho Vua
tỉnh ngộ, đó là việc làm của người trí tuệ vậy.
(Còn tiếp)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment