ĐỨC CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT
Toàn Không
1). ĐỨC CHUẨN ĐỀ LÀ BỒ TÁT NÀO?
Có một số chùa thờ Đức Chuẩn Đề. Đức Chuẩn Đề là Thất Câu Chi, Ngài thường thuyết Kinh Đà La Ni (Đà La Ni là Tổng trì, có nghĩa là nhiếp thụ tất cả, một câu Kinh ngắn mang sức mạnh siêu nhiên; có thể là trạng thái tâm thức để khi hành giả niệm đến có thể đạt được), ý nguyện cho tất cả thế gian, xuất thế gian đều thành tựu sự nghiệp tu tập.
Vì lòng từ bi của Ngài đối với chúng sinh như mẹ thương con, nên gọi là Phật mẫu.
Đức Chuẩn Đề là vị đại Bồ Tát ở cõi trang nghiêm, không ở cõi Ta Bà chúng ta; giáo pháp của Ngài rất bí mật, nhờ Đức Phật Thích Ca nói ra hình tướng và chỗ lý nhiệm mầu của Ngài, nên người sau mới biết mà họa hình tạc tượng thờ vậy.
2). ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỨC CHUẨN ĐỀ:
Đức Chuẩn Đề ngồi kết già trên bệ hoa sen có hai Long vương chầu, Ngài thân sắc vàng điển quang trắng, cổ đeo chuỗi Anh lạc, trước ngực có chữ “vạn”, đầu đội mũ Hoa quang, trên mũ có hình 5 vị Phật. Ngài có con mắt thứ ba ở chính giữa trán. Ngài có mỗi bên 9 tay, vị chi có 18 tay hết thảy như sau:
Phiá trước 6 tay:
- Hai tay trên: Tay phải các ngón song song thẳng đứng dơ lên biểu tượng “không sợ” (Vô uý), tay trái cầm cán phướn lá phướn cao hơn đầu.
- Hai tay giữa: Hai bắt ấn tối thượng Bồ Đề trước ngực: Hai lòng bàn tay sát nhau, các ngón tay nọ nắm mu bàn tay kia, hai ngón trỏ duỗi thẳng lên song song và chạm nhau, hai ngón cái cũng vậy.
- Hai tay dưới: Tay phải lần xâu chuỗi dài, tay trái cầm cuốn Kinh Bát Nhã.
Phiá sau 12 tay đều dang ra hai bên:
- Hai tay trên hết: Tay phải cầm gươm, tay trái cầm hoa sen đều dơ cao hơn đầu.
- Hai tay thứ hai: Tay phải cầm xâu chuỗi Ma Ni, tay trái cầm bình nước cam lộ.
- Hai tay thứ ba: Tay phải cầm qủa Ca na, tay trái cầm dây Kim cương.
- Hai tay thứ tư: Tay phải cầm búa riù, tay trái cầm bánh xe luân hồi.
- Hai tay thứ năm: Tay phải cầm thiết câu, tay trái cầm cái loa.
- Hai tay thứ sáu: Tay phải cầm chày kim cương, tay trái cầm bình như ý.
3). TÔN CHỈ CỦA ĐỨC CHUẨN ĐỀ:
Đức Chuẩn Đề nói rằng: “Chân như thật tướng hay tánh chân thường của hết thảy chúng sanh xưa nay đều sẵn có trong bản giác như chư Phật, nên trong đó gồm đủ các đức dụng khắp cõi Hà sa. Nhưng vì nhiều người chẳng tin lời của Phật, hủy báng chính pháp, tự làm tổn hại mình, nên phải trầm luân đọa lạc, dẫu cho nghìn vị Phật ra đời cũng không thể cứu được người ấy”.
Ngài thấy vậy, nên sinh lòng từ mẫn, lập phương tiện pháp môn, điều phục các trần cấu cho người nhập đạo để dứt vọng về chân; nếu ai theo Ngài, hai việc chính phải làm là:
1- Quán tưởng hình hoặc tượng Ngài (Đã diễn tả ở trên).
2- Trì Chú Đà La Ni của Ngài, bài Chú:
“Khể thủ quy y tô tất đế, đầu diện đỉnh lễ thất câu chi, ngã kim xưng tán đại chuẩn đề, duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô tát đá nẫm, tam diểu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha, án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề sa ba ha”.
Trì Chú cho tới 90 vạn lần, dẫu cho tội từ vô lượng kiếp về thập ác, ngũ nghịch, đều tiêu diệt hết. Những ai muốn khỏi khổ não mau đến đạo vô thượng, phải quán tưởng chân dung đức Chuẩn Đề, trì Chú, thân tâm khế hợp, hễ có cảm thì có ứng, sinh tử nào mà chẳng khỏi, Niết Bàn nào mà chẳng được., .
__._,_.___
BỒ TÁT
ĐỊA TẠNG VƯƠNG
Toàn Không
(Tiếp theo)
Đột nhiên,
có một qủy Vương từ trong đám qủy kia đến gần nàng cúi đầu mà nói: “Xin hỏi
Cô Nương vì cớ gì mà đến đây?” Nàng hỏi lại để đáp: “Ngài là ai, và chỗ này
gọi là gì?” Qủy Vương đáp: “Tôi là Qủy Vương Vô Độc, chỗ này là Biển
Nghiệp thứ nhất về phiá Tây núi Thiết Vi, ở giữa núi Thiết Vi có Địa ngục chính”.
Nàng nghe,
sinh nghi liền hỏi: “Địa ngục là nơi nhốt người có tội, còn tôi không làm ác
lại tin Tam Bảo, vì sao tôi ở đây?” Qủy Vương Vô Độc đáp: “Những người tới
đây có hai loại: Một là những vị có oai đức thần thông đến thăm người tội, hoặc
tới dạo chơi cho biết Địa ngục; hai là những người có tội tới đây chịu khổ; chỉ
có hai loại ấy thôi”.
Nàng lại
hỏi: “Tại sao biển này dữ qúa, lại có thú dữ ăn thịt người như thế?” Qủy
Vương đáp: “Đây là chỗ nhốt những người chết đã làm ác ở cõi trần. Lại không
ai kế tự làm công đức để cứu vớt vong linh bị khốn nạn, vì thế cho nên những kẻ
làm ác chết đi chẳng có phúc thiện, phải chịu theo bản nghiệp mà chiêu cảm lấy
cái khổ báo ở Địa ngục. Do đó phải tới đây trước hết, rồi mới tới các chỗ
khác.
Ở phiá
Đông biển này, chừng 10 vạn do tuần (10 vạn X 18 cây số = khoảng 180 vạn cây số),
có một biển khác, người tội ở đó chịu cực hình khổ hơn ở đây nhiều; đi qúa xa
hơn nữa về phiá Đông còn có biển khác nữa, tội nhân còn phải chịu cực hình thảm
khốc không thể kể xiết, cả ba biển đều là Biển Nghiệp cả”.
Nàng lại
hỏi: “Chỉ có Biển Nghiệp thôi sao, còn Địa ngục ở đâu?” Qủy Vương đáp: “Nếu
kể riêng thì nhiều lắm, vì sự tạo tội của mỗi người mỗi khác, nên hành tội cũng
khác nhau; như Địa ngục lớn có 18 chỗ, Địa ngục trung có 500, còn Địa ngục nhỏ có
cả trăm nghìn chỗ”.
Nàng lại
hỏi: “Mẹ tôi vừa chết chưa bao lâu, chẳng hay vong linh ở chỗ nào? Tôi chắc là
mẹ tôi phải đọa Địa ngục, vì thường làm ác, có tà kiến, chê bai Tam Bảo; có tính
bất thường, dù mẹ tôi nghe lời khuyên tạm tin, rồi cũng quên, nên tôi muốn biết
chỗ đến của mẹ tôi”.
Qủy Vương
hỏi: “Tên của mẹ Cô Nương là gì?” Nàng đáp: “Cha Tôi là Thi La Thiện
Hiện, còn mẹ tôi là Duyệt Đế Lị, đều là dòng dõi Ba la môn”.
Qủy Vương
nghe rồi quán sát trong giây lát và nói: “Xin Cô Nương yên tâm trở về, vì
Duyệt Đế Lị vừa ra khỏi Địa ngục, sinh lên cõi Trời, là nhờ phúc của người con
hiếu hạnh lập đàn tràng cúng Phật mà được như vậy. Không những mẹ Cô Nương nhờ
phúc đó, được rời khỏi chỗ Địa ngục Vô gián, sinh lên cõi lành, mà còn nhiều
người khác cũng được rời khỏi đến nơi tốt lành”.
Qủy Vương Vô
Độc nói xong cúi đầu chào mà lui biến mất, còn nàng tự nhiên tỉnh giấc chiêm
bao, thấy lòng nhẹ nhõm, thầm cảm ân đức của Phật vạn phần và đem hương hoa tới
chùa lễ lạy Phật và tự nguyện rằng: “Nay con nguyện cho đến kiếp vị lai, nếu
có chúng sinh nào tạo tội chịu khổ nơi Địa ngục, bất luận là người thân hay kẻ
cừu oán, con lập ra nhiều pháp môn phương tiện cứu độ cho đều được giải thoát
khỏi khổ”.
2. THEO QUYỂN PHẬT A DI ĐÀ
VÀ CHƯ BỒ TÁT (vô số đời sau):
Thời
quá khứ về vô lượng A Tăng kỳ kiếp, lúc ấy Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu và Bồ
Tát Địa Tạng chưa xuất gia tu hành. Hai Ngài đều làm vua lân bang với nhau, khi
ấy hai vị Quốc vương kết thân làm bạn với nhau, rồi cùng nhau phát nguyện làm
10 điều lành. Hai Vua muốn nước mình trên dưới thuận hòa, quân thần hưởng hạnh
phúc, còn chúng dân được an cư lạc nghiệp. Do đó nhân dân đội ơn vua quan nhân
từ gương mẫu, bắt chước cùng nhau bỏ làm ác, nên đất nước được thái bình thịnh
trị.
Trái lại,
những nước khác, vua quan không có nhân nghĩa, người trên hà hiếp bóc lột kẻ dưới,
sưu cao thuế nặng, đủ thứ tạp dịch; nhân dân khổ sở lầm than, sinh ra nhiều điều
xằng bậy, tham lam trộm cắp, đánh đập thù hận. Mở miệng nói toàn điều tà kiến
ngu si, chửi bới lẫn nhau, tranh giành hơn thua, mê tín thánh thần, chẳng biết
nhân nghĩa là gì; khi có ách tai bệnh hoạn, cầu xin vô ích. Đã vậy lại ăn gian
nói dối, giết người hại vật, tạo ác không ngừng, gây tội chồng chất cao hơn
núi…
Hai vị
Quốc Vương thấy nhân dân các nước lân bang cứ ưa chuộng sự tà mị như thế, động
lòng thương xót, mới bàn cùng nhau tìm phương cách để cứu những kẻ ấy khỏi chịu
qủa báo nghiệp dữ về sau.
Một vị
phát nguyện rằng: “Tôi nguyện đời đời tu hành cầu đạo Bồ Đề cho mau thành Phật,
để giáo hóa cứu độ vô số chúng sinh vào Niết Bàn, tôi mới yên tâm được”.
Một vị
phát nguyện: “Tôi nguyện tu hạnh Bồ Tát, để độ tất cả chúng sinh khỏi khổ được
vui, nếu tôi không độ hết thảy chúng sinh khỏi khổ và được giải thoát thì tôi
thề chưa chịu thành Phật”.
Vị Vua
thứ nhất phát nguyện sớm thành Phật để độ chúng sinh, tức là Đức Nhất Thiết Trí
Thành Tựu Như Lai đã thành Phật từ vô lượng kiếp rồi; còn vị Vua thứ hai nguyện
độ hết chúng sinh khỏi khổ được giải thoát xong mới chịu thành Phật, tức là Bồ
Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương; vì lời thệ nguyện sâu nặng khó khăn như thế, nên
đã trải qua vô lượng kiếp làm đại Bồ Tát, và còn tiếp tục vô lượng kiếp như thế
nữa. Do đó, chúng ta nên tôn trọng kính lễ Ngài.
3. CŨNG THEO QUYỂN PHẬT A DI ĐÀ
VÀ CHƯ BỒ TÁT (vô
số đời sau nữa):
Thời qúa khứ
rất lâu xa, tiền thân của Đức Địa Tạng là một Trưởng giả có đức độ, thời ấy có
Đức Phật hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Hạnh Như Lai. Một hôm, ông Trưởng giả
tình cờ gặp Phật, thấy tướng tốt đẹp trang nghiêm, càng trông, ông lại càng cảm
thấy tôn kính Phật. Ông bèn đến gần cúi đầu vái mà nói: “Thưa Đức Thế Tôn,
tôi thấy tướng Ngài rất đẹp đẽ nghiêm trang, càng ngó càng thấy tươi đẹp lạ thường,
trên đời chẳng có ai được như Ngài; nhưng tôi tự nghĩ rằng “có được qủa tốt, ắt
phải có nhân lành”. Vậy chẳng rõ kiếp trước Ngài đã làm những hạnh nguyện
gì mà nay được thân tướng tốt đẹp như thế, xin Ngài nói cho tôi biết, thực ra
tôi cũng ước ao muốn được cái hảo tướng như Ngài lắm”.
Phật Sư
Tử Tấn Cụ Túc Hạnh thấy Trưởng giả có lòng muốn làm việc lành, nên Ngài bảo:
“Trưởng giả, nếu ông muốn được kim thân diệu tướng, phải phát tâm tu hành vô
lượng kiếp cầu đạo Bồ Đề, một lòng tinh tấn, hóa độ chúng sanh khỏi tội khổ báo
được yên vui; cái duyên phúc ấy sẽ cảm được cái hảo tướng như Ta chứ không khó”.
Trưởng
giả nghe Đức Phật dạy như vậy, liền qùy xuống phát nguyện: “Từ nay cho đến
muôn đời vị lai, nếu có chúng sinh nào bị tội qủa báo, tôi dùng đủ thứ phương
tiện làm cho được giải thoát tất cả, chừng ấy tôi mới thành Phật”.
Vì sự
thề nguyện ấy, từ đấy đến nay trải qua vô số kiếp, Ngài thành Bồ Tát, hành đạo
Bồ Tát cứu giúp vô lượng chúng sinh trong vô lượng kiếp, vẫn làm việc Phật sự của
một vị Đại Bồ Tát., .
__._,_.___
No comments:
Post a Comment