Chữ Nho, chữ
Nôm và chữ Quốc ngữ
NGUYỄN HẢI HOÀNH
18 Tháng 7 2020
Đã hơn trăm năm nay nước ta chính thức sử dụng
chữ Quốc ngữ, thứ chữ viết được các nhà trí thức tiên tiến đầu thế kỷ XX ca
ngợi là Hồn trong nước; Công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt và
tin rằng Nước Nam ta sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ.
Dư luận nước ta trước đây quy công trạng làm
ra thứ chữ kỳ diệu ấy cho giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes. Gần đây lại
có dư luận yêu cầu ghi công các giáo sĩ không phải người Pháp như Francisco de
Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes… và đóng góp của
giáo dân miền Nam nước ta từng giúp các giáo sĩ đó học tiếng Việt, và đóng vai
trò “giám định” trong quá trình thí điểm sử dụng thứ chữ mới ấy.
Đáng tiếc là cho tới nay công luận ở ta vẫn
chưa nhất trí chọn được các nhân vật tiêu biểu làm ra chữ Quốc ngữ, và cơ quan
chính quyền liên quan cũng chưa dứt điểm giải quyết vấn đề này. Để tình trạng
đó kéo dài sẽ không có lợi cho hình ảnh một dân tộc văn minh. Đã đến lúc cần
bàn thảo rộng rãi và sớm có hành động tri ân những người xứng đáng ghi công.
Bài này nhằm góp một ý kiến bàn thảo. Vì người viết ít hiểu biết về ngôn ngữ
học nên ý kiến nêu ra khó tránh khỏi có sai sót, mong được bạn đọc chỉ bảo.
***
Tiếng nói là khả năng bẩm sinh của con người,
còn chữ viết là một phát minh sáng tạo không phải dân tộc nào cũng có. Ở thời
xưa, tiến trình làm chữ viết cho một ngôn ngữ cần thời gian nhiều thế kỷ, thậm
chí hàng ngàn năm. Tiếng Việt có hệ thống ngữ âm cực kỳ phong phú, cho nên càng
có sức sống bền dai và càng khó làm được chữ viết; có thể vì thế mà ta chậm có
chữ của mình. Nhưng cũng chính nhờ tiếng ta giàu ngữ âm mà rốt cuộc dân tộc ta
được thừa hưởng một loại chữ viết tuyệt vời nhất vùng Đông Á.
Hiếm thấy nướcnào từng sử dụng ba loại chữ
viết như nước ta: chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ, mỗi loại chữ ấy
làm nên một trang sử vẻ vang đáng ôn lại.
CHỮ NHO
Khoảng thế kỷ II trước CN, phong kiến Trung
Quốc (TQ) chiếm nước ta, bắt dân ta học chữHán [1]. Nhờ đó lần đầu tiên người
Việt Nam biết tới chữ viết - phương tiện truyền thông tin cực
kỳ tiện lợi, không bị hạn chế về không gian và thời gian như tiếng nói. Có thể
vì thấy được cái lợi lớn ấy mà các bậc đại trí người Việt đã nảy ra ý tưởng
mượn dùng loại chữ này. Nhưng học Hán ngữ cực kỳ khó, vì người TQ đọc tiếng Hán
theo hàng trăm phương ngữ khác nhau. Cái khó ló cái khôn: tổ tiên ta đã nghĩ ra
cách chỉ đọc thứ chữ này bằng tiếng Việt mà không đọc bằng tiếng Hán, tức chỉ
học chữ mà không học tiếng Hán. Ngôn ngữ học ngày nay giải thích điều đó là hợp
lý, vì chữ Hánlà chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideograph), tương tự
chữ tượng hình vẽ con vật hoặc chữ số 1, 2, 3 hoặc ký hiệu $, %,… cả thế giới
đều hiểu ý nghĩa các ký hiệu biểu ý đó, tuy đọc bằng tiếng của mình. Tổ tiên ta
đã lợi dụng tính biểu ý của chữ Hánđể đọc nó bằng tiếng Việt, như cách người
Trung Quốc các địa phương đọc bằng phương ngữ của họ. Vì thế chính quyền chiếm
đóng không thể cấm dân ta đọc chữ Hántheo cách của ta.
Người Việt gọi thứ chữ Hán đã Việt hóa phần
ngữ âm ấy là chữ Nho, tức chữ của người có học. Khi
ấy mỗi chữ Hán được đọc bằng một âm (từ) Hán - Việt gần giống âm Hán của nó;
nhưng một âm Hán có thể chuyển thành một số âm Việt khác nhau. Không chữ Hán
nào không được đặt tên tiếng Việt. Việc đặt tên cho hàngchục nghìn chữ Hán kéo
dài hàng trăm năm, thực sự là một công trình vĩ đại. Chỉ bằng truyền miệng mà
cách nay 2000 năm các thầy đồ Nho trong cả nước ta đã đọc chữ Hán bằng một âm
Việt thống nhất (TQ đặt mục tiêu đến năm 2020 toàn dân đọc chữ Hán bằng một âm
Hán thống nhất). Có lẽ đây là lần đầu tiên chữ Hán được phiên âm ra tiếng
nước ngoài.
Do dạy và học chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ nên dân
ta học chữ Hán dễ hơn khi dạy và học bằng tiếng Hán, nhờ đó mượn được thứ chữ
nàyđể dùng, và coi chữ Nho là chữ viết chính thức, là “chữ ta” trong khoảng
2000 năm. Không ít người giỏi chữ chẳng kém người Hán. Như Khương Công Phụ
(731-805) người Thanh Hóa đỗ Trạng nguyên ở TQ, về sau được vua nhà Đường phong
Tể tướng.
Sau khi có chữ viết, dân tộc ta thoát khỏi
thời tiền sử lạc hậu, tiến sang thời đại có sử sách ghi chép, có công cụ giao
tiếp đối nội đối ngoại, sáng tác văn thơ, xây dựng ngành giáo dục, tiếp thu nền
văn minh Trung Hoa tiên tiến, tổ chức xã hội theo mô hình TQ, từ đó tạo dựng
nền văn minh Việt. Việc dùng chữ Hán mà không nói tiếng Hán đã giúp dân ta đời
đời nói tiếng mẹ đẻ; nhờ thế dù có học và dùng chữ Hán bao lâu thì vẫn tránh
được thảm họa bị người Hán đồng hóa. Chữ Nho đã thầm lặng bóp chết âm mưu Hán
hóa tiếng Việt. Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn giữ được nguyên vẹn
tiếng mẹ đẻ cùng nền văn hóa của mình. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch
sử Việt Nam.
Phương pháp dùng từ Hán - Việt để phiên âm chữ
Hán, qua đó làm thành chữ Nho, là một sáng tạo xuất sắc về ngôn ngữ, cực kỳ ích
lợi: vừa mượn được chữ của người Hán về dùng, vừa lợi dụng được kho từ vựng chữ
Hán làm nguồn bổ sung vô hạn cho kho từ vựng tiếng Việt. Thực ra hiện nay từ Hán
- Việt đã kết hợp nhuần nhuyễn với từ thuần Việt tới mức khó phân biệt (ví dụ: lập
trình, cận nghèo, v.v…). Khi cần dịch một từ ngữ mới xuất hiện, ta thường
tham khảo cách dùng từ của người TQ. Ví dụ từ quantum, người TQ
dịch là量子, ta đọc Hán-Việt là lượng tử, rất
hay và dễ hiểu. Toàn bộ từ vựng Hán ngữ hiện đại do người Nhật cuối thế kỷ XIX
phiên dịch các từ ngữ phương Tây [2], sau khivào Việt Nam đều được các nhà Nho
Đông Kinh Nghĩa Thục chuyển thẳng thành từ Hán-Việt như vậy. Ngày nay
khôngmộttừ ngữ mới nào không thể chuyển thành tiếng Việt.
Hơn nữa, tổ tiên ta phiên âm chữ Hán theo cách
khôn ngoan không đâu có. Người Triều Tiên/Hàn Quốc phiên âm theo kiểu bám sát
âm Hán, hậu quả là thừa kế 100% tình trạng tồn tại quá nhiều chữ đồng âmtrong
chữ Hán; bởi vậy sau 7 thế kỷ dùng chữ Hangul, cho tới nay họ vẫn phải dùng chữ
Hánđể ghi chú các chữ đồng âm. Người Nhật đọc chữ Hántheo nghĩa tiếng Nhật,
không theo âm tiếng Hán - cách phiên âm này khiến cho ban đầu họ phải dùng hàng
chục nghìn chữ Hán, làm cho tiếng Nhật thời cổ trở nên cực kỳ phức tạp. Về sau
họ làm ra chữ Kana biểu âm, nhờ thế chỉ còn cần dùng khoảng 2000 chữ Hán. Tổ
tiên ta phiên âm chữ Hántheo kiểu một âm tiếng Hán được chuyển thành hàng chục
âm tiếng Việt, nhờ thế giảm hàng chục lần số chữ đồng âm, qua đó làm cho từ Hán
- Việt chính xác hơn. Ví dụ âm [yi] tiếng Hán có 135 chữ đồng âm, ta chuyển
thành hàng chục âm tiếng Việt như ất, dật, di, dĩ, dị, dịch, duệ, ích,
y, ý, nghi, nghị, nghĩa, nhị, ức,…
Chữ Nho vốn là chữ Hán nên không ghi được lời
nói tiếng Việt, do đó không thể làm chữ viết của tiếng Việt. Trên thực tế chữ
Nho hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ của tầng lớp bình dân, chỉ một số ít người
thuộc giới quan lại hoặc giới tinh hoa ở ta biết dùng chữ Nho, và chỉ dùng để
viết (bút đàm) trong một số lĩnh vực hẹp, không dùng để nói. Văn thơ chữ Nho
làm theo kiểu văn thơ của người Hán không được coi là văn thơ tiếng Việt.
CHỮ NÔM
Từ khoảng thế kỷ XII tổ tiên ta bắt đầu sáng
tạo một loại chữ viết nhằm ghi âm tiếng mẹ đẻ, gọi là chữ Nôm. Thử
nghiệm này nói lên ý thức tự chủ ngôn ngữ muốn có chữ viết riêng của ta, chấm
dứt tình trạng dùng chữ đi mượn, lại thể hiện được trí tuệ của người Việt: tiến
tới làm ra loại chữ tiên tiến nhất - chữ biểu âm(chữ ghi âm,
phonograph), loại chữ người Hán chưa từng có.
Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc
theo âm Hán - Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Vì chưa biết tới
ký tự Latin abc nên tổ tiên ta đã dùng các ký tự vuông chữ Hán(có
cải tiến) để ghi âm tiếng mẹ đẻ của mình. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để
ghi âm tiếng Việt, dần dần dùng cách ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới,
một phần gợi âm, một phần gợi ý - về sau loại chữ tự tạo này
được dùng ngày một nhiều. Nhưng vì các ký tự vuông gốc chữ Hán không phải là
chữ cái ghép vần, cho nên mức chính xác ghi âm tiếng Việt còn thấp, chưa tiêu
chuẩn hóa, nhiều chữ phải đoán âm đọc, có trường hợp một âm có nhiều chữ, v.v...
Mỗi chữ Nôm thể hiện một âm tiết. Tiếng Việt
giàu âm tiết nên có nhiều chữ Nôm. Theo tài liệu [3], vào giữa thế kỷ XVII đã
có khoảng 80.000 chữ Nôm (?). “Bảng tra chữ Nôm” (xuất bản năm 1976) cho biết
có 8.187 chữ [4].“Từ điển Chữ Nôm dẫn giải” của GS Nguyễn Quang Hồng (xb. 2015)
có 9.450 chữ Nôm (gồm gần 3.000 chữ tự tạo), ghi 14.519 âm tiết tiếng Việt. Do
chữ Nôm chưa chuẩn hóa nên các số liệu trên có khác nhau, nhưng đều cho thấy tổ
tiên ta đã làm được rất nhiều chữ, suy ra chữ Nôm thời xưa đã ghi được rất
nhiều (nếu không nói là hầu hết) âm tiếng Việt đã dùng.
Chữ Nômtừng được gọi là Quốc ngữ hoặc Quốc
âm, tức chữ của tiếng nói nước ta (chữ Nho chưa bao giờ
được gọi như vậy). Nhưngdo cấu tạo trên nền tảng chữ Hánnên chữ Nôm phụ thuộc
vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập. Hơn nữa,
do Nhà nước phong kiến và tầng lớp tinh hoa ở ta mù quáng sùng bái chữ Háncho
nên chữ Nôm chưa được thừa nhận là chữ viết chính thức, bị coi là thấp kém dưới
chữ Hán. Vì thế chữ Nôm khó được phát triển và hoàn thiện, chưa tiêu chuẩn hóa.
Tuy vậy văn thơ chữ Nôm, tức văn thơ tiếng
Việt, do nói lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã tỏ ra
trội hơn hẳn văn thơ chữ Nho. Nền văn học chữ Nôm từng đạttới cực thịnh từ thời
Hậu Lê đến thời kỳ đầu nhà Nguyễn (thế kỷ XVII-XIX), với các kiệt tác của
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), Đoàn Thị Điểm (1705-1749), Nguyễn Gia Thiều
(1741-1798), Nguyễn Huy Tự (1743-1790), Nguyễn Du (1765-1820), Hồ Xuân Hương
(1772-1822), Phạm Thái (1777-1813), Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848), Lý Văn Phức (1785-1849), Nguyễn Đình Chiểu
(1822-1888), Nguyễn Khuyến (1835-1909), Trần Tế Xương (1870-1907), v.v…[4].
Sách Thiên Nam Ngữ Lục (cuối thế kỷ XVII) gồm 8.136 câu thơ
lục bát, dùng tới 58.212 chữ Nôm.
Càng về sau chữ Nôm càng được sử dụng nhiều:
trong hơn 200 năm sau khi chữ Quốc ngữ đã ra đời nhưng chưa phổ cập, các linh
mục Công giáo đều dùng chữ Nôm viết tài liệu giảng đạo. Điều đó cho thấy vai
trò to lớn của chữ Nôm trong đời sống văn hóa ở ta, đặc biệt trong cộng đồng
Công giáo vốn không ưa dùng chữ gốc Hán.
Vì sao chữ Nôm khó học mà lại được sử dụng khá
phổ biến đến như vậy? Chủ yếu do chữ Nôm có yếu tố ghi âm rất rõ, ghi được
tiếng nói người bình dân, là “chữ của tiếng ta”. Hãy xem câu “Sóng tình
dường đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi” (Truyện Kiều,
câu số 499-500): hầu như toàn bộ là tiếng “thuần Việt”, không có từ Hán - Việt
- là những âm mà chữ Nho không thể hiện được. Ngôn ngữ học thời nay giải thích:
chữ Nôm có được yếu tố ghi âm là do tiếng Việt giàu âm tiết nên vượt qua được
sự hạn chế của ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic)[5].
CHỮ QUỐC NGỮ
Thế kỷ XVII các giáo sĩ Kitô giáo Dòng Tên
Francisco de Pina, António Barbosa, Gaspar do Amaral, António de
Fontes,Girolamo Maiorica, Alexandre de Rhodes v.v… đến nước ta truyền giáo.
Dòng Tên chỉ tuyển người có trình độ tiến sĩ [6], và nghiêm khắc yêu cầu nhà
truyền giáo phải thông thạo ngôn ngữ và theo phong tục tập quán của dân bản xứ.
Theo ghi chép, Francisco de Pina đến Việt Nam
năm 1617, ba năm sau đã cùng các giáo sĩ soạn tài liệu giáo lý bằng chữ Nôm.
Trong các năm 1632-1656 giáo sĩ Girolamo Maiorica (người Ý) đã viết 45 tác
phẩm chữ Nôm, trong đó Thư viện Quốc gia Pháp hiện còn giữ 15 tác phẩm với
tổng số 1, 2 triệu chữ Nôm [7], nhiều gấp 52 lần số chữ Nôm trong Truyện Kiều.
Một số thư viện còn giữ được nhiều tài liệu chữ Nôm của các giáo sĩ đi đầu làm
chữ Quốc ngữ như Gaspar do Amaral, António Barbosa…
Vì đối tượng truyền giáo thời ấy là nông dân,
ngư dân Quảng Nam, Quảng Ngãi nên dĩ nhiên các tài liệu giảng đạo chữ Nôm phải
dùng từ ngữ của dân thường. Từ đây có thể suy ra các vị giáo sĩ-bậc thầy ngôn
ngữ học ấy không thể không nhận thấy chữ Nôm có yếu tố biểu âm, vàđã ghi được
phần lớn âm tiếng Việt, nhưng chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ nên ghi âm
chưa chính xác, và khó học, khó phổ cập. Kinh nghiệm thất bại của các giáo sĩ
Dòng Tên ở Nhật trong việc phiên âm Latin hóa chữ Kanji biểu ý (tức chữ Hán)
càng cho thấy việc chữ Nôm có yếu tố biểu âm là một thuận lợi lớn khi phiên âm
nó thành chữ biểu âm Latin hóa.
Với nhận thức như vậy, các giáo sĩ giỏi chữ
Nôm kể trên dĩ nhiên đã sớm nảy ra ý tưởng và niềm tin có thể dùng chữ cái
Latin để phiên âm chữ Nôm, biến thứ chữ gốc Hán có yếu tố biểu âm ấy thành thứ
chữ biểu âm Latin hóa dễ học dễ dùng cho việc truyền giáo.
Hiển nhiên, phiên âm một loại tiếng nói đã có
chữ viết ghi lại âm của tiếng đó thì đơn giản nhiều so với việc phiên âm thứ
tiếng nói chưa có chữ viết - ở thời xưa, đó là một công trình lao động sáng tạo
cực kỳ phức tạp, cần nhiều người làm trong hàng trăm năm.
Trên thực tế, các giáo sĩ kể trên dù rất ít
người và làm việc phân tán nhưng đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái Latin thích
hợp thay cho các ký tự vuông tương ứng trong chữ Nômvà tạo ra loại chữ mới
trong thời gian ngắn kỷ lục: 32 năm (1617-1649). Năm 1617 Francisco de Pina đến
Đàng Trong, năm 1619 đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ Latin.
Năm 1631 Gaspar do Amaral đến Đàng Ngoài, năm sau đã ghi âm rất tốt tiếng Việt,
năm 1634 làm xong một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trongmấy cuộc gặp tại Macao
(1630-1631), các giáo sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết của
tiếng Việt. Năm 1649 Rhodes mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium
Annamiticum Lusitanum et Latinum) rời Việt Nam. Năm 1651 Từ điển này được
xuất bản tại Roma, đánh dấu sự ra đời chữ Quốc ngữ Việt Nam [8]. Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử, chữ viết biểu âm Latin hóa thành công ra đời tại khu vực
ảnh hưởng của Hán ngữ.
Trong quá trình làm chữ Quốc ngữ, các giáo sĩ
đã phải giải quyết nhiều khó khăn gây ra bởi hệ ngữ âm tiếng Việt quá phong phú
và mới lạ. Vấn đề phức tạp nhất là phải nghiên cứu sáng tạo ra hệ thống ký hiệu
thể hiện được các thanh điệu sắc, huyền, hỏi. ngã, nặng, và các con
chữ thể hiện được các ngữ âm không có trong bộ chữ La tinh như ă, â, ê,
ơ, ô, ư, đ. Bộ ký hiệu và con chữ ấy làm nên cái gọi là “giày và mũ” trong
nhận xét của một học giả nổi tiếng Trung Quốc: “Chữ viết của Việt Nam sau khi
phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười.” [9]. Thực ra “mũ, giày”
ấy là những sáng tạo hợp lý tới mức người Việt xưa và nay đều không chấp nhận
bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký hiệu và con chữ đó. Ví dụ gần đây
công luận không tán thành một số phương án chữ Quốc ngữ bỏ dấu. Ngoài ra các
giáo sĩ đã hiệu chỉnh những âm tiếng Việt mà chữ Nôm chưa ghi chính xác, và
hiện đại hóa ngữ pháp cùng cách viết, như đưa vào các loại dấu ngắt câu, ngắt
đoạn, dấu ngoặc, ký hiệu toán học, lối viết hoa, viết tắt, v.v…
Về hình thức, chữ Quốc ngữ khác hẳn chữ Nôm,
nhưng về bản chất cả hai đều là các hệ chữ viết ghi âm tiếng Việt; chữ Quốc ngữ
trong Từ điển Việt-Bồ-La thể hiện rất rõ mối tương quan với chữ Nôm [10].
Sau mấy chục năm dầy công lao động sáng tạo,
các vị giáo sĩ nói trên đã hoàn thành việc phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành
một thứ chữ biểu âm dùng chữ cáiLatin -loại chữ viết tiên tiến nhất, quốc tế
hóa nhất thời đó, về sau được gọi là chữ Quốc ngữ. Rõ ràng, chữ Quốc
ngữ chính là chữ Nôm được Latin hóa và hiện đại hóa.
Giả thử thời ấy chưa có chữ Nôm, chỉ có chữ
Nho, thì việc làm chữ của các giáo sĩ sẽ vô cùng khó khăn vì chữ Nho vốn là chữ
Hán. Thực tiễn cải cách chữ viết ở Trung Quốc đã chứng tỏ không thể dùng bất cứ
bộ chữ cái nào để phiên âm chữ Hán thành chữ biểu âm.
Năm 1582 giáo sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci
đến Trung Quốc truyền giáo. Ông rất giỏi Hán ngữ, đã dành nhiều năm nghiên
cứucách phiên âm chữ Hán. Năm 1605, Ricci đưa ra phương án phiên âm chữ Hánbằng
chữ cái Latin, nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn, chứ
chưa phải là một loại chữ viết mới. Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục
nghiên cứutheo phương hướng của Ricci nhằm mục tiêu tạo ra một thứ chữ biểu âm
có thể thay thế chữ Hán mà họ muốn loại bỏ. Nhưng mọi cố gắng ấy đều không có
kết quả. Năm 1958, Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án phiên
âm (Pinyin) Hán ngữ dùng chữ cái Latin, nhưng chỉ có tác dụng phụ trợ là ghi
chú âm cho chữ Hán, không phải là một loại chữ viết. Từ năm 1986, Ủy ban này
không còn nhắc tới mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hánnữa, và nói
tương lai của chữ Hánsẽ do các thế hệ sau quyết định. Hiện nay Trung Quốc vẫn
dùng chữ Hánnhư cũ, có kết hợp dùng phương án Pinyin Hán ngữ chỉ để ghi chú âm
đọc chữ Hán.
Tóm lại, việc dùng chữ cái Latin phiên âm chữ
Nôm thành chữ biểu âm đã thành công ngay từ giữa thế kỷ XVII, trong khi mọi cố
gắng tương tự đối với chữ Háncho tới nay vẫn bất thành. Tại sao vậy? Đó là do
chữ Nôm có yếu tốbiểu âm, còn chữ Hánbiểu ý không biểu âm; và tình trạng đó bắt
nguồn sâu xa từ chỗ tiếng Việt giàu âm tiết, tiếng Hán nghèo âm tiết.
Đến đây có thể kết luận:Chữ Nôm đã xây
đắp nền tảng ngôn ngữ để các giáo sĩ nói trên dựa vào đó tạo ra chữ Quốc ngữ. Toàn
dân Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công trạng làm chữ Nôm của tổ tiên ta, coi
chữ Nôm là một sáng tạo ngôn ngữ xuất sắc góp phần quyết định sự hình thành chữ
Quốc ngữ.
Sau cùng cần nhấn mạnh vai trò quan trọng của
Kitô giáo. Là hiện tượng văn hóa của số đông loài người, các tôn giáo lớn đều
tôn sùng và truyền bá tư tưởng nhân ái cao quý. Thế kỷ XVII, các giáo sĩ Kitô
giáo người Âu khi đến Việt Nam truyền giáo đã kết hợp làm sứ mạng khai hóa dân
bản xứ, khác hẳn hành vi xâm chiếm thuộc địa của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Thực dân Bồ Đào Nha khi chiếm Brazil đã cưỡng bức đồng hóa dân bản xứ bằng cách
bắt họ nói tiếng Bồ, trong khi các giáo sĩ Kitô giáo người Bồ như Franciscode
Pina… đến Việt Nam truyền giáo đã không làm thế mà còn tìm cách Latin hóa chữ
Nôm. Hơn nữa, de Pina còn nghĩ tới việc dùng thứ chữ hiện đại này bắc cây cầu
đối thoại Việt Nam với châu Âu văn minh, và tạo dựng một nền văn hóa mới cho
nước ta [11]. Đây thật là một ý tưởng cao quý! Khi mới chiếm Việt Nam, thực dân
Pháp từng chủ trương bắt dân ta đời đời nói tiếng Pháp như chúng đã làm ở các
thuộc địa châu Phi. Nhưng giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes lại hăng hái
làm chữ viết riêng giúp cho người Việt giữ được tiếng mẹ đẻ. Nếu chưa có chữ
Quốc ngữ thì nước ta ắt hẳn đã bị người Pháp đồng hóa từ lâu.
Bởi vậy sẽ là sai lầm khi cho rằng các giáo sĩ
đạo Kitô đến Việt Nam truyền giáo là để phục vụ chính sách xâm lược của thực
dân Pháp. Với truyền thống Uống nước nhớ nguồn, dân tộc ta ghi ơn
tất cả các giáo sĩ Kitô giáo đã góp phần làm ra thứ chữ viết kỳ diệu ta dùng
hơn trăm năm nay.
Và như vậy có thể nói chữ Quốc ngữ là
thành quả kết hợp trí tuệ của nền văn minh Việt với nền văn minh Kitô giáo,
là món quà vô giá mà các giáo sĩ Dòng Tên trao cho dân tộc ta trong một ngẫu
nhiên lịch sử xảy ra ở thế kỷ XVII.
Ghi chú
[1] Thứ chữ này đến đời nhà Nguyên (thế kỷ
XIV) mới có tên “chữ Hán”. Ở đây gọi thế cho tiện.
[2] Nguyễn Hải Hoành: “Người
Nhật phát triển Hán ngữ hiện đại”
[3] https://hocthenao.vn/2013/ 09/07/the-chan-vac-cua-ngon- ngu-van-tu-viet-dao-mong-nam- nguyen-tien-van/
[4] Lại Nguyên Ân : “Chữ
Quốc ngữ và đời sống cộng đồng người Việt”.
[5] Nguyễn Hải Hoành: “Một
vài tìm tòi về ngôn ngữ”. Tạp chí Tia Sáng số 11 (5/6/2020).
Lã Minh Hằng:
“Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”.
[8] Phạm Thị Kiều Ly: “Lịch
sử chữQuốc ngữ từ 1615 đến 1861: Quá trình La-tinh hóa tiếng Việt trong trào
lưu ngữ học truyền giáo”. TC Tia Sáng số 24 (20/12/2019).
[9] Nguyễn Hải Hoành: “Sao lại
nói chữ Quốc ngữ Việt Nam rất nực cười?”
[10] Nguyễn Ngọc Quân: “Chữ
Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La trong tương quan với cấu tạo chữ Nôm đương
thời”.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment