NIẾT BÀN
Toàn Không
(Tiếp theo)
IV). NHỮNG
CÂU HỎI VỀ NIẾT BÀN:
Sau đây là một số
câu hỏi liên quan đến Niết Bàn:
1). NIẾT
BÀN CÓ PHẢI LÀ HƯ VÔ KHÔNG?
Có người hiểu Niết Bàn và hư vô là
một, Niết Bàn là trống rỗng trống không,
không
có gì hết; nếu chỉ vì các giác quan không thấy không biết, không nhận ra
được mà
cho rằng Niết Bàn là hư vô thì vô lý. Cũng như người mù từ lúc mới sinh
ra, không
thấy màu sắc hay mặt trời mặt trăng, nay có người nói các màu sắc đỏ
vàng xanh
tím trằng đen khác nhau, hay diễn tả mặt trời tròn có sức nóng và tỏa
ánh
sáng v.v… Người mù ấy khó mà tưởng tượng nổi những sự khác biệt giữa các
màu
sắc, và cho rằng làm gì có sự khác biệt như thế; cũng như khó tưởng tượng
ánh
sáng như thế nào?
Ngôn ngữ không thể diễn tả được ý nghĩa của những gì qúa trừu tượng ngoài
lãnh
vực của thế gian, vì vậy khi các vị đạt qủa A La Hán diễn tả Niết Bàn, chúng
]ta
không sao hiểu nổi, nên các vị nói rằng: “Nếu không gian là không thì Niết Bàn
]là
có, và Niết Bàn là đạo qủa, Niết Bàn có thể chứng ngộ được như một đối tượng
tinh
thần”. Do đó, Niết Bàn không phải là hư vô, mà là hạnh phúc hoàn toàn, là tuyệt
đối
duy nhất, phải tự chứng ngộ mới hiểu được.
2). LÀM
SAO BIẾT CÓ NIẾT BÀN?
Mỗi người đều có tự tính Niết Bàn, chỉ vì bị trần cấu tham sân si tà kiến, chấp
nhân
ngã chúng sanh thọ giả v.v…mà thành khuấy động, nghĩa là bị ái dục, vô
minh
gây phiền não nên Niết Bàn bị che lấp, vùi dập; vì vô minh mà tạo nghiệp,
vì tạo
nghiệp nên có sinh tử, nếu không tạo nghiệp, sẽ dứt được luân hồi, tức đạt
được
Niết Bàn. Biết bao nhiêu đệ tử của Đức Phật từ hàng cư sĩ tại gia, cho đến
hàng
Phật tử xuất gia đã chứng qủa Niết Bàn, thể hiện một cách cụ thể rằng thực
tế có
Niết Bàn, sau khi diệt trừ hết phiền não cấu uế ở đời.
3). NIẾT
BÀN CÓ THỰC HAY KHÔNG THỰC?
Người đời thường hay chấp chặt, khi nói có, họ chấp có thường còn, trường tồn
vĩnh
cửu, khi nói không họ chấp hoàn toàn không, chẳng có gì. Niết Bàn không phải
thực
có hay thực không, nó xa lià có và không. Vì nếu nói có thì phải có hình tướng,
có
thể diễn tả được; Niết Bàn không có hình tướng để có thể chỉ ra được, nên không
thể
bảo Niết Bàn là thực có hay thực không.
Như trong Tạp A Hàm quyển 3, trang 659 cho biết Tôn giả Đà Phiêu Ma La Tử đến
chỗ
Đức Phật lễ Phật xin phép Phật cho phép Ngài nhập Niết Bàn. Sau hai lần xin
phép,
Phật
im lặng chấp thuận, tới lần xin phép thứ ba, Đức Phật bảo: “Các pháp hữu
vi đều
như
thế cả”, các pháp, cái gì là vật chất đều
vô thường tan hoại cả. Tôn giả Đà Phiêu
Ma La
Tử sau khi được đức Phật cho phép, liền phóng thân lên hư không, ở trên hư
không
làm đủ 18 phép thần biến hóa trong tư thế ngồi nằm, đi, đứng. Tôn giả dùng
lửa
đốt thân, dùng nước tưới mát thân, sau cùng, dùng lửa tam muội đốt toàn thân
như
một cây đuốc, ánh sáng tỏa khắp, cho đến khi thân tâm đều tiêu diệt hết, biến
hết
chẳng còn gì, như ngọn đèn tim dầu cùng hết. Lúc ấy Đức Phật nói kệ diễn tả
Niết
Bàn như sau:
Ví như đốt thanh sắt,
Lửa lóe sáng rực rỡ,
Sức nóng dần dần mất,
Cũng như thế giải thoát,
Vượt bùn lầy phiền não,
Các dòng đã dứt sạch,
Chứng đắc dấu bất động,
Nhập Vô dư Niết Bàn.
4). NIẾT
BÀN Ở ĐÂU?
Niết Bàn tùy thuộc mỗi con người, tùy thuộc sự chấm dứt đau khổ phiền não;
Niết
Bàn không tùy thuộc ở sự cấu tạo vật chất, Niết Bàn không phải là một cảnh
giới
nào đã được tạo ra hay một cái gì được tạo ra. Đức Phật không chấp nhận
Niết
Bàn là một cảnh Trời nào dành riêng cho một cá thể xuất chúng, mà là sự
thành tựu,
mọi chúng sanh đều có thể đạt đến; Đức Phật không chấp nhận có
một
cảnh trời vĩnh cửu trong ấy có hình thức khoái lạc mà con người mong muốn
thỏa
thích hưởng thụ theo ý nghĩa của thế gian này; không thể có một cảnh giới
nào
như vậy, bất luận là nơi nào trong vũ trụ.
Niết Bàn không ở nơi nào nhất định, nó tùy duyên, có duyên thì hiện, hết duyên
thì
ẩn chứ không về đâu, ở đâu không nhất định; nếu diệt hết khổ, vững vàng trên
nền
tảng đạo hạnh trong việc nhiếp tâm quán tưởng, dù ở trời Đông hay trời Tây,
trời
Nam hay trời Bắc, đều sẽ thành tựu đạo qủa Niết Bàn như nhau.
5). NIẾT BÀN TỊCH TĨNH HAY BIẾN ĐỘNG?
Niết Bàn không biến chuyển, không di động, nó
tịch tĩnh bất động, nhưng không
phải
như thây chết hay núi đá yên lặng bất động; Niết bàn tuy tịch tĩnh vắng lặng
bất
động, nhưng luôn luôn chiếu soi; vì vậy chư Phật có tam thân (Pháp thân, hóa
thân,
và báo thân), ngũ nhãn (nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn, Phật
nhãn),
ngũ trí, lục thông v.v… Vô số diệu dụng: Chư Đại Bồ Tát tuy bất động nhưng
vào
các loài để giáo hóa chúng sinh ở bất cứ nơi đâu cũng là cảnh giới không thể
nghĩ
bàn, không phải đến Niết Bàn rồi không còn gì nữa.
6). CÁI
GÌ NHẬP NIẾT BÀN?
Chẳng có cái gì nhập Niết Bàn cả, Niết Bàn tự nó có sẵn, mỗi chúng sinh đều
có tự
tánh Niết Bàn, tự nó xưa nay vẫn vậy. Mỗi chúng sinh do hai phần danh và
sắc
khi đủ nhân đủ duyên thì thành, khi hết duyên thì mất. Hai phần này luôn luôn
biến
đổi, ngoài hai yếu tố ấy, không có một linh hồn bất biến trường cửu, không có
một
cái ta nào cả; do đó, không có cái ta hay linh hồn nhập Niết Bàn, Niết Bàn của
Phật
giáo khác hẳn với Ấn Độ giáo, Ấn Độ giáo tin có linh hồn trường tồn bất biến
và
một Thượng đế.
Niết Bàn thật là khó hiểu đối với mọi người, vì không thể dùng ngũ quan tri
giác
của
con người mà hiểu biết được. Nhưng muốn hiểu biết Niết Bàn, con đường
Phật
đã dạy thật rõ ràng minh bạch. Nếu ai thành tựu được Niết Bàn sẽ hiển
hiện
rõ ràng trước mặt người ấy.
V). LÀM
SAO ĐẠT NIẾT BÀN?
(Còn tiếp)
__._,_.___ NIẾT BÀN
Toàn Không
(Tiếp theo)
V). LÀM
SAO ĐẠT NIẾT BÀN?
Để đạt Niết Bàn, chúng ta phải theo con đường Trung Đạo mà Đức Phật đã vạch ra.
Chúng
ta phải tránh xa hai cực đoan là lối tu “khổ hạnh”, và lối sống “lợi dưỡng”, vì
cả
hai cực đoan này đều làm chậm bước tiến của người tu hành.
Người có chính kiến nhận định rõ ràng luật nhân qủa để tránh xa điều ác, cố
gắng
thực hiện điều lành. Người có chính kiến thấy rõ ràng đời sống là qúy giá,
không
những đối với mình, đối với người thân của mình, mà còn đối với loài người,
và cả
đối với loài vật lớn nhỏ; tất cả đều tôn trong triệt để không xâm phạm, không
làm
tổn hại.
Người có chính kiến cũng là người liêm khiết chân thật, không những không xâm
phạm
của cải tài vật của người, mà còn biết bố thí bằng mọi hình thức; người có
chính
kiến không những xa lánh dâm dục tà vạy trong sự giao tiếp với người khác
phái,
mà đối với mọi người còn dùng thật ngữ, chân ngữ, dùng lời nói chân thật,
ngay
thẳng, hòa hợp, dịu dàng. để giao thiệp.
Người có chính kiến không những xa lánh rượu, mà còn xa lánh cả với ma túy,
vì nó
làm cho trí tuệ bị tiêu mòn, thể xác yếu đuối bệnh hoạn; người có chính kiến
sống
giản dị biết đủ, sống trong sạch không bon chen. Biết tự kiểm soát sáu căn
“mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý”, không để sáu trần “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”
dính
mắc
lôi cuốn, nghĩa là không để thế gian tình trần dẫn dắt để tâm không bị chao
động, được
yên ổn.
Các vị cư sĩ giữ năm giới căn bản, tu hành vẫn có thể trở thành bậc Thánh. Các
vị
xuất
gia tôn trọng triệt để giới luật của người xuất gia, sẽ dễ dàng hơn rất nhiều;
'
muốn
tiến đến Niết Bàn, chúng ta phải thực hành “Giới, Định, Huệ”. Các đề mục
để
tham thiền có rất nhiều, như dùng đất, nước, không khí, màu sắc v.v… làm
đối
tượng quán sát. Những đề mục để ghi nhớ, nghĩ tưởng (niệm) như suy niệm
về
Phật, Pháp, Tăng, Giới, bố thí, chư thiên, quán thân, quán hơi thở, quán từ bi
hỷ
xả,
quán người chết, quán vô thường, vô ngã v.v…
Hành giả có thể dùng một hình ảnh tượng trưng để suy gẫm, quán sát như dùng
một
ngọn đèn đang cháy để quán về lửa, dùng một bát nước để quán về nước,
dùng
một qủa bóng hay một bông hoa màu xanh, đỏ, vàng v.v… để quán sát hình
ảnh
hay màu sắc một cách kiên cố sẽ đưa tới nhất tâm thanh tịnh, vắng lặng.
Hành giả tu Tứ niệm xứ, Tứ chính cần, Tứ thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy
giác
chi,
Tám thánh đạo (gồm 37 Đạo phẩm), Tứ thiền, Tham thiền v.v… tới khi tâm được
an
trú sẽ dẫn tới Niết Bàn.
Hành giả phải nghiên cứu kỹ và chọn một đề mục thích hợp để thực hành, trước
khi
thực hành phải nghiên cứu cho tường tận cách hành trì, và phải có một thời khóa
biểu
giờ giấc hành trì; như buổi tối yên tĩnh, buổi sáng tươi mát là những lúc
thích
hợp
nhất để ngồi tham thiền; nên cố giữ đúng giờ mỗi ngày thành thói quen sẽ có
ảnh
hưởng tốt cho việc định tâm, nên đọc bài “Ngồi thiền” để biết rõ cách sửa soạn
và
cách ngồi thiền.
VI). KẾT
LUẬN VỀ NIẾT BÀN:
Định kiểm soát tâm, nhưng Huệ mới là chính để giúp hành giả từ phàm trở nên
Thánh,
Huệ giúp tận diệt mọi nhiễm ô để nhận ra chân tướng của vạn pháp; với
tâm
định, hành giả quán sát thân tâm: Có thân là do tứ đại “đất, nước, gió, lửa” mà
tạm
có, khi tứ đại tan rã sẽ không còn thân nữa. Tâm do “thụ, tưởng, hành, thức” mà
tồn
tại, những thứ này luôn luôn biến đổi không ngừng, không có thực thể. Vì thế
cho
nên thân tâm do Năm uẩn hợp lại không phải là ta, không phải là cái của ta,
không
phải là tự ngã của ta. Nó chỉ là do “nghiệp thức” qúa khứ lưu chuyển, hợp với
tinh
cha huyết (trứng) mẹ mà có thân hiện hữu.
Do nhân duyên ấy, qúa khứ tạo điều kiện cho hiện tại, hiện tại tạo điều kiện
cho
tương
lai. Suy niệm như thế sẽ thấy rõ diễn biến của sinh tử (sống chết), nó như
một
dòng nước chảy không ngừng, nó là vô thường, là khổ, không có một linh
hồn
trường cửu bất biến; hành giả nhìn rõ điều đó, không còn lầm lẫn, cảnh sống
chỉ
là tạm bợ, cảnh vui chỉ là tạo khổ, không có hạnh phúc chân thật; khoái lạc
chỉ
là mở đường cho đau khổ, chỗ nào có biến đổi vô thường, chỗ đó có đau khổ,
và
chỗ nào có biến đổi sẽ không có tự ngã trường tồn vĩnh cửu được.
Các vị A la Hán còn mang thân Ngũ uẩn, nên vẫn như mọi người về thể xác,
nhưng
khi
các vị nhập Đại định sẽ không còn thấy thân thể đau đớn. Lúc ấy mọi thứ của cơ
thể đều
ngưng bặt như ngưng bặt hơi thở, nhưng vẫn còn hơi nóng, giác quan
vẫn
sáng suốt.
Khi vị A La Hán nhập diệt như ngọn đèn dầu trước gió tắt biến, thoát khỏi danh
sắc,
thân tâm, rồi biến mất, không thể ghi nhận được Ngài đi đâu; ta không thể nói
vị A
La Hán sẽ tái sinh, vì mọi điều kiện tạo sự tái sinh đã tiêu diệt hết. Ta không
thể
nói
vị A La Hán mất tiêu thành hư vô, vì không có gì để mất tiêu thành hư không;
vậy
Niết Bàn là sự giải thoát khỏi mọi sự buồn phiền đau khổ, là sự tận diệt tự
ngã,
và là
sự tận diệt vô minh.
Niết Bàn là bản thể của tự tánh đầy khắp không gian, chỗ nào cũng hiện diện,
bất
sinh bất diệt, tràn khắp thời gian quá khứ hiện tại tương lai, lúc nào cũng có,
bởi
vậy:
Muốn đạt quả Niết Bàn,
Hãy tinh tấn tu hành,
Đừng như chim hạc già,
Chết rũ nơi đồng hoang.,.
No comments:
Post a Comment