DIỆU DỤNG
CỦA TU CHỨNG
Toàn
Không
I). DIỆU
DỤNG CỦA TU CHỨNG LÀ GÌ?
Diệu dụng
của tu chứng là khi diệt trừ hết tham, sân, si, tà kiến, ngã chấp, kiêu mạn, đố
kị v.v…nghĩa là tất cả những thói hư tật xấu, ái dục, vô minh đã bị tiêu trừ
hoàn toàn. Đồng thời hành trì thiền đinh, hoặc quán tưởng, hoặc tham thiền v.v…
kiên cố, sẽ dẫn hành giả tới kiến tính, đốn ngộ, giác ngộ gọi là đạt quả tối
thượng giải thoát.
Khi đã giải thoát rồi, vị ấy thấy biết như thật, không còn lầm lẫn chân tà, giả
thật. Vị ấy tự thấy biết như thật đã ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, vị ấy sống
rất tự tại trong mọi trạng huống ở đời; vị ấy thường trải bốn vô lượng tâm Từ
Bi Hỷ Xả đến khắp chúng sanh, thường hằng cứu độ tất cả chúng sinh (chúng sanh
trong sáu cõi).
Trong khi sống ở đời, vị ấy hành sử rất gương mẫu, và có những đặc thù mà người
thường không thể có được, nên vị đó được gọi là bậc Thánh nhân; một bậc Thánh
nhân với đầy đủ ý nghĩa có diệu dụng kỳ đặc như “Ba thân, Năm trí, Năm mắt, Sáu
thần thông v.v…”
Để hiểu
rõ: chúng ta sẽ phân tích các diệu dụng mà một bậc Thánh đạt được khi đạt giải
thoát.
II). PHÂN
LOẠI DIỆU DỤNG TU CHỨNG:
1). BA
THÂN (Tam Thân):
A). THẾ
NÀO LÀ BA THÂN?
Ba thân là Pháp Thân, Báo Thân, và Hóa Thân; Chư Phật, và Chư đại Bồ Tát xuất
hiện ở thế gian để hoằng hóa độ chúng sanh, nên có nhiều hình thức khác nhau chỉ
vì lợi ích chúng sinh. Với quam điểm Ba Thân: không phải là trạng thái độc lập
riêng biệt, mà là biểu hiện của một bản thể duy nhất.
B). PHÂN
LOẠI BA THÂN:
1. Pháp
Thân:
Là
Thể Tánh thật sự, là Chân Như, Như Lai, Phật Tính, là Thể của vũ trụ. Pháp Thân
là Tánh, Phật Tính mà Phật và chúng sinh đều có như nhau, Pháp thân còn là quy
luật vận hành của vũ trụ, Pháp Thân cũng là Giáo pháp mà Đức Phật đã nói ra để
truyền dạy cho Phật tử.
Pháp Thân
thường hằng, bất biến, không hình tướng; A Lại Đa thức, Thức thứ tám của mỗi
người được gọi là Pháp Thân, Như Lai Tạng cũng được gọi là Pháp Thân.
Như vậy,
Pháp Thân, Thể Tính, Chân Như, Như Lai, Phật Tính, Tánh, Phật v.v… là Thể Tính
thanh tịnh, thường hằng, toàn năng; các vị Phật, đại Bồ Tát xuất hiện chính là
hiện thân của Pháp Thân vì lợi ích của chúng sinh.
Pháp Thân
là bản thể của tự tính cùng khắp không gian và thời gian, nó vô hình vô thanh
mà hay hiện hình hiện thanh, như như bất động mà biến hóa cùng tột, tràn đầy
năng lực.
2. Báo
Thân:
Là
Thụ Dụng Thân, là các thân Phật trong các cõi Tịnh Độ. Báo Thân là do thiện
nghiệp, công đức, tu hành, và giác ngộ của các vị Bồ Tát hóa hiện cho chúng
sinh thấy, nên gọi là Thụ Dụng Thân. Thân được hưởng những thiện nghiệp đã tạo,
công đức đã tu trì; Báo Thân thường mang 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp mà người thường
không thể có được.
3. Hóa
Thân:
Là
thân người của các vị Bồ Tát, cũng gọi là Ứng Thân, hay Ứng Hóa Thân, với mục
đích cứu độ con người. Hóa Thân do Báo Thân chiếu hiện dựa trên lòng từ bi, và
có mục đích giáo hóa chúng sinh. Hóa Thân cũng chịu mọi chi phối về thể xác như
mọi người, như sinh, già, bệnh, chết, nhưng Hóa Thân có đủ thứ Thần thông.
2). NĂM
TRÍ (Ngũ Trí):
(Còn tiếp)
__._,_.___
DIỆU DỤNG
CỦA TU CHỨNG
Toàn Không
(Tiếp theo)
2).
NĂM TRÍ (Ngũ Trí):
Như bài “Trí Huệ” đã nói theo Duy Thức Tông có Bốn Trí (Tứ trí) là
“Thành
Sở Tác Trí, Diệu Quan Sát Trí, Bình Đẳng Tính Trí, và Đại Viên
Cảnh
Trí”. Trong bài này chúng ta phân tích sâu xa hơn, vì theo Mật
Tông
còn thêm một trí nữa là “Pháp Giới Trí”. Chúng ta lần lượt theo
dõi
để hiểu rõ vấn đề này:
1.
THÀNH SỞ TÁC TRÍ:
-
Theo Duy Thức Tông: Thành Sở Tác Trí do năm thức là
Nhãn,
Nhĩ,
Tỵ, Thiệt, Thân thức khi trở thành trong sạch không còn một tí
vẩn
đục, gợn nhơ của năm trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, nghĩa là
không
còn bị dính mắc, lôi kéo bởi trần cảnh ở đời. Tâm hành giả như
hồ
nước trong lặng không gợn sóng, nghĩa là đạt giác ngộ, lúc ấy năm
thức
trên biến thành “Thành Sở Tác Trí”; nghĩa là năm giác quan của ta
trở
thành có năng lực thần diệu kỳ bí, chứ không còn là giác quan của kẻ
phàm
phu chỉ nhận biết một cách hạn hẹp mà thôi.
-
Theo Mật Tông: Thành
Sở Tác Trí còn được gọi là Thành Sự Trí,
Trí
này do “Hành” (trong Năm Uẩn) cùng với tâm “ganh ghét” đã được
chuyển
hóa khi chứng ngộ vô ngã của chính bản thân của các pháp hữu
vi.
Trí này giúp hành giả hoàn thành tất cả mọi việc mà không tạo nghiệp,
đó
gọi là hành động vô vi. Trong Mạn Đà La, trí này thuộc Đức Phật Bất
Không
Thành Tựu, giáo chủ một cõi Phật ở phương Bắc.
2. DIỆU
QUAN SÁT TRÍ:
-
Theo Duy Thức Tông: Diệu
Quan Sát Trí do Ý thức là Thức thứ
sáu
góp ý phân biệt cho năm thức nêu trên, Ý thức làm việc suốt ngày
đêm
không ngưng nghỉ. Ban ngày suy nghĩ tưởng nhớ hết việc này tới
chuyện
khác, lo lắng buồn khổ, hân hoan vui mừng v.v…Ban đêm khi
ngủ
mộng mơ đủ thứ. Khi tâm viên ý mã (tâm ý lăng xăng loạn động
như
con khỉ chuyền cành, như con ngựa bất kham không để chân yên)
ấy đã
được buộc cột lại một chỗ hết đường cựa quậy qua sự tu hành
rồi,
ý thức chuyển thành Diệu Quan Sát Trí, có công năng quan sát thâm
diệu
cùng khắp.
-
Theo Mật Tông: Nguồn
gốc của Diệu Quan Sát Trí là “Tưởng”
(trong
Năm Uẩn) cùng với tâm trạng tham dục đã được chuyển hóa,
khi
chứng ngộ thành Diệu Quan Sát Trí. Trí này giúp hành giả biến
chuyển
khả năng của người bình thường thành trí huệ siêu việt, tùy
cơ
ứng biến đúng lúc đúng chỗ không cần dụng công; trong Mạn Đà La,
trí
này thuộc về Phật A Di Đà, giáo chủ một cõi Phật ở phương Tây.
3.
BÌNH ĐẲNG TÍNH TRÍ:
-
Theo Duy Thức Tông: Bình
Đẳng Tính Trí do “Mạt Na”, “tự ý
thức”,
“Thức thứ bảy” tự ý thức về chính mình, còn gọi là “Ý”, tự ô
nhiễm
cho rằng mình có một cái “ta”. Mạt Na đưa tin tức về cảm giác
chủng
tử từ sáu thức trước cho A Lại Đa (Thức thứ tám) gìn giữ tất cả
các
sự kiện, và chấp làm thật ngã thật pháp; tuy nhiên, nó luôn luôn
thay
đổi, nó là căn bản phiền não gồm: Ngu si, Tà kiến, Kiêu mạn, và
Ái
dục. Mạt Na còn là tác giả của “căn cảnh duyên, tác ý duyên, và
chủng
tử duyên”; nó có tánh tướng lo nghĩ và làm chỗ nương tựa cho
sáu
thức trước về ô uế hoặc trong sạch; Mạt Na phân biệt chủ thể
khách
thể, tạo nên ý thức “Nhị nguyên”(Cho rằng bản thể vũ trụ do
hai
bản thể làm thành, hoặc theo hai cái nguyên đề mà suy diễn ra
cái
khác như sáng tối, phải trái, đẹp xấu, yêu ghét v.v…). Mạt Na
chấp
ngã, nhân, chúng sanh, chấp đủ thứ điên đảo; năm giác quan
cùng
ý thức báo cho Mạt Na tin tức từ bên ngoài không hề đánh giá
tốt
xấu; nhưng chính Mạt Na, Thức thứ bảy này là kẻ đánh giá phải
trái,
hay dở, yêu ghét v.v… và ra lệnh cho sáu thức kia phản ứng hành
động.
Đồng thời Mạt Na đưa tất cả các cảm giác (chủng tử) vào A Lại
Đa
thức là Thức thứ tám; khi tu hành phá vỡ tan tành các “chấp” của
Mạt
Na, Mạt Na này chuyển thành “Bình Đẳng Tính Trí”, có công năng
nhận
thức chân thật về tính bình đẳng vô ngã trong vạn pháp.
-
Theo Mật Tông: Bình
Đẳng Tính Trí do “Thụ” (trong Năm Uẩn)
cùng
với tâm trạng kiêu mạn đã được chuyển hóa khi chứng ngộ. Trí
này
giúp hành giả thấy rõ sự bình đẳng giữa mình và chúng sinh, tinh
thần
Từ Bi Hỷ Xả phát xuất từ trí này; trong Mạn Đà La, trí này thuộc về
Phật
Bảo Sinh, giáo chủ một cõi Phật ở phương Nam.
4. ĐẠI
VIÊN CẢNH TRÍ:
-
Theo Duy Thức Tông: Các
cảm giác của tất cả các hoạt động
của
Năm Căn và Ý thức được Mạt Na đưa vào “A Lại Đa”, là Thức thứ
tám,
còn gọi là “Tàng thức”. A Lại Đa có nhiệm vụ gìn giữ tất cả các tin
tức ấy, gọi là “chấp trì sinh mệnh chủng tử” của các pháp, nó
luôn luôn
sẵn
sàng tiếp nhận tin tức do Mạt Na chuyển đến, không bao giờ đầy,
ví
như chiếc bình không đáy, bao nhiêu chứa cũng hết và không bao
giờ
mất. Cả đời người sóng gió lên bổng xuống chìm, trải qua biết bao
nhiêu
sự việc, trong A Lại Đa có đầy đủ, ví như cái máy “Vi tính” chứa
đủ
thứ của cuộc đời. Khi tu hành đạt đến địa vị vô lậu (sạch hết ô nhiễm
cấu
bẩn), thức này chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, nghĩa là thành cái trí
huệ
sáng suốt trong sạch như gương khổng lồ tròn đầy trong sạch soi
chiếu
cùng khắp, tương ưng cho Chân Như, Phật Tính.
-
Theo Mật Tông: Đại
Viên Cảnh Trí do nguồn gốc của “Thức” (trong
Năm
Uẩn) cùng với tâm trạng sân hận thuộc về ý trong ba cửa tạo
nghiệp
đã được chuyển hóa khi chứng ngộ, Trí này giúp hành giả nhìn
vạn
vật với tâm thức vô ngã, không phân biệt đúng sai, chấp nhận vạn
vật
với mỗi sắc thể riêng của nó. Trí này ví như tấm gương vì một hạt
bụi
nó cũng không bỏ qua, và khi hạt bụi bay đi, nó không còn để lại dấu
vết
gì; trong Man Đà La, trí này thuộc Phật Bất Động, giáo chủ một cõi Phật
ở
phương Đông.
5.
PHÁP GIỚI TRÍ:
Duy Thức Tông không đề cập tới Pháp Giới Trí, theo Mật Tông, trí
này
siêu
việt Pháp Giới, trí cùng tột. Nguồn gốc căn cơ của Pháp Giới Trí
là “Sắc” (trong Năm Uẩn) cùng với Vô minh thuộc về “thân” trong
ba
động
cơ tạo nghiệp là “thân, khẩu, ý”; trong Mạn Đà La, Pháp Giới Trí
thuộc
Phật Đại Nhật nằm ở Trung tâm.
3).
NĂM THỨ MẮT (Ngũ
Nhãn):
(Còn
tiếp)
__._,_.___
DIỆU DỤNG
CỦA TU CHỨNG
Toàn Không
(Tiếp theo)
3).
NĂM THỨ MẮT (Ngũ
Nhãn):
Năm thứ mắt gồm: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn,
và
Phật nhãn; các vị thành Phật mới có đầy đủ năm loại mắt này.
1. Nhục
nhãn:
Nhục nhãn là con mắt của người thường. Mắt này chỉ thấy ở chỗ
sáng
không thấy chỗ tối, chỉ thấy trước mặt không thấy sau lưng,
chỉ
thấy gần không thấy thật xa; không thấy khi bị ngăn che bởi
tường
vách, vật, núi, đồi v.v…, loài người, và tất cả loài vật súc sinh
có
loại mắt này.
2.
Thiên nhãn:
Có thể nhìn gần nhìn thật xa thấy hết, nhìn trong bóng tối hay
nhìn
dưới ánh sáng đều thấy như nhau; có thể cùng một lúc vừa
nhìn
phiá trước vừa nhìn phiá sau, nhìn qua mọi chướng ngại như
tường
vách, vật, núi dồi v.v… không bị trở ngại; Chư Thiên có mắt này.
3.
Pháp nhãn:
Pháp nhãn là con mắt đạo lý, Pháp nhãn thấy được sự đa dạng của
tất
cả các đạo lý; bậc có Pháp nhãn thấy được đạo lý của mười phương
ba
đời Chư Phật.
4. Huệ
nhãn:
Là con mắt trí huệ thấy được tính không của vạn vật, thấy được
nghĩa
lý sâu cạn của văn tự. Bậc có Huệ nhãn thấy được quả báo
đời
trước đời sau, lành hay dữ, như xem chỉ tay trong lòng bàn tay.
5. Phật
nhãn:
Là con mắt của bậc giác ngộ, nhìn thấu suốt thể tính của vạn sự.
Phật
nhãn sáng suốt hoàn toàn, soi khắp mọi nơi, thấu suốt từ vô thủy
kiếp
về trước tới vô số kiếp về sau; hiểu biết nhân quả như thấy trước mắt.
4).
SÁU THẦN THÔNG (Lục
thông):
Chư Phật và chư đại Bồ Tát có đầy đủ Sáu Thần thông như sau:
1.
Như Ý Túc thông:
Cũng gọi là Thần Túc thông: Có thể phân thân làm nhiều thân
khác
nhau, hay hợp nhiều thân làm một thân.. Có thể biến hóa thân
nhỏ
bé lại hay to lớn lên tới có thể sờ tới mặt trăng, mặt trời; có thể
đi
qua tường vách gạch sắt, đi qua núi đất đá; có thể đi trên mặt
nước
sông hồ như đi trên đất. Ngồi kết già bay trên không trung như
chim
bay qua cánh đồng lúa chín.
2.
Thiên Nhãn thông:
Nhìn thấy các tầng trời có Chư Thiên ở. Nhìn rõ cõi Thần, cõi Ngạ
qủy,
cõi Địa ngục. Nhìn rõ ban ngày cũng như ban đêm, nhìn rõ cùng
lúc
phía trước mặt và phiá sau lưng. Nhìn xuyên qua các vật cản trở,
tường
vách, núi đồi .v.v…
3.
Thiên Nhĩ thông:
Có thể nghe được tiếng nói dù xa tới vạn dặm, có thể nghe được
tiếng
nói của các loài gần xa không ngăn ngại. Có thể dùng Thiên nhĩ
để
nghe người khác nói hoặc nghe người khác cầu cứu từ rất xa.
4.
Tha Tâm thông:
Dùng Tha Tâm thông có thể biết ý nghĩ của người khác có tâm dục
hay
không, có tâm sân hay không, có tâm ác hay có tâm thiện. Biết tâm
niệm
người khác dù ở gần hay ở xa đều biết được cả.
5.
Túc Mệnh thông:
Biết được tiền kiếp của mình một đời, hai đời, ba đời, bốn đời,
mười
đời, trăm đời, nghìn đời, vô số đời. Biết kiếp nào tên gì, ở đâu,
sống
như thế nào, gia đình ra sao, thọ yểu thế nào v.v…. đều biết rõ
ràng
từng chi tiết nhỏ bé đều rõ ràng từng đời, từng kiếp cho tới vô
lượng
kiếp về trước.
Cũng biết người này người kia
kiếp trước sinh ở đâu, làm nghề
gì,
đời sống ra sao, gia đình thế nào, sống bao nhiêu tuổi v.v…
đều
biết hết thảy. Lại biết người kia kiếp trước làm lành làm ác thế nào,
kiếp
này tái sinh lãnh quả báo lành dữ ra sao. Tóm lại có thể biết tất cả
mọi
người qua lại tái sinh chỗ lành chỗ dữ đều do nghiệp đã tạo ra dẫn dắt.
6. Lậu
Tận thông:
Biết như thật các lậu hoặc ô nhiễm đã diệt sạch, nên được tâm giải
thoát
khỏi vô minh lậu. Biết như thật rằng: “Sinh tử đã hết, giải thoát đã
đạt,
việc tu hành đã làm xong, không còn tái sinh đời sau nữa”. Lại còn
có
thể biết lậu hoặc, ô nhiễm, thói hư tật xấu của người khác đã sạch
hết
hay chưa v.v….,.
__._,_.___
Posted
by: Tien Do <
No comments:
Post a Comment