VUA
THẦN BÀ LA LA
Toàn Không
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Hoàng Lộ, Bệ Lan Nhã, bấy giờ Vua Thần
(Vua A Tu La) có tên là Bà La La và Thái Tử Thần tên Mâu Lê Già có tướng sắc uy
nghi, ánh sáng chói lọi, vào lúc quá nửa đêm đến chỗ Đức Phật đảnh lễ rồi đứng
một bên. Khi ấy, Đức Phật hỏi:
- Này Bà La La, có
phải mọi Thần đều không bị suy thoái về tuổi thọ, hình sắc, vui vẻ, sức mạnh,
cho nên các Thần thích sống trong biển lớn chăng?
Vua Thần trả lời:
- Bạch Thế Tôn, các
Thần chúng con ở trong biển lớn không có sự bất tiện nào về tuổi thọ, hình sắc,
vui vẻ, sức mạnh, cho nên chúng con thích sống trong biển lớn.
Đức Phật lại hỏi:
- Này Ba La La,
trong biển lớn có những điều gì tốt đẹp đáng quý (vị tằng hữu), khiến các Thần
thích sống ở trong ấy?
Vua Thần trả lời:
- Trong biển lón của
chúng con có 8 điều đặc biệt khiến chúng Thần thấy vậy nên thích sống trong ấy,
những gì là tám? Bạch Thế Tôn, đó là:
Thứ nhất: Biển lớn của con từ
đáy lên trên, chu vi dần dần lớn rộng ra, nghiêng nghiêng chênh chếch dần dần
cho tới bờ biển. Lại nữa, nước luôn luôn đầy, do sự đặc biệt này, nên chúng con
thích ở trong ấy.
Thứ Hai: Thủy triều trong ấy
chưa từng sai thời, khiến chúng con thích ở trong ấy.
Thứ ba: Nước trong biển lớn
của con rất sâu, rất rộng, nên chúng Thần thích ở.
Thứ tư: Nước trong biển lớn
của con đều có một vị mặn, do đó chúng con thích ở trong ấy.
Thứ năm: Trong biển lớn của
con có rất nhiều trân bảo, vô lượng thứ quý báu lạ chứa đầy trong ấy, gồm vàng
bạc, thủy tinh, lưu ly, mani, trân châu, bích ngọc, bạch kha, san hô, hổ phách,
mã não, độc mao, xích thạch v.v... Đó là lý do các Thần chúng con thích ở trong
biển lớn.
Thứ sáu: Có nhiều vị Thần
cư ngụ trong biển lớn của con. Đó là Đại Thần Kiền Thấp Bà, La Sát, Ngư Ma Kiệt,
Quy Đà, Bà Ưu Nê, Đế Nghê Gia Na Đề, Đế Nghê Gia La.
Lại nữa, trong biển lớn của con rất kỳ lạ đặc biệt là có những chúng sanh thân
thể rất lớn sống ở trong nên chúng con thích ở biển lớn.
Thứ bảy: Trong biển lớn của
con rất trong sạch không dung chứa tử thi, khi có người chết trong biển thì
sóng gió đưa tử thi vào bờ. Khiến các Thần chúng con thích ở trong đó.
Thứ tám: Trong biển lớn của
con có 5 sông lớn chảy vào, đó là sông Hằng Hà, sông Diêu Vưu Na, sông Xá Lao
Phủ, sông A Di La Bà Đề, và sông Ma Xí biển lớn của con thâu nhận tất cả nước của
5 dòng sông chảy vào, khiến chúng con thích sống trong biển lớn ấy.
Sau khi trình bày tám đặc thù đặc biệt của Biển lớn khiến các vị Thần thích ở
trong ấy, Vua Thần hỏi Đức Phật:
- Bạch Thế Tôn,
trong pháp luật của Ngài có những pháp gì đặc biệt khiến cho các Tỳ Kheo thích ở
trong đó?
Đức Phật trả lời:
- Này Bà La La,
trong chính pháp luật của Ta cũng có 8 pháp đặc biệt khiến các đệ tử thấy được
liền hân hoan thích ở trong đó, đó là:
Thứ nhất: Cũng giống như biển
lớn chênh chếch lên khiến chu vi rộng lớn ra dần dần tới bờ và luôn luôn đầy nước.
Trong chính pháp của Ta có sự giáo hóa dần dần, học dần, thực hành dần, đoạn trừ
dần dần, ngày càng tiến bộ hơn; đây là cái đặc điểm thứ nhất trong chánh pháp của
Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó tu hành.
Thứ hai: Cũng giống như thủy
triều trong biển lớn chưa hề sai thời, trong pháp luật của Ta có những cấm giới
cho Tỳ Kheo (Tăng), Tỳ Kheo Ni (Ni), Ưu Bà Tắc (Cư sĩ Nam), Ưu Bà Di (Cư sĩ Nữ).
Dù cho đến khi qua đời, các thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy vẫn giữ giới, đó là
điểm đặc biệt thứ hai trong chính pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an
trú ở trong ấy.
Thứ ba: Cũng giống như biển
lớn rất sâu rộng, giáo pháp của Ta rất sâu rộng, khó lường. Đó là pháp vị đặc
biệt thứ ba khiến cho các đệ tử thấy rồi rất thích an trú ở trong ấy tu hành.
Thứ tư: Cũng như biển lớn
chỉ có một vị măn, chính pháp luật của Ta chỉ có một vị giải thoát, nó vô dục,
tịch tĩnh, đó là pháp vị thứ tư trong chánh pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi
thích thú ở trong ấy.
Thứ năm: Cũng như biển lớn
có nhiều trân bảo, có vô lượng thứ quý báu chứa trong ấy. Trong giáo pháp của
Ta có Bốn Chính Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tứ Niệm Xứ,
Bát Chính Đạo v.v... Đó là những pháp vị đặc biệt thứ năm trong giáo pháp của
Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó tu hành.
Thứ sáu: Cũng giống như
trong biển lớn có các Đại Thần cư trú và các chúng sanh lớn ở trong ấy, trong
chính pháp luật của Ta có Thánh chúng trú ở trong, đó là các bậc Tu Đà Hoàn, Tư
Đà Hàm, A Na Hàm, và A La Hán. Đó là pháp vị quý báu thứ sáu trong giáo pháp của
Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong.
Thứ bảy: Cũng giống như biển
lớn trong sạch không chứa tử thi, trong chánh pháp luật của Ta, tất cả các đệ tử
đều thực hành phạm hạnh (khuôn phép), các Thánh chúng đều thanh tịnh. Nếu có đệ
tử nào không tinh tấn sinh ra điều ác không phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, người
ấy dù giống như người tu, dù người ấy ở trong Thánh chúng, nhưng cách Thánh
chúng rất xa. Đó là pháp vị đặc biệt quý giá thứ bảy khiến cho các đệ tử thấy rồi
thích an trú ở trong đó.
Thứ tám: Cũng giống biển lớn
dung chưa nước của năm dòng sông lớn chảy vào, chính pháp luật của Ta tiếp nhận
thiện nam thiện nữ của năm giai cấp trong xã hội. Đó là dòng Sát đế lợi, dòng
Phạm chí Bà La Môn, dòng Dân giả, dòng Thợ thuyền, dòng thấp kém nhất trong xã
hội. Tất cả đều cạo bỏ râu tóc, khoác áo Cà Sa, chí tín, rời bỏ gia đình, sống
không gia đình, xuất gia học đạo, bỏ tên cũ có tên là Sa Môn. Đó là pháp vị đặc
biệt thứ tám trong chính pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở
trong đó tu hành.
Này Bà La La, ý ông nghĩ thế nào? Trong chính pháp của Ta có 8 pháp vị như thế,
trong biển lớn của Ông có 8 điều đặc biệt như thế, hai loại ấy, loại nào hơn,
loại nào tối thắng, loại nào vi diệu, tối thượng?
Vua Thần thưa:
- Bạch Thế Tôn, tám
pháp vị trong biển lớn của con không thể so sánh với tám pháp vị quý báu của Thế
Tôn, không bằng một phần nghìn, không bằng một phần vạn, không thể so sánh,
không thể ví dụ, không thể tính kể; chỉ có tám chánh pháp luật của Thế Tôn là tối
thắng, tối vi diệu, tối thượng.
Vua Thần Ba La La nói tiếp:
- Hôm nay, con đem
thân đến xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp của Như Lai, quy y đại chúng Tỳ Kheo.
Cúi xin Thế tôn chấp nhận cho con làm Ưu Bà Tắc từ nay đến trọn đời.
LỜI
BÀN:
Bài Kinh trên cho chúng ta biết Vua A Tu La trong biển Ấn Độ nối liền với Nam
Băng Dương rộng lớn, điều này nói lên cõi Thần không chỉ ở lưng chừng núi Tu Di
và lưng chừng hư không, mà còn ở cả trong các biển lớn như Đại Tây Dương, Thái
Bình Dương và Bắc Băng Dương nữa; và như vậy có nhiều Vua Thần, chứ không phải
chỉ có một Vua Thần Bà La La.
Bài Kinh trên Đức Phật giảng cho Vua Thần Bà La La và Thái Tử Mâu Lê Già nghe về
tám điều đặc biệt trong giáo pháp của Ngài để so sánh với tám điểm của Vua Thần,
nhưng cũng là bài giảng cho chúng sinh đời sau như chúng ta để học hỏi; chúng
ta phân tích sơ qua những điểm Đức Phật đã nêu ở trên để tìm hiểu cùng học hỏi.
1) – Trước hết, Đức Phật nói: “Trong
chính pháp của Ta có sự giáo hóa dần dần, học dần dần, thực hành dần dần, đoạn trừ
dần dần, ngày càng tiến bộ hơn. Đây là cái đặc điểm thứ nhất trong chánh pháp của
Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó tu hành.”
Điều này nói rằng Đức Phật dạy từ dễ dần dần đến khó, dần dần học hỏi thực
hành, làm cho các đệ tử không nản lòng mà thích theo đuổi cho đến mục đích cuối
cùng.
2) – Thứ hai, Đức Phật nói: “Trong
pháp luật của Ta có những cấm giới cho Tỳ Kheo (Tăng), Tỳ Kheo Ni (Ni), Ưu Bà Tắc
(Cư sĩ Nam), Ưu Bà Di (Cư sĩ Nữ). Dù cho đến khi qua đời, các thiện nam tử, thiện
nữ nhân ấy vẫn giữ giới. Đó là điểm đặc biệt thứ hai trong chính pháp của Ta
khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong ấy tu hành.”
Đức Phật đã tùy theo mỗi loại người để thiết lập ra giới luật thích nghi, vì sự
thích hợp ấy, cho nên tất cả bốn loại đệ tử của Phật đều cảm thấy có thể thực
hành được, nên đều hoan hỷ thi hành cho tới khi chết cũng không bỏ.
3) – Thứ ba, Đức Phật nói: “Giáo
pháp của Ta rất sâu rộng, không có đáy, không có bờ, khó lường. Đó là pháp vị đặc
biệt thứ ba khiến cho các đệ tử thấy rồi rất thích an trú ở trong ấy tu hành.”
Quả thật giáo pháp của Đức Phật vô cùng sâu rộng, chúng ta dù có học hết cả đời
cũng chưa hết được, nhất là phần thực hành để đạt bậc Thánh lại càng khó khăn,
nên các đệ tử đều cố gắng kiên trì học hỏi, hành trì để mong đạt mục đích tốt đẹp.
4) – Thứ tư, Đức Phật nói: “Chính
pháp luật của Ta chỉ có một vị giải thoát, nó vô dục, tịch tĩnh; Đó là pháp vị thứ
tư trong chánh pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích thú ở trong ấy.”
Nói đến giải thoát, giác ngộ, ra khỏi sinh tử khổ đau, được Niết Bàn, thì đệ tử
nào của Phật mà không cầu mong, nên những người đã hiểu giáo lý rồi, không ai là
không thích thú theo đuổi tới cùng.
5) – Thứ năm, Đức Phật nói:
(Còn
tiếp)
__._,_.___
VUA
THẦN BÀ LA LA
Toàn Không
(Tiếp theo)
5) – Thứ năm, Đức Phật nói:
“Trong giáo pháp
của Ta có Bốn Chính Cần, Bốn Như Ý Túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, Tứ Niệm
Xứ, Bát Chính Đạo v.v... Đó là những pháp vị đặc biệt thứ năm trong giáo pháp của
Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó tu hành.”
Đây là 37 Đạo Phẩm giúp cho người tu đạt giác ngộ giải thoát, những thứ nêu
trên còn quý hơn trân bảo quý kim, tại sao? Vì trân bảo quý kim không thể làm
cho chúng ta thành bậc Thánh được, những thứ nêu trên giúp chúng ta trở thành bậc
Thánh được. Chỉ cần thực hành đúng đắn, kiên cố bền bỉ là chúng ta có thể đạt mục
đích, chúng ta phân tích sơ qua về 37 Đạo Phẩm:
1. Thế nào là Bốn
Chính Cần?
Bốn
chính cần là bốn việc chính, cần siêng năng cần cù làm cho được kết qủa tốt đẹp,
làm cho tăng tiến mỹ mãn hơn lên, Bốn chính cần còn được gọi là Bốn chính đoạn;
Bốn chính cần ngầm ý có sự quyết tâm, nhẫn nại, chịu đựng, dẻo dai, cố gắng, bền
bỉ để:
1-
Làm cho sự việc đang có xấu giảm đi dứt luôn.
2-
Sự xấu chưa có không để sinh ra.
3-
Sự tốt đẹp đang có tiếp tục phát triển hơn lên.
4-
Sự tốt chưa có làm cho phát sinh ra.
2. Thế nào là Bốn
Như Ý Túc?
Là bốn điều được như ý muốn, bốn cách làm cho thiền định được kết qủa mỹ mãn đầy
đủ, đó là: 1. Ý chí quyết tâm, 2. Tinh tấn, 3. Nhất tâm nhất ý, và 4. Quán sát.
Đó là bốn nẻo đường dẫn tới thần thông, nên còn được gọi là “Bốn Thần Túc”.
Để giúp cho người tu hành tiến tới đạo qủa, Đức Phật đã dạy “Bốn Như Ý Túc”,
mà người tu hành cần phải học và hành khi thiền định để đi đến giải thoát; khi
đạt được tới đích, sự thù thắng sẽ thành tựu.
3. Thế nào là Năm
Căn?
Năm Căn là năm vấn đề căn bản, năm cội gốc, năm nguồn căn bản cho việc tu hành,
đó là: 1. Tín Căn, 2. Tinh Tấn Căn, 3. Niệm Căn (nhớ nghĩ), 4. Định Căn, và 5.
Huệ Căn.
4. Thế nào là Năm Lực?
Năm Lực là năm sức mạnh mẽ, là năm năng lực, năm sức lực, Năm Căn ví như năm
ngón của bàn tay, còn Năm Lực ví như sức co ruỗi của các ngón tay để cầm, nắm,
cấu véo, bóp, xoa. Năm Lực gồm có: 1. Tín Lực, 2. Tinh Tấn Lực, 3. Niệm Lực, 4.
Định Lực, và 5. Huệ Lực.
5. Thế nào là Bảy
Giác Chi?
Giác
chữ Phạn là Boddhi (Bồ Đề) là giác ngộ, Chi là nhánh, loại, phần, Bảy Giác Chi
là bảy loại tu tuần tự sẽ đạt đến đạo qủa; Bảy Giác Chi còn gọi là “Bảy Giác
Phần”, hay còn gọi là “Thất Bồ Đề”, bảy phương tiện thực hành sẽ đi
đến giải thoát. Bảy giác chi gồm có: Niệm Giác Chi, Trạch Pháp Giác Chi (lựa chọn),
Tinh Tấn Giác Chi, Hỷ Giác Chi, Khinh An Giác Chi, Định Giác Chi, và Xả
Giác Chi.
6. Thế nào là Tứ Niệm
Xứ?
Niệm là nhớ, nghĩ, để ý, biết, chú ý, ý thức, chú tâm, tỉnh
thức, quán sát.
Xứ là: nơi, chỗ, lĩnh vực, loại, hạng, phần.
Tứ Niệm Xứ là bốn lĩnh vực, bốn
loại cần để ý chú tâm tỉnh táo quán sát tỉ mỉ.
Đức
Phật nói Kinh “Tứ Niệm Xứ” trong đó có bốn phần cần biết ghi nhớ thực
hành, đó là “Niệm Thân, Niệm Thụ, Niệm Tâm, Niệm Pháp”. Đây là một
Kinh căn bản quan trọng để tiêu diệt buồn khổ, phá chấp ngã, xa lià chấp pháp,
và đạt tới cứu cánh giải thoát.
7. Thế nào là Bát
Chính Đạo?
Là
Tám Chính Đạo còn được gọi là Bát Thánh Đạo là con đường giải thoát, gồm có tám
nhánh là Chính kiến (nhìn biết như thật), Chính tư duy (suy nghĩ đúng như thật),
Chính ngữ (nói năng đúng sự thật), Chính nghiệp (hành động phải đạo), Chính mệnh
(nghề nghiệp chân chính), Chính tinh tấn (siêng năng cần mẫn), Chính niệm (nhớ
nghĩ không quên), Chính định (thanh tịnh sáng suốt), thiếu một trong tám nhánh
không thành Bát chính đạo.
Bát chính đạo là con đường dẫn đến Niết Bàn, nhưng cũng có ý nghĩa rằng Bát
chính đạo là để giải thoát khỏi vô minh, để giác ngộ tính “không”.
6) - Thứ sáu, Đức Phật nói: “Trong
chính pháp luật của Ta có Thánh chúng trú ở trong, đó là các bậc Tu Đà Hoàn, Tư
Đà Hàm, A Na Hàm, và A La Hán. Đó là pháp vị quý báu thứ sáu trong giáo pháp của
Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong.”
Đây là bốn quả vị do tu hành đạt được theo giáo pháp của Phật, từ quả vị thấp
nhất đến quả vị cao nhất của Tứ Thiền như sau:
1 - Người chứng quả
vị thứ nhất gọi là Tu Đà Hoàn. Nếu chưa đạt được qủa vị thứ hai, sẽ còn
phải tái sinh lại cõi người bảy lần nữa mới đạt tới quả Niết Bàn, nhưng các vị
này đã tạo được tâm tin Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) vững chắc, nên không còn bị
tái sinh vào các cõi dữ nữa.
2 - Người đạt qủa vị
thứ hai gọi là Tư Đà Hàm, chứng bậc thứ hai, các vị này nếu chưa chứng bậc
thứ ba, sẽ tái sinh cõi người một lần rồi tu tiếp cho tới đạt Niết Bàn.
3 - Người đạt qủa vị
thứ ba gọi là A Na Hàm. Nếu chưa đạt quả A La Hán trong đời hiện tại,
các vị này sau khi mạng chung sẽ không còn tái sinh lại cõi người, cũng không
tái sinh lên cõi trời Dục giới, mà sẽ tái sinh lên cõi trời Vô phiền ở Sắc giới;
vị ấy sẽ tiếp tục tu ở đấy, và đắc qủa A La Hán rồi nhập Niết Bàn khi hết tuổi
thọ.
4 - Người đạt quả vị
thứ tư gọi là A La Hán. Vị A La Hán biết rõ ái dục đã sạch, vô minh đã
tiêu diệt hoàn toàn, mọi ô nhiễm đều sạch hết, hành giả biết như thế, thấy như
thế, tâm giải thoát dục lậu (ô uế), tâm giải thoát hữu lậu, tâm giải thoát vô
minh lậu, giải thoát tri kiến. Vị ấy tự thấy rõ rằng: “Sự sinh của ta đã chấm
dứt, phạm hạnh đã lập, các điều cần làm đã làm xong, tự biết chẳng còn thọ thân
sau nữa”; bấy giờ, vị ấy chứng nghiệm hạnh phúc tối thượng.
7) - Thứ bảy, Đức Phật nói: “Trong
chánh pháp luật của Ta, tất cả các đệ tử đều thực hành phạm hạnh (khuôn phép), các
Thánh chúng đều thanh tịnh. Nếu có đệ tử nào không tinh tấn sinh ra điều ác không
phạm hạnh mà xưng là phạm hạnh, người ấy dù giống như người tu, dù người ấy ở
trong Thánh chúng, nhưng cách Thánh chúng rất xa. Đó là pháp vị đặc biệt quý
giá thứ bảy khiến cho các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong đó.”
Ý Đức Phật nói là một số người mặc áo tu nhưng không giữ giới nghiêm chỉnh, phạm
giới, không tu hành đàng hoàng, người ấy chẳng thể hưởng quả vị nào cả, mà khi
chết phải đọa địa ngục lâu dài, tai sao? Vì người ấy ăn của tín thí mà không
tu, nên mắc nợ, xuống địa ngục phải đền trả là lẽ công bằng của luật nhân quả;
người ấy, cho dù đời này mặc áo nhà tu, cho rằng là người tu hành, nhưng sự thực
cách xa với người chân tu như trời với đất.
8) - Thứ tám, Đức Phật nói: “Trong
chính pháp luật của Ta tiếp nhận thiện nam thiện nữ của năm giai cấp trong xã hội,
đó là dòng Sát đế lợi, dòng Phạm chí Bà La Môn, dòng Dân giả, dòng Thợ thuyền.
Tất cả đều cạo bỏ râu tóc, khoác áo Cà Sa, chí tín, rời bỏ gia đình, sống không
gia đình, xuất gia học đạo, bỏ tên cũ có tên là Sa Môn. Đó là pháp vị đặc biệt
thứ tám trong chính pháp của Ta khiến các đệ tử thấy rồi thích an trú ở trong
đó tu hành.”
Thật vậy, trong Tăng đoàn của Đức Phật có đủ các thành phần khác nhau trong các
đẳng cấp của Ân Độ. Có đệ tử từ hàng vương giả đến, có đệ tử từ hàng quan đại
thần vào, có đệ tử từ hàng Bà la môn nhập. Lại có đệ tử đã từng là người làm mướn,
người hớt tóc, người hốt rác, gái giang hồ, con nông gia, con thợ lò rèn v.v… Lại
có đệ tử từng là người hiền lương đạo đức, nhưng cũng có đệ tử tứng là kẻ trộm
cắp, kẻ giết người v.v…, nghĩa là trong Tăng đoàn của Đức Phật có đủ các thành
phần của xã hộị tốt xấu đủ cả. Thế nhưng, đẹp đẽ thay! Qúy hóa thay! Những người
vừa kể trên đều nghiêm trì giới luật, vâng theo lời dạy bảo của Đức Phật, tinh
tấn hành trì thiền định, và tất cả đều đã đắc qủa Thánh.
Bởi vậy, Vua Thần đã ca ngợi giáo pháp của Phật là tối thắng, tối vi diệu, tối
thượng, nghĩa là không có gì có thể so sánh, chẳng có gi bằng được, và cuối
cùng Vua Thần xin quy y Tam Bảo cũng như chúng ta. Do đó, chúng ta nên biết
rằng Phật pháp có ở cõi Người cõi Ma Qủy và cõi Trời, còn ở cõi Thần cũng biết
Phật, cũng có vị Thần quy y Phật Pháp Tăng, cũng có vị học Phật pháp vậy.,.
__._,_.___