BỒ
TÁT VĂN THÙ SƯ LỊ
Toàn Không
1).
VĂN THÙ SƯ LỊ LÀ BỒ TÁT NÀO?
Bồ
Tát Văn Thù Sư Lị (Lợi) thường gọi tắt là Bồ Tát Văn Thù, có nghĩa là Diệu Đức,
Ngài là Thượng thủ của Phật Thích Ca trong hàng Bồ Tát. Trong Kinh Duy Ma Cật
nói về Đại Bồ Tát Duy Ma Cật thị hiện tại cõi Ta Bà để giáo hóa chúng sinh dưới
hình thức là một người bệnh; một hôm, Đức Phật Thích Ca muốn cử một đệ tử đại
diện hướng dẫn bốn chúng đi thăm bệnh Duy Ma Cật. Nhưng khi được hỏi, hết thảy
từ hàng đại đệ tử đến hàng Bồ Tát đều khiêm cung không dám nhận; chỉ có Bồ Tát
Văn Thù nhận lời Phật trao phó, vì vậy Ngài còn được gọi là “Đại Trí Văn
Thù Sư Lị Bồ Tát”
2). ĐẶC
ĐIỂM CỦA BỒ TÁT VĂN THÙ:
Hình hay tượng Ngài thường
cưỡi ngồi trên sư tử xanh, tượng trưng cho sức mạnh của trí tuệ, vì sư tử là
chúa sơn lâm, một tiếng rống muôn thú đều nép phục. Bồ-tát do trí tuệ viên mãn
hay thuyết pháp phá dẹp tất cả tà thuyết, nên khi chính pháp vang lên, mọi tà
thuyết đều tan biến.
Đầu Ngài đội mũ ngọc ngũ kế,
tay phải cầm kiếm báu, tượng trưng cho trí tuệ giống như bảo kiếm sắc bén, có
thể chặt đứt mọi phiền não vô minh, tay trái cầm hoa sen xanh biểu trưng cho ở
trong phiền não mà không ô nhiễm tham ái, trên bông hoa đặt Kinh Bát Nhã,
tượng trưng cho trí tuệ rộng lớn siêu vượt thù thắng.
Chiếc áo
giáp Ngài mang trên người gọi là giáp nhẫn nhục, che chắn các mũi tên thị phi
không xâm phạm vào thân thể, giữ cho Bồ-tát vẹn toàn tâm từ bi. Bọn giặc sân
hận oán thù không thể nào xúc não được hạnh nguyện nhẫn nhục của Bồ Tát trong
việc thực hiện tâm Bồ-đề.
3). SỰ TÍCH BỒ TÁT VĂN
THÙ:
Khi
Bồ Tát Văn Thù chưa tu, một kiếp Ngài là con thứ ba của vua Vô tránh Niệm, tên
là Hoàng tử Vương Chúng; trong dịp phụ Vương Ngài cúng dàng Đức Phật Bảo Tạng
và khuyên bảo các Vương tử làm theo, Ngài thích thú vâng làm. Đại thần Bảo
Hải cũng khuyên rằng: “Nay Hoàng tử đã và đương cúng dường Phật, đó là phước
đức rất lớn; Hoàng tử nên tạo nghiệp thanh tịnh, vì hết thảy chúng sanh mà cầu
được trí huệ, và đem công đức ấy hồi hướng về đạo vô thượng Chính đẳng, sẽ tốt
hơn cầu các phước khác”.
Hoàng
tử Vương Chúng nghe quan Đại thần khuyên, bèn đến chỗ Đức Phật Bảo Tạng vái và
nói:
“Thưa đức Thế Tôn, tôi cúng dàng Ngài, chúng Tăng, và tu tập những điều do
Ngài chỉ dạy đó. Nay tôi xin hồi hướng công đức ấy về đạo vô thượng, nguyện tu
hạnh Bồ Tát dù trải qua hằng sa số kiếp, để giáo hóa chúng sinh khỏi mê muội được
trí huệ.
Tôi
nguyện: chẳng vì lợi ích của mình mà cầu mong thành đạo qủa, và vì giáo hóa
chúng sinh trong mười phương; những người được tôi giáo hóa thành Phật trước
tôi trong khi vị này giáo hóa chúng sinh làm sao cho tôi thấy.
Tôi
nguyện: trong khi tu hành làm vô lượng Phật sự, và đời nào cũng tu theo Lục độ là
Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh Tấn, Thiền định, và Trí huệ.
Tôi
nguyện: chúng sinh được tôi dạy bảo đều được thanh tịnh, được như vậy tôi mới
thành Phật.
Tôi
nguyện: được cõi Phật trang nghiêm bằng tất cả các cõi Phật trang nghiêm hợp lại.
Cõi ấy toàn bằng vàng bạc lưu ly, xích châu mã não, có các cây lạ hoa qúy hương
thơm không đâu có, không có đất cát bụi bặm dơ bẩn.
Tôi
nguyện: trong cõi ấy, hết thảy chúng sinh đều sinh ra bằng hóa sinh, không có ái
dục, không có tên đàn bà, không cần ăn uống các đồ vật chất. Mọi người đẹp tự
nhiên, vui trong thiền định, được tam muội, có thần thông, đi dạo tự tại; chỉ
trong thời gian một bữa ăn đi khắp mười phương cúng dàng Chư Phật.
Tôi
nguyện: trong cõi nước tôi không có phân biệt, thảy đều cao thượng, tâm trí sáng
suốt, không có ba điều ác của thân, bốn điều dữ của miệng, và ba điều độc của
ý.
Tôi
nguyện: trong cõi của tôi không có các sự khổ não, không có Tám chướng ngại (Là:
1- Địa ngục, 2- Ngạ qủy, 3- Súc sinh, 4- Vô sắc Thiên trường thọ, 5- Câm điếc,
6- Tà kiến, 7- Sinh thời không có Phật và pháp lưu hành, 8- Ở nơi hoang vu).
Tôi
nguyện: trong cõi nước tôi không cần ánh sáng mặt trăng mặt trời, vì các vị Bồ Tát
có hào quang tự nhiên soi sáng chiếu khắp nơi nên không có đêm tối. Chỉ biết
khi hoa nở là ban ngày, hoa cúp là ban đêm, còn khí hậu không nóng cũng chẳng lạnh,
điều hòa trung bình không thay đổi.
Tôi
nguyện: các Bồ Tát Đẳng Giác bổ xứ làm Phật đến cõi khác, trước hết ở cõi tôi sau
mới giáng sinh tới cõi ấy tùy nguyện hóa độ.
Tôi
nguyện: khi tôi thành Phật rồi hóa độ hết thảy chúng sinh trong cõi nước của tôi
thành Phật hết rồi tôi mới nhập diệt.
Tôi
nguyện: khi làm Bồ Tát đạo trong các cõi Phật, thấy những trang nghiêm và những
hạnh nguyện của Chư Phật, tôi đều được thành tựu như thế tất cả.
Tôi
nguyện: trong khi tu đạo Bồ Tát, các người phát Bồ Đề tâm sẽ được bổ xứ thành
Phật về sau, đều sinh về cõi tôi để được giáo hóa hết thảy.
Tôi
nguyện: khi tôi thành Phật rồi, tôi biến hóa ra các hoá Phật và các hóa Bồ Tát nhiều
như cát ở bờ sông bãi biển; hằng dạo chơi các thế giới mười phương mà giáo hóa,
chúng sinh nghe rồi phát tâm Bồ Đề tu hành đến khi thành Phật cũng không thay đổi.
Tôi
nguyên: khi tôi thành Phật, các chúng sinh ở các cõi khác nếu thấy tôi nhớ mãi cho
tới khi thành Phật cũng không quên; nếu các Bồ Tát ở các cõi khác muốn thấy tôi
đều được thấy, và sự hoài nghi về đạo pháp được suốt thông hết thảy.
Tôi
nguyện: khi thành Phật rồi thọ mạng lâu dài vô cùng vô tận, các vị Bồ Tát trong
cõi tôi cũng sống lâu như thế; thưa Đức Thế Tôn, tôi nguyện được như vậy, tôi mới
thành Phật”.
Đức
Bảo Tạng Như Lai nghe Hoàng tử Vương Chúng thệ nguyên kiên cố như thế, liền thụ
ký rằng:
“Hay thay! Hay thay! Ông là đại trượng phu minh mẫn sáng suốt, phát nguyện rộng
lớn khó khăn, làm những việc không thể nghĩ bàn; phải là bậc trí huệ mới làm được
như vậy. Ông vì hết thảy chúng sanh mà phát nguyện rộng lớn nặng nề và cầu cõi
Phật trang nghiêm như thế. Nay Ta đặt tên hiệu cho ông là Văn Thù Sư Lị, trải
qua vô lượng kiếp về sau, ông sẽ thành Phật ở thế giới đẹp đẽ tên là Thanh Tịnh
Vô Cấu Bảo Chỉ ở về phương Nam; tất cả các sự ước nguyện của ông đều được thỏa
mãn.
Từ
nay về sau, trải qua vô lượng kiếp, ông tu Bồ Tát đạo, trồng căn lành, giáo hóa
chúng sanh, tùy bệnh mà cho thuốc, để chúng sanh trừ hết phiền não”.
Hoàng
tử Vương Chúng nói: “Thưa Đức Thế Tôn, nếu sự thệ nguyện của tôi được đúng
như Ngài thọ ký, xin cả mười phương chư Phật cùng thọ ký cho tôi”.
Nói rồi, đương lúc cúi đầu lễ Phât, mười phương chấn động, trên không có tiếng
âm nhạc vang lên, các thứ hoa rơi xuống như mưa bay và ở tất cả các cõi Phật
cũng thế.
Đức
Phật Bảo Tạng nói: “Mười phương chư Phật đồng loạt thụ ký cho ông rồi đó”;
Hoàng tử Vương Chúng hoan hỉ vui mừng, bèn ngồi xuống nghe thuyết pháp.
Từ
đó về sau, Hoàng tử mạng chung, tái sinh vô số kiếp, kiếp nào cũng nhớ bản nguyện
quyết tâm tu hành đạo Bồ Tát; Ngài đã thành đại Bồ Tát từ vô số kiếp và giáo
hóa vô số chúng sinh. Một số đệ tử của Ngài Văn Thù đã thành Phật rồi, mà Ngài
vẫn còn là Đại Bồ Tát giáo hóa chúng sinh trong mười phương thế giới vì lời thệ
nguyện kiên cường khó làm xong của Ngài vậy., .
__._,_.___
No comments:
Post a Comment