ĐẠO
PHẬT
Toàn Không
I). ĐẠO
PHẬT LÀ GÌ?
Đạo là con đường như con đường cõi Trời, con đường
cõi
Người, cõi Súc sinh, Địa ngục v.v…Chữ Đạo này có
nghĩa
vừa tốt (con đường cõi Trời), lại vừa xấu (con
đường
cõi Ngạ qủy, Súc sinh, Địa nguc). Do đó chữ
Đạo
có nghĩa này không phải là chân lý.
Đạo là bổn phận như bổn phận người cai trị dân,
bổn
phận người dân, bổn phận làm vợ làm chồng,
bổn
phận làm cha mẹ, làm con v.v…; chữ Đạo trong
nghĩa
này thường chịu ảnh hưởng của tập quán, mà
phong
tục địa phương này không giống địa phương
khác,
tập quán nước này không giống nước khác; vì
vậy
chữ Đạo với nghĩa này cũng không phải là chân lý.
Đạo là chân lý tuyệt đối: dù ở bất cứ chỗ nào, dù
thời
gian thay đổi, nó vẫn đúng, đó là chữ Đạo mà
chúng
ta muốn nói tới ở đây.
Phật là gì? Chữ Phạn là Buddha, là Giác, hiểu
biết
cùng tột; Giác có nghĩa là tự giác, tự làm cho
mình ngộ; Giác có nghĩa là giác tha, làm cho người
khác
cũng ngộ; Giác có nghĩa là giác hạnh viên mãn,
giác
ngộ hoàn toàn cho mình và cho người, chỉ có
Phật
mới đầy đủ giác hạnh viên mãn.
Đạo Phật còn gọi là Phật giáo, do Phật đặt ra để chỉ
lối
cho tất cả chúng sanh, những ai thực hành đúng đắn
đầy
đủ được nhiều lợi ích và đạt được chân lý tối thượng.
II).
HÌNH THÀNH KINH ĐIỂN, GIÁO LÝ:
1). SỰ
HÌNH THÀNH KINH ĐIỂN:
Do ba lần kết tập
chính:
1. Kết
tập lần thứ nhất:
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn khoảng ba tháng,
năm
543 trước Dương lịch, đệ tử Đức Phật, Tôn giả
Đại
Ca Diếp là vị Tổ thứ nhất hướng dẫn Tăng đoàn.
Tôn
giả thấy có một vài Tăng tụng sai lời dạy của Phật
thì
lo sợ Phật pháp sẽ bị diệt mất, nên nói với các vị
Thánh
Tăng rằng: “Đức Thế Tôn đã nhập diệt rồi,
tôi
khuyên các vị hãy ngồi lại với nhau kết tập những
lời
của Đức Thế Tôn đã thuyết pháp giảng dạy để
truyền
bá về sau, không nên để giáo pháp của Ngài
đoạn
diệt mất”
Tôn giả Đại Ca Diếp cùng các vị Thánh Tăng bèn
nhờ
vua A Xà Thế nước Ma Kiệt đứng ra triệu tập tất
cả
Tăng chúng từ các nước đến để tổ chức đại hội
kết
tập những lời giảng của Phật trong suốt 45 năm
hành
Đạo của Ngài.
Lúc ấy chỉ có 500 vị A La Hán Thánh Tăng được dự
vào
việc kết tập trong động Thất Diệp thuộc núi Kỳ
Xà
Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt.
Bắt đầu kết tập Luật Tạng do Tôn giả Ưu Ba Ly (Upãli)
là
Trưởng lão giữ Giới Luật của Phật đọc các Giới Luật
và
tất cả Thánh Tăng duyệt xét, thêm bớt cho đúng với
lời
dạy của Phật. Phần kết tập Kinh, Luận, do Tôn Giả
A
Nan là Thị giả của Phật đọc và tất cả Thánh Tăng
duyệt
xét thêm bớt cho đúng với lời dạy của Phật.
Khi
kết tập xong, giáo lý của Phật được xếp phân
loại
làm ba tạng gọi là Tam Tạng “Luật, Kinh, Luận”.
Có sách cho rằng khoảng 100 năm sau ngày Phật
nhập
diệt, có kết tập lần thứ hai, nhưng nhận thấy
đây
chỉ là sự kiện một nhóm 700 Tu sĩ ở một địa
phương
Bạt Kỳ (Vajji) thuộc nước Tỳ Xá Ly (Vasali)
đưa
ra mười điều sửa đổi Luật của Phật. Nên có sự
bất
đồng giữa Tôn Giả trưởng lão Da Xá tuổi Hạ
120
năm (mỗi năm an cư học giáo lý trong ba tháng
là
một tuổi hạ) và nhóm Bạt Kỳ.
Sau đó Tôn Giả Da Xá đến gặp Tôn giả trưởng lão
Ly
Bà Đa tại Ấp Ba Lợi, rồi hai vị cùng đến Bạt Kỳ lập “hội
đồng”
bàn luận gồm 8 người. Nhóm Bạt Kỳ 4 người, Tôn
giả
Nhất Thiết Khứ tuổi Hạ 136 năm đại diên; nhóm Ấp
Ba
Lợi 4 người Tôn giả Ly Bà Đa tuổi Hạ 120 năm đại diện.
Tôn Giả Ly Bà Đa hỏi, Tôn Giả Nhất Thiết Khứ trả lời về
mười
điều sửa đổi Luật đều phi pháp hết; do đó các vị tu
hành
ở Bạt Kỳ phải tôn trọng tất cả những Luật Phật đã đặt
ra,
không được sửa đổi; vì vậy việc này không nên coi là
kết
tập, mặc dù phải chấp hành luật đầy đủ, nhóm Bạt Kỳ
sau
đó tách ra thành Đại chúng Bộ.
2. Kết
tập lần thứ hai:
Sau 236 năm, vào năm 307 trước Dương lịch, 1000 vị
A
La Hán Thánh Tăng do Trưởng lão Mục Kiền Liên Đế
Tu
(Moggaputta Tissa) đứng đầu kết tập lại, tại Lâm viên
thành
Hoa Thị nước Ma Kiệt, bằng tiếng thổ ngữ chữ
Bắc
Phạn (Sanscrit), do Vua A Dục (Asoka) khởi
xướng
và bảo trợ; chữ Tam Tạng Kinh (Tipitaka)
có
nghĩa là ba cái bồ (giỏ), mỗi bồ đựng một Tạng
“Kinh,
Luật, Luận”.
3. Kết
tập lần thứ ba:
Sau 460 năm ngày Phật nhập
Niết Bàn, năm 83 trước
Dương
lịch. Vì có khuynh hướng nói trái nhau làm sai lạc
Giáo
pháp, nên Vua Ca Ni Sắc Ca (Kanishca) thỉnh Hiếp
Tôn
giả (Parsva) và chọn được 500 vị A La Hán Thánh
Tăng
là những người có đủ Tam Minh Lục Thông, tinh
thông
nội giáo Tam Tạng, ngoại điển quán triệt Ngũ Minh.
Lần tập kết này do Ngài Thế Hữu làm đệ nhất và Hiếp
Tôn
giả làm đệ nhị. Kết tập tại thành Ca Thấp Di La
(Kasmira)
nước Kiền Đà La (Tích Lan?), lần này bằng
chữ
Nam Phạn (Pali); sau khi kết tập xong ba Tạng
được chép vào lá đồng mỏng (có sách ghi vào lá bốỉ)
gồm
mười vạn bài tụng, có 9.600.000 chữ.
2). SỰ
HÌNH THÀNH GIÁO LÝ:
Như trên, chúng ta đã thấy sự thành hình giáo lý của
Đạo
Phật, trong cả ba lần kết tập, lần đầu là căn bản,
hai
lần sau chỉ là bổ túc chút ít, giải thích cho rõ ràng
hơn
và dùng ngôn ngữ khác nhau mà thôi. Tam tạng
dịch
từ Bắc Phạn gồm bốn bộ là: “Trường A Hàm,
Trung
A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm”; Tam tạng
dịch
từ Nam Phạn có năm bộ Kinh là “Trường bộ,
Trung
Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ, và Tiểu Bộ.
Trong
Tiểu Bộ có 15 quyển. Tam Tạng Kinh điển chia
ra
như sau:
1. Luật:
Là những giới luật Đức Phật đặt ra cho Phật tử xuất
gia
và tại gia giữ gìn tu tập, phần lớn là để áp dụng
cho
người xuất gia, nhưng cũng có rất nhiều điều về
luân
lý đạo đức cao thượng áp dụng cho mọi người.
Huân
tước Zetland của nước Anh ở thế kỷ 20 đã phát
biểu
trong Quốc hội Anh rằng: “Thật là ngạc nhiên,
những
nguyên tắc căn bản trong Quốc Hội chúng ta
ngày
nay đã có sẵn trong giáo lý Phật giáo từ 2500
năm
nay rồi”.
2.
Kinh:
Là những lời Phật Thích Ca dạy về dứt trừ những thói
hư
tật xấu để đạt được an vui. Những bài giảng đa phần
cho
người xuất gia hoặc cho cư sĩ, nhưng cũng có những
bài
giảng cho phụ nữ, trẻ em v.v…; lại có một số bài giảng
của
các đại đệ tử của Đức Phật đã được Ngài công nhận
cũng
được ghi trong Kinh.
3. Luận:
Luận phần nhiều là do Thánh Tăng làm ra để giải thích,
bàn
nghĩa lý sâu rộng trong Kinh Luật để Phật tử khỏi lầm
lẫn
chân giả, chính tà. Luân quan trọng vì gồm phần triết
lý
cao siêu mà Đức Phật đã nói, rồi các vị Tổ, Thánh Tăng
giải
thích thêm cho được rõ ràng. Luận tạng là công trình
sáng
tạo của những bộ óc kỳ tài siêu phàm, người Phật tử
muốn
học Phật phải biết đến phần Luận tạng, nó là “vi diệu
pháp”
vô cùng quan trọng để mở mang trí tuệ.
Theo quyển 1 bộ Trường A Hàm trong Đại Tạng Kinh,
trang
590, Đức Phật chia giáo lý ra làm 12 phần, gọi là mười
hai
bộ Kinh mang tính cách 12 thể loại khác nhau gồm:
1.
Quán Kinh, 2. Kỳ dạ Kinh, 3. Thọ ký Kinh, 4. Kệ Kinh,
5.
Pháp cú Kinh, 6. Tương ưng Kinh, 7. Bản duyên Kinh,
8.
Thiên bản Kinh, 9. Quảng Kinh, 10. Vị tằng hữu Kinh,
11.
Thí dụ Kinh, 12. Đại giáo Kinh.
III).
LÝ THUYẾT ĐẠO PHẬT RA SAO?
(Còn
tiếp)
__._,_.___
Posted by: hanh <
Posted by: Tien Do
ĐẠO
PHẬT
Toàn Không
(Tiếp theo)
IV).
TÔN CHỈ ĐƯỜNG LỐI NỀN TẢNG:
1).
TÔN CHỈ CỦA ĐẠO PHẬT:
Đạo Phật
có những tôn chỉ như sau:
1. Không nên làm:
Không nên làm các việc gốc của khổ báo là thân làm ác,
miệng
nói ác, và ý nghĩ ác.
2. Nên làm:
Nên làm các việc gốc của lạc báo là thân làm những
việc
lành, miệng nói những lời diệu hạnh, ý nghĩ những
điều
lợi ích cho toàn thể chúng sinh.
3. Đoạn diệt:
Đoạn diệt thân làm ác, đoạn diệt miệng nói ác, đoạn
diệt
ý nghĩ ác.
4. Pháp luật:
Mục đích đoạn diệt tham sân si mà nói pháp luật.
5. Không khổ hạnh:
Khổ hạnh không đúng cách là nghiệp hạ tiện nên phải
đoạn
trừ.
6. Không vào thai:
Đoạn trừ, đoạn diệt, nhổ tuyệt tận gốc rễ sự vào bào
thai
(Tu để khi chết rồi, không tái sinh vào bào thai, đừng
hiểu
lầm là phá thai).
7. An ổn:
Xuất gia, tu đạo, thành tựu khuôn phép tính nết tu
hành
đạt qủa vô thượng ngay trong đời này tự tri, tự giác,
tự
chứng, thành tựu an trú.
2). ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẠO PHẬT:
Đạo Phật không đòi độc quyền chân lý, không bài xích chỉ
trích
tôn giáo khác, không cố níu kéo giữ người ngu si không
hiểu
bỏ đạo, và chỉ có vòng tay rộng mở đối với người nào tự
nguyện
thiết tha tự thấy Đạo Phật là bổ ích muốn nhập đạo,
không
có một tí nào sự sắp xếp, ảnh hưởng, lôi cuốn bằng
những
hình thức mà nhiều tôn giáo thường làm.
Phật giáo không phải là tôn giáo độc đoán, cưỡng bách,
ngược
đãi, mà là tôn giáo ôn hòa nhất trong nhân loại; Đạo
Phật
không chủ trương đời sống trường tồn, cũng không
nói
chết là hết; không chủ trương sống khổ hạnh, cũng
không
ca ngợi đời sống sa hoa.
Phật giáo không lạc quan, không bi quan, nhưng thực tế;
không
chủ trương tuyệt đối tại thế, không chủ trương tuyệt
đối
siêu thế, Phật giáo là con đường duy nhất thoát khổ,
giải
thoát; cũng như nước biển chỉ có một vị mặn, giáo pháp
của
Phật giáo chỉ có một vi, đó là giải thoát.
Đạo Phật đứng trên trọng tâm là con người, tự con người
làm
hòn đảo cho chính mình nương tựa, không nương tựa
vào
bất cứ gì bên ngoài; dùng giáo pháp như chiếc bè qua
sông
để tự cứu mình đến bờ bên kia giải thoát khỏi khổ não
của
sinh tử luân hồi.
3). NỀN
TẢNG CỦA ĐẠO PHẬT:
Nền tảng
của Đạo Phật là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã:
1. Vô Thường:
Tất cả những gì là vật chất đều biến đổi, không có cái
gì
là trường tồn bất biến trong vũ trụ thế gian;
đây là chân
lý
không ai chối cãi được, dù thời nào đi nữa, dù ở đâu cũng
vậy,
tất cả đều không trường tồn bất biến; vậy nền tảng này
vững
hơn bàn thạch, vì bàn thạch cũng vô thường.
2. Khổ:
Bốn chân lý “Khổ, nguồn gốc của khổ, cách diệt khổ, và
con
đường dẫn đến đạo”. Một số người cho rằng Phật giáo
lấy
Khổ
làm căn bản nên Đạo Phật là bi quan yếm thế, sự thực,
Đạo
Phật không bi quan yếm thế, cũng không lạc quan hão, mà
chỉ
thực tế, vì khổ ở đời là hiển nhiên không ai chối cãi được.
Đức
Phật thấy cái bệnh trầm kha “khổ” của chúng sanh, rồi
tìm
nguyên nhân của khổ là do “Ái dục” mà ra, nên Ngài kê cho
toa
thuốc trị khổ, đó là “Tám Chính Đạo: Chính kiến, Chính tư
duy,
Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mạng, Chính tinh tấn,
Chính
niệm và Chính định”; nếu ai chịu
uống thuốc đắng này
sẽ
hết khổ được giải thoát nhập Niết Bàn, thì nói bi quan yếm
thế ở
chỗ nào?
3. Vô Ngã:
Không có cái gì là trường tồn bất biến, không có một cái gì
độc
lập mà hiện hữu được. Cái ngã, cái ta chỉ là tập hợp của
sáu
đại là “đất, nước, gió, lửa, không, và thức”. Tất cả sáu đại
đều
không có chủ tể, khi đủ nhân đủ duyên thì nó hội tụ tạm
gọi
là có, khi hết duyên thì nó tan rã, nên chẳng có cái gì gọi
là
“ta”, chẳng có cái gì gọi là “ngã”, do đó nó “vô ngã”.
Có người nói “vô ngã” là không có tự ngã, không có cái “ta”,
như
thế không thể vui vẻ hạnh phúc được, nhưng thực ra nếu
vô
ngã tức không chấp không thấy có ta nữa thì hết lo lắng buồn
phiền,
tức là sung sướng chứ còn gì? Hơn nữa, khi không còn
cái
ngã, không cố tìm cách bảo vệ, tranh giành, chiếm đoạt và
làm các
điều xấu xa đê hèn. Người không chấp cái ta chấm dứt
được
tham ái, sân si, ngã mạn, v.v…, sẽ đưa thân tâm đến an lạc
thanh
tịnh và đạt bậc Thánh ngay trong đời hiện tại, không là vui
vẻ
hạnh phúc thì là cái gì?
V).
HÀNH XỬ CỦA ĐẠO PHẬT:
(Còn
tiếp)
__._,_.___
ĐẠO
PHẬT
Toàn Không
(Tiếp theo)
V).
HÀNH XỬ CỦA ĐẠO PHẬT:
1). ĐẠO
PHẬT LÀ ĐẠO CHÂN THẬT THỰC TẾ:
Tất cả giáo lý của Phật giáo không có chỗ nào là vô lý
không
giải thích được, không có chỗ nào không thực
hành
được; vì Đức Phật đã hành những điều Ngài dạy,
và
dạy những gì Ngài đã thực hành. Nếu chỉ hiểu tín
ngưỡng
giáo lý thôi mà không hành, chẳng được ích
lợi
gì; ví như người đếm bò cho chủ, như người đếm
tiền
trong ngân hàng, chỉ được chút ít lương đủ sống
chứ
không thể giàu có được, người hiểu giáo lý của
Đức
Phật không hành trì không thể hưởng qủa vị Thánh.
Đức Phật không giảng dạy các lời dư thừa vô ích đối với
sự
thoát khổ của con người. Ngài từ chối trả lời những câu
hỏi
đi ra ngoài mục đích “giải thoát” mà một số người ngoại
đạo
hoặc đệ tử của Ngài đã đặt ra; Đạo Phật chú trọng về
tri
thức trí huệ chứ không để ý đến tình cảm luyến ái, để ý
đến
nhân cách nhân phẩm tín đồ hơn là số lượng tín đồ.
2). ĐẠO
PHẬT LÀ ĐẠO TỰ DO BÌNH ĐẲNG:
Phật giáo dùng tinh thần tự do cởi mở, không dùng oai
quyền
trong giáo lý. Thay vì dùng mệnh lệnh như “Ngươi
phải
làm thế này, ngươi không được làm thế kia”,
thì Đức
Phật
dạy “Ông nên làm thế này, thầy không nên làm thế kia”.
Đức Phật dùng giáo lý dạy cho tất cả người nào muốn học,
cũng
như tùy bệnh cho thuốc, Đức Phật quán sát thấy người
ấy
thích hợp với giáo pháp nào, Ngài liền nói giáo pháp ấy
cho
người ấy nghe, và người ấy sẽ thực hành đường ngắn
nhất
ấy để đạt mục đích.
Đức Phật là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại hô hào
loại
bỏ chế độ phân chia giai cấp, xây dựng một nền luân lý
công
bằng cao thượng giữa con người với con người; Ngài
lên
án hệ thống phân chia đẳng cấp xúc phạm đến phẩm giá
con
người tại Ấn Độ thời bấy giờ. Ngài cho rằng “Nếp sống,
hoàn
cảnh sống tạo ra người làm việc này hay việc kia, chứ
không
phải do nơi sinh trưởng”. Giai cấp
Bà la môn cho rằng
“Họ
là cao cả hơn hết các giai cấp khác, các giai cấp khác
phải
phục tùng sự sai bảo của họ”, đây là lý
luận vô căn cứ,
vì
người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn khi phạm luật
phạm
tội đều bi xét xử như nhau, khi chết cùng bị đọa sinh
vào
cõi xấu như nhau. Còn người hiền lương đạo đức, làm
lành
tránh dữ, dù người đó ở trong giai cấp cao hay giai cấp
thấp
vẫn không bị pháp luật xét xử, được nhiều người kính
trọng
nể vì, khi chết cùng được sinh đến cõi lành như nhau.
Trong Tăng đoàn của Đức Phật thời ấy có đủ các thành
phần
khác nhau trong bốn đẳng cấp của Ân Độ. Có đệ tử
từ
hàng vương giả đến, có đệ tử từ hàng Bà la môn nhập.
Lại
có đệ tử đã từng là người làm mướn, người hớt tóc,
người
hốt rác, gái giang hồ, con nông gia, con thợ lò rèn v.v…
Lại
có đệ tử là người hiền lương đạo đức, nhưng cũng có
đệ tử
là kẻ trộm cắp, kẻ giết người v.v…; nghĩa là trong Tăng
đoàn
của Đức Phật có đủ các thành phần của xã hộị tốt xấu
đủ
cả. Thế nhưng, đẹp đẽ thay! Qúy hóa thay! Những người
vừa
kể trên đều nghiêm trì giới luật, vâng theo lời dạy bảo
của
Đức Phật, tinh tấn hành trì thiền định, và tất cả đều đã
đắc qủa Thánh
Đối với phụ nữ, thời ấy người đàn bà bị ngược đãi coi rẻ,
Đức
Phật không coi rẻ phẩm giá của phụ nữ, mà chỉ ghi
nhận
sự yếu đuối của tính tật đố; nhưng Ngài nhìn nhận cả
nam
giới và nữ giới đều có thiện tánh như nhau, vì vậy Ngài
đặt
giáo giới cho mỗi giới đúng với vị trí của mỗi giới. Làm mẹ
được
hưởng danh dự xứng đáng trong Đạo Phật, có lần Đức
Phật
thấy Vua Kosala buồn phiền về việc được tin Hoàng hậu
sinh
con gái, Ngài bảo Vua: “Một bé gái có khi còn qúy hơn
một
bé trai rất nhiều, Đại vương không nên buồn rầu”.
Trong
hàng Ni thời ấy cũng có đủ thành phần, từ hoàng hậu,
công
chúa, tiểu thư trong hàng qúy tộc, cho đến những bà mẹ
đau
khổ, phụ nữ thế cô nghèo hèn, cho đến gái giang hồ; tất
cả
đều bình đẳng đồng tu trong giáo hội Ni đoàn, không có
sự
phân chia này nọ, và những người này đều đạt qủa Thánh.
3). ĐẠO
PHẬT LÀ ĐẠO TỪ BI
Đức Phật có tâm từ bi vô lượng vô biên bao trùm hết thảy
chúng
sanh từ Trời, Thần, Người, Ngạ qủy, Địa ngục, Súc
sinh
các loài từ to lớn đến nhỏ bé. Ngài dạy: “Không ai có
quyền
sát hại mạng sống của kẻ khác”,
Phật tử chân chính
phải
có lòng từ bi đối với muôn loài.
Nếu các tôn giáo giết hại lẫn nhau vì khác biệt
tôn giáo,
nếu
các tôn giáo không thể hòa hợp được với nhau thì
không
phải là tôn giáo, mà ví như những đảng cướp lớn
không
hơn không kém; nếu các tôn giáo đụng độ nhau gây
chết
chóc, khổ sở buồn phiền cho con người, kể như các vị
Giáo
chủ của các tôn giáo ấy đã thất bại trong sứ mạng mang
lại
hạnh phúc cho nhân loại; đối với người Phật tử chân chính,
không
có người xa kẻ lạ, người oán kẻ thù, chỉ có người anh
em
trong tình thương bao la trong tâm từ bi mà thôi.
VI).
SỰ LAN TRUYỀN CỦA ĐẠO PHẬT:
(Còn
tiếp)
ĐẠO PHẬT
Toàn Không
(Tiếp theo)
VI).
SỰ LAN TRUYỀN CỦA ĐẠO PHẬT:
Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, các vị Tổ
nối
truyền khoảng 1000 năm ở Ấn Độ. Vị Tổ thứ 28 là Bồ
Đề
Đạt Ma qua Trung Hoa truyền tiếp được năm đời Tổ nữa,
thì
Phật giáo lan truyền khắp Á Châu. Hiện nay phương tiên
truyền
thông, giao thông tiện lợi nên đã lan sang các nước
của
Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu và Phi Châu.
Ta phải để ý ngay đến những người Tây phương đầu tiên
theo Phật giáo phần lớn là những nhà trí thức như
luật gia,
bác
sĩ, tâm lý học, vật lý học, giáo sư đại học, khoa học
gia
v.v… Những người có địa vị, nổi tiếng của Tây phương
hết
lời ca ngợi, thực hành theo Phật giáo, vì sao thế? Vì họ
cho
rằng Phật giáo là tôn giáo hợp lý, thực tế nhất, là tôn giáo
tinh
vi tiến bộ nhất trong nhân loại; thế mà nhiều người vô minh,
si
mê tại Á Châu lại cho Đạo Phật là lỗi thời không hợp lý, và có
liên
hệ tới mê tín dị đoan v.v…!
Người Tây phương thấy giá trị của Phật giáo, vì giáo lý
Phật
giáo đã hé mở ánh sáng trong việc khoa học tìm hiểu
thế
giới, vũ trụ. Đạo Phật không bị ràng buộc bởi một nền
văn
hóa địa phương hay một chủng tộc nào, và hội nhập
vào
bất kỳ nền văn hóa nào; Phật giáo chú trọng đến nội
tâm
con người, chuyển hóa con người từ vô minh đạt đến
trí
huệ. Giáo thuyết của Phật giáo không những gần gũi
với
khoa học, mà còn gần gũi với triết học, tâm lý học; khoa
học
thấy rằng những khám phá của họ thường tương đồng
với
lý thuyết Đạo Phật, mặc dù khoa học đã khám phá một ít
trong
biết bao nhiêu điều Phật dạy, còn đối với việc chuyển hóa
nội
tâm của Phật giáo bao giờ khoa học mới đạt được?
VII).
KẾT QỦA TỐI HẬU CỦA ĐẠO PHẬT:
Phật giáo
mang lại những thành qủa sau đây:
1).
CHÂN THƯỜNG:
Tất cả chúng sinh sống trong cảnh vô thường, trôi lăn từ
cõi
này qua cõi khác các loài không ngưng nghỉ trong sinh
tử
luân hồi, không có ngày ra khỏi. Đạo Phật đưa ra giáo pháp
để
thoát khỏi cảnh ấy, nếu người nào tu theo giáo pháp của
Phật
giáo một cách đúng mức đều đạt được kết qủa giải thoát
ra
khỏi cảnh trôi lăn muôn đời ấy, nên gọi là Chân Thường.
2).
CHÂN LẠC:
Trong đời sống của tất cả chúng sanh các loài đều không
được
toại lòng mong muốn nên khổ đau phiền não ở loài nào
cũng
có. Nếu không có cách nào ra khỏi được, muôn đời chìm
đắm
trong khổ đau, Đạo Phật có món thuốc giải thoát, người
nào
uống thuốc đắng ấy sẽ được giã cái tật khổ muôn đời ấy;
nếu
đã được giải thoát rồi thì hết khổ tức được vui mãi mãi, nên
gọi
là Chân Lạc.
3).
CHÂN NGÃ:
Con người sống với cái ta, bảo vệ cái ta, nên làm đủ thứ
điên
đảo để bảo vệ cái ta, vì làm đủ thứ điên đảo nên khổ
không
vui; nếu không chấp cái ngã biến đổi vô thường này,
không
tìm mọi cách bất chính để bảo vệ nó, sẽ được giải
thoát
khỏi nó. Đã được giải thoát hoàn toàn rồi, người ấy
sẽ
sống với bản ngã chân thật của mình, lúc nào cũng an
nhiên
tự tại, nên gọi là Chân Ngã.
4).
CHÂN TỊNH:
Khi sống trong đời sống hàng ngày tranh đua, giành
giật,
bao nhiêu phiền toái hàng ngày dồn dập đổ lên đầu
lên
cổ, hết việc này đến chuyện khác, đầu óc tâm trí rối bù.
Bao
nhiêu phương pháp an thân, an tâm của Đạo Phật đều
có thể
áp dụng để đem lại sự an nhiên tự tại. Khi đã được an
nhiên
tự tại rồi, tâm thể được thanh tịnh vắng lặng mà diệu hữu,
thần
thông quảng đại, nên gọi là Chân Tịnh.
Đạo Phật xây dựng trên nên tảng chân thiện mỹ, từ bi hỉ xả,
bình
đẳng trí tuệ v.v…Trên căn bản như thế, Phật giáo sẽ
trường
tồn bất biến. Có những quốc gia, chế độ xây dựng
trên
bạo lực cường quyền, khi cường vinh đến cực điểm
rồi
phải tan rã, nhưng Phật pháp kiến tạo bằng các thứ nêu
trên
sẽ tồn tại mãi mãi tới khi nào người Phật tử còn biết
gìn
giữ những nguyên tắc cao cả của Phật giáo.,.
<ĐẠO
PHẬT.docx>
__._,_.___
__._,_.___
Posted
by: Tien Do <
No comments:
Post a Comment