MƯỜI
HAI NHÂN DUYÊN
Toàn Không
Quán
12 Nhân Duyên trừ si mê
I).
NHÂN DUYÊN LÀ GÌ?
Nhân là nguyên nhân trực tiếp sinh ra một vật khác, như hạt
lúa
là nhân sinh ra cây lúa.
Duyên là trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho một vật khác được
thành,
như đất nước ánh sáng không khí nhân công v.v… là trợ
duyên
cho hạt lúa thành cây lúa.
Vậy nhân duyên là chỉ các sự việc làm nhân và cũng là trợ lực
trợ
duyên cho nó được thành. Mọi sự vật trong vũ trụ không thể
đứng
riêng một mình mà có được, mà phải nương vào nhau, từ
vật nhỏ đến vật lớn, từ vật hữu hình đến vô hình, đều do
nhân
duyên
mà có (chư pháp tùng duyên sinh).
Nhân duyên còn chỉ các vật đều là nhân, các nhân đó duyên
với
nhau mà thành ra vật khác, như gạch ngói xi măng gỗ nhân
công
v.v… là nhân, các nhân này duyên với nhau mà thành cái
nhà
chẳng hạn. Các pháp (các vật) trùng điệp làm nhân duyên
cho
nhau mà thành vật khác, như xi măng là do người ta làm
bột
vôi trộn với bột đất sét v.v… mà thành, vôi là do người ta
nung
đá mà thành v.v…Vạn pháp (vạn vật) trong vũ trụ trùng
trùng
điệp điệp làm nhân làm duyên cho nhau mà thành ra
vật
nọ vật kia như thế (vạn pháp trùng trùng duyên khởi).
Con
người cũng là một vật trong vũ trụ, nên cũng không ra
ngoài
nguyên tắc ấy.
Tóm lại, pháp duyên khởi là đây có nên kia có, đây khởi nên
kia
khởi, như duyên Vô Minh có Hành, duyên Hành có Thức,
duyên
Thức có Danh Sắc, duyên Danh Sắc có Lục Nhập, duyên
Lục
Nhập có Xúc, duyên Xúc có Thụ, duyên Thụ có Ái, duyên
Ái
có Thủ, duyên Thủ có Hữu, duyên Hữu có Sinh, duyên
Sinh
có Già Chết.
II).
SỰ CHUYỂN BIẾN CỦA CON NGƯỜI:
Muốn biết con người chuyển biến như thế nào, Phật Giáo có
thuyết
“Mười Hai Nhân Duyên” Để hiểu vấn đề chuyển biến luân
hồi
sinh tử, chúng ta phân tích lần lượt:
01).
VÔ MINH:
Vô Minh là gì? Có nhiều nghĩa giải thích
cho nhân duyên “Vô
Minh”.
-
Vô Minh là không biết như thật, không tỏ ngộ chân tâm, không
thấy
Phật tánh của mình.
-
Vô Minh là không biết chân thật về mọi sự việc, thật cho là giả,
giả
cho là thật, phân biệt chấp mình, chấp người, chấp mọi sự
trên
đời.
-
Vô Minh là tối tăm, mê mờ, ngu si, không biết nghiệp báo lành
ác,
nên khởi tham lam, sân hận, do đó phiền não khổ đau sinh ra.
Vô
Minh là không biết Khổ, không biết nguyên nhân gây ra khổ,
không
biết diệt khổ, không biết Đạo.
02).
HÀNH:
Là làm, tạo tác. Vì Vô minh, con người suy nghĩ, nói năng,
hành
động lành dữ gọi là “Hành”. Khi con người suy nghĩ, nói
năng,
hành động thiện ác là đã tạo ra cái nghiệp tương ưng
tốt
xấu. Cái nghiệp tương ưng ấy huân tập vào Thức thứ tám
gọi
là A Lại Đa Thức của mỗi người thành “Nghiệp thức” phải
mang.
03). THỨC:
Là tám thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỵ thức, Thiệt thức, Thân
thức,
Ý thức, Mạt Na thức, và A Lại Đa thức. Năm thức đầu tiếp
nhận
sự kiện khi Căn tiếp xúc Trần. Ý thức phân biệt rõ ràng
muôn
sự muôn vật, biết suy nghĩ, biết mình biết người v.v…
Mạt Na
là thức mang các sự kiện thu thập bởi 6 thức trên vào
và truyền
tải ra từ A Lại Đa Thức.
A Lại Đa ghi nhận cất giữ tất cả các dữ kiện lành ác do
Mạt
Na thức mang vào, gọi là Thần thức, thức thiện ác hay
Nghiệp
thức thuộc tinh thần. Khi chết, Thần thức đi lãnh qủa
báo
khổ hay vui ở đời sau, nghĩa là sẽ đi huân tập nhập vào
nguồn
sống mới, tức là vào trong bụng mẹ để bắt đầu một
cuộc
sống khác gọi là Tâm thức.
04).
DANH SẮC:
Tại môi trường sống mới, Tâm thức (không có hình tướng)
cùng
tinh huyết nhục thể gọi là “Sắc” (vật chất) hòa hợp nên có
“Danh
Sắc”, Danh là tên gọi của Tâm thức gồm “Thụ, Tưởng,
Hành,
Thức”, Sắc là nhục thể mới gồm bốn đại “Đất, Nước,
Gió,
Lửa”, hai thứ tinh thần và thể chất hòa hợp với nhau là
Danh
Sắc.
05). LỤC NHẬP (Lục xứ):
Gọi là sáu chỗ vào. Từ Danh Sắc dần dần thành thân thể
có
sáu nội nhập xứ “Sáu căn” (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), là
chỗ
đến của “Sáu trần” (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nên
gọi
là chỗ “Sáu nhập”. Ở trong bụng mẹ phát triển đầy đủ tất cả
bộ
phận.
06).
XÚC:
Là tiếp xúc. Khi đủ ngày tháng ra khỏi bụng mẹ, lớn dần lên,
Sáu
căn tiếp xúc Sáu trần, như mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng, mũi
ngửi
mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc bên ngoài, ý tiếp xúc pháp
trần
( pháp trần là các sự kiện đã được năm căn trên tiếp nhận).
07). THỤ:
Là lãnh thọ. Có ba loại thụ là Thụ khổ, Thụ vui, Thụ không
khổ
không vui. Khi lớn dần lên tiếp xúc Sáu trần sinh ra phân
biệt,
đó là “cảm thọ” mắt thấy cảnh đẹp xấu, tai nghe tiếng thấy
hay
dở, mũi ngửi mùi thấy thơm thối tanh hôi, lưỡi nếm vị thấy
mặn
nhạt, ngọt bùi, đắng cay, thân tiếp xúc thấy nóng lạnh, êm
nhám
cứng mềm, ý nghĩ muôn vật khác biệt. Khi tiếp xúc rồi
sẽ
lãnh thọ những cảnh vui buồn, sướng khổ hay bình thường
không
vui buồn không sướng khổ.
08). ÁI:
(Còn tiếp)
MƯỜI
HAI NHÂN DUYÊN
Toàn Không
(Tiếp theo)
Quán
12 Nhân Duyên trừ si mê
08). ÁI:
Là yêu
thích. Có Dục ái, Sắc ái, và Vô sắc ái. Lúc cảm thọ, sinh ra ưa
thích hay không thích, đó là “Ái Ố”,
yêu ghét. Khi thọ vui sướng ưa thích,
sinh tham muốn làm sao cho được, khi
thọ buồn khổ ghét chê sinh giận
hờn, tìm cách gạt bỏ. Đây là động cơ
thúc đẩy “Ý, Khẩu, Thân” tạo Nghiệp.
09).
THỦ:
Là giữ lấy.
Vì tham ái nên tìm cầu nắm lấy giữ lấy cái ưa thích, chấp
đắm ghi nhớ mãi không quên gọi là
“Thủ”, và ghét bỏ nhớ mãi cái không
ưa cũng gọi là Thủ. Mục đích của Thủ
là cố tìm phương này kế nọ để
thỏa mãn cho bản ngã yêu ghét của mình,
do đó mà tạo ra Nghiệp. Có
bốn loại Thủ là Dục thủ, Kiến (thấy)
thủ, Giới thủ, và Ngã (chấp ta) thủ.
10).
HỮU:
Là Có.
Nghiệp sẽ chiêu cảm qủa báo sau này nên gọi là “Hữu”, tức là
“Có” cái nhân lành dữ cho kiếp sau,
gồm ba loại Hữu là Dục hữu, Sắc hữụ,
Vô sắc hữu.
11).
SINH:
Là sinh ra.
Đã có “Hữu” là cái hạt mầm, hết đời này thế nào cũng “Sinh”
ra ở kiếp sau, tùy theo nghiệp lành
ác mà được sinh đến một trong sáu
cõi: Trời, Thần, Người, Ngạ Qủy, Súc
Sinh, Địa Ngục để lãnh qủa báo lành
hay dữ. Như vậy nếu mỗi chúng sanh
có một thân, các loài trải qua sự
hòa hợp sinh ra được Ấm (Sắc, Thụ, Tưởng,
Hành, Thức), được Giới (gồm
Tứ Đại là Đất, Nước, Gió, Lửa, và
Không, Kiến), được Nhập Xứ (Mắt và
Trần, Tai và Thinh, Mũi và Hương,
Lưỡi và Vị, Thân và Xúc, Ý và Pháp),
được Mệnh (có sự sống).
12).
GIÀ CHẾT:
Mọi người
khi già tóc bạc, răng rụng, khí lực hao mòn, các căn rã rời,
tay chân yếu kém, lẩm cẩm, lú lẫn,
làm việc gì cũng khó khăn mệt mỏi, đó
là Già. Khi một hơi thở ra không thở
vào nữa thì mạng sống chấm dứt,
hơi ấm không còn, thân hư hoại, đó
là Chết. Khi đã “Sinh” phải “Già Chết”,
dù ở cõi nào cũng vậy.
Tóm lại, có
cái này thì có cái kia. Không có cái này thì không có cái kia,
nếu Vô Minh diệt thì Hành diệt, Hành
diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì
Danh Sắc diệt, Danh Sắc diệt thì Lục
Nhập diệt, Lục Nhập diệt thì Xúc
diệt, Xúc diệt thì Thụ diệt, Thụ
diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt
thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sinh
diệt, Sinh diệt thì Già Chết diệt.
Trong 12 Nhân Duyên chia ra như sau:
- Hai Nhân Duyên “Vô Minh và Hành”
thuộc về đời qúa khứ vì mê lầm
mà tạo Nghiệp nhân.
- Năm Nhân Duyên “Thức, Danh Sắc,
Lục Nhập, Xúc, Thọ” là năm Qủa
hiện tại nhận lãnh do nhân qúa khứ
gây ra.
- Ba Nhân Duyên “Ái, Thủ và Hữu” là
nhân đời hiện tại tạo Nghiệp cho Qủa
ở kiếp sau, đó là hai Nhân
Duyên “Sinh và Già Chết”.
Như thế, từ
nhân đời qúa khứ (Vô Minh, Hành) sang qủa đời hiện tạ
i (Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc,
Thụ), trong khi gặt qủa đời hiện tại lại
tạo nhân (Ái, Thủ, Hữu) cho qủa đời
tương lai (Sinh, Già Chết). Ba đời cứ
thế nối tiếp mãi không ngừng, như
một bánh xe quay tròn mãi mãi.
Nhưng việc luân hồi không phải chỉ ở
cõi Người mà tùy theo Nghiệp thức
dẫn dắt, nếu làm lành được hưởng
sinh trở lại cõi Người, cõi Trời hay
cõi Thần, nếu làm ác, bị Nghiệp kéo xuống
Địa Ngục, Ngạ Qủy hay Súc Sinh.
Vô Minh
thuộc về mê “Hoặc” (hoặc là nghi ngờ, lừa dối, mê loạn).
Hành thuộc về tạo “Nghiệp” (thiện,
ác). Thức, Danh Sắc, Lục Nhập,
Xúc, Thụ thuộc về qủa “Khổ”. Ái
thuộc về mê “Hoặc”. Thủ, Hữu thuộc
về tạo “Nghiệp”. Sinh, Già Chết
thuộc về qủa “Khổ”.
Nếu người
nào đối với Pháp (Pháp là tướng, hiện tượng vật chất sai
khác, có hình dạng màu sắc khác
biệt, mỗi dạng vật chất gọi là một Pháp;
Pháp còn là nhận thức khái niệm của
ý như vui buồn, thiện ác, trí tuệ,
vô minh v.v....): Không biết như
thật về Pháp, không biết nguyên nhân như
thật về sự sinh khởi ra Pháp (Pháp tập),
không biết như thật về cách diệt
Pháp (Pháp diệt), không biết con
đường Đạo dẫn đến diệt Pháp. Người ấy
chẳng thể tự thấy Pháp, chẳng tự
biết như thật đối với sự Già Chết, cách
diệt Già Chết, con đường Đạo để ra
khỏi Già Chết.
Cũng như
vậy người ấy không biết như thật đối với “Sinh, Hữu, Thủ,
Ái, Thụ, Xúc, Sáu Nhập, Danh Sắc,
Thức, Hành, Vô Minh”.
III).
LÀM SAO CHẤM DỨT SINH TỬ?
(Còn tiếp)
MƯỜI HAI
NHÂN DUYÊN
Toàn Không
(Tiếp theo)
Quán
12 Nhân Duyên trừ si mê
III).
LÀM SAO CHẤM DỨT SINH TỬ?
Muốn chấm dứt Sinh Tử Luân Hồi, phải diệt trừ “Vô Minh” bằng cách quán sát
và
thực hành, chúng ta phân tích các phương pháp lần lượt từ dễ đến khó dưới đây:
1). DIỆT VÔ MINH
CÀNH NGỌN
(chi mạt vô minh):
Có 2 cách về “Sự” và về
“Lý”
1. VỀ
SỰ (Sự
việc làm):
Hành giả diệt tham Ái, không còn Ái sẽ không có Thủ, không còn Thủ sẽ không
có
Hữu, không còn Hữu sẽ không có Sinh Già Chết nữa. Kinh ghi: “Hữu ái sinh ưu,
hữu
ái sinh úy, vô sở ái nhạo hà ưu hà ưng?”
Tức là có tham yêu nên mới lo mới sợ,
không
tham yêu lo sợ nỗi gì? Vì khi đối cảnh sinh tâm tham muốn (Ái), nên chọn lựa
giữ
lấy (Thủ), nên mới tạo Nghiệp (Hữu), do đó phải chịu Sinh Tử Luân Hồi. Nếu
không
tham
muốn (không Ái) sẽ chẳng lựa chọn chấp giữ (không Thủ), vì không chấp thủ
nên
không tìm cầu tạo Nghiệp (không Hữu), không còn tạo Nghiệp nên không còn
Sinh
Tử Luân Hồi.
Trong Tạp A Hàm, quyển 3, Kinh số 984 trang 482 ghi: Đức Phật ngự tại
vườn
Cấp
Cô Độc, khi ấy Ngài dạy về “Ái” và nói như sau: “Hôm nay ta nói Ái là lưới,
là
chất keo, là dòng suối, là rễ sen; những thứ này hay chướng ngại,
che lấp, dính
chặt,
giữ chặt, che phủ, đóng kín, bế tắc, tối tăm, như cỏ rối, như chỉ rối, từ đời
này
sang
đời khác, lưu chuyển qua lại, không lúc nào ngừng.
Tại sao Ái là lưới, là chất keo . . . không lúc nào ngưng chuyển qua lại? Vì có
Ái
nên
có ngã có ta, tham muốn ta, ta như vậy, có ta, không ta, giống ta, hợp với ta,
yêu
ta, thuận ta, ham muốn ta, chẳng hợp với ta, khác ta, chống lại ta, ghét ta,
hoặc
ta
như vậy, hoặc khác, hoặc đúng, hoặc sai. Như thế 18 Ái hành bên trong phát
khởi,
cho
đến 18 Ái hành từ bên ngoài khởi lên, cộng lại là 36 Ái hành. Lại nói qúa khứ
khởi,
tương
lai khởi, hiện tại khởi, như thế công lại thành 108 Ái hành. Thế nên ái gọi là lưới,
là
chất keo, . . . cần phải dứt, phải lià, phải đoạn, để được tâm giải thoát, tuệ
giải thoát”.
Tóm lại, hết
mê Hoặc (hết Ái) Nghiệp chẳng còn (hết Thủ, Hữu), Nghiệp chẳng còn
Khổ cũng hết (hết Sinh, Già Chết).
Khổ cũng hết (hết Sinh, Già Chết).
Tu là từ Xúc Thọ phải để ý giữ gìn, ít tiếp xúc, khi Thọ không phân biệt chấp
trước
này
nọ, không để sự yêu ghét của Ngũ Dục (Sắc đẹp, Thanh hay, Hương thơm, Vị ngon,
Xúc
cảm khoái), Bát Phong (Tám thứ gió là được mất, hơn thua, vinh nhục, khen chê,
vui
buồn) làm chủ tâm mình. Nghĩa là không còn vướng mắc tham, sân (giận thù), tật
đố
(ganh tị), không còn chấp Ngã (cái ta) Nhân (người này khác người kia) Chúng
sinh
(đối xử với các loài khác nhau) Thọ giả (cho đời sống có thật, lâu dài), không
còn bị
năm Uẩn là Sắc (do bốn đại đất nước gió lửa làm thành), Thụ hay Thọ (là
cảm giác),
Tưởng (là nghĩ, nhớ), Hành (là ý muốn), và Thức (Thức của sáu giác
quan là
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tị thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức) chi phối
tâm mình,
tức là không để Ái hoành hành nữa. Ái đã không có thì Thủ cũng không,
Thủ đã
không thì không có Hữu, đã không Hữu làm gì còn mầm để Sinh, tức là ra
khỏi sinh
tử luân hồi vậy.
Đức Phật còn chỉ cách để biết như thật của mỗi chi phần trong Mười Hai Nhân
Duyên.
Đó là biết như thật rằng có Sinh nên có Già Chết, không có Sinh làm gì có
Già
Chết. Đạo để đưa đến hết Già Chết là “Tám Chính Đạo”. Già Chết diệt thì Vô
Minh
diệt, Vô Minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh
Sắc
diệt, Danh Sắc diệt thì Lục Nhập diệt, Lục nhập diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì
Thụ
diệt, Thụ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu
diệt thì
Sinh
diệt, Sinh diệt thì Già Chết diệt. Như thế ra khỏi sáu cõi nhập Niết Bàn.
2. VỀ
LÝ (nghĩa
Lý):
Dùng lý lẽ, thấy các sự vật chỉ do nhân duyên hòa hợp mà có chứ không phải thật
mà
là giả (không Hữu). Vì các vật không thật nên không chấp giữ chặt lấy
(không
Thủ).
Đã không chấp Thủ, không còn ham muốn (không Ái). Nếu ba cái “Ái, Thủ, Hữu“
đều
không cả, thì cái qủa “Sinh, Già Chết” cũng chẳng có nữa. Như vậy chẳng phải ra
ngoài
vòng sinh tử luân hồi sao? Cách quán và thực hành về Lý này cao hơn và
khó
thực
hành hơn cách quán và thực hành về Sự ở trên.
2).
DIỆT CĂN BẢN VÔ MINH (căn bản vô minh):
Là diệt tận gốc rễ của
sinh tử, có hai cách:
1.
Bậc Thượng Căn dùng trí Bát Nhã phá
trừ Vô Minh để trở về với bản thể Chân
Tâm,
như Bát Nhã Tâm Kinh Phật nói: “Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát sau khi đi sâu
vào
trí huệ Bát Nhã soi thấy năm Uẩn đều không liền qua tất cả khổ nạn”. Bậc
Bồ
Tát thấy rõ do Vô Minh mê mờ vọng động mà có thế giới vũ trụ, chúng sinh ngã
pháp,
nên các ngài dùng trí Bát Nhã phá trừ “Sinh Tướng Vô Minh” để trở về với
bản
thể Chân Tâm. Khi đã ngộ được Chân Tâm rồi thì Sinh Tử Luân Hồi phải diệt.
Cách
này chỉ Bậc Thượng Căn mới làm được.
2.
Cũng có thể tu Thiền Định lần hồi tiến
tới địa vị Đẳng giác Bồ Tát, dùng Kim
cương
trí mới phá trừ được “Sinh Tướng Vô Minh”, chứng qủa Diệu giác (qủa Phật).
Cách
này cũng khó thực hiện vô cùng, và phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp lâu dài.
IV).
12 NHÂN DUYÊN LÀ DIỆU PHÁP:
(Còn tiếp)
MƯỜI HAI
NHÂN DUYÊN
Toàn Không
(Tiếp theo)
Quán
12 Nhân Duyên trừ si mê
IV).
12 NHÂN DUYÊN LÀ DIỆU PHÁP:
Đức Phật
dạy về diệu pháp thù thắng như sau:
Người thế gian thường điên đảo nương vào hai bên hoặc “Có” hoặc “Không”.
Họ
bám lấy các cảnh giới, tâm liền dính mắc với cảnh giới. Nếu không dính mắc
tức
không thọ, không ái, không thủ, không chấp nơi ngã, không chấp nơi ta, lúc
cái
khổ này sinh là khổ sinh, lúc cái khổ này diệt là khổ diệt, chứ đâu có dính líu
gì.
Đối với điều này không nghi không mê lầm, không do người khác mà tự mình
biết
được. Đây gọi là Chính kiến. Vì sao? Vì người nào hay quán sát như thật về
thế
gian về nguyên nhân của thế gian (thế gian tập), thì không sinh kiến chấp cho
thế
gian là “Không”. Ai hay quán sát thế gian không trường tồn (thế gian diệt), thì
không
sinh kiến chấp cho thế gian là “Có”.
Nếu xa lià hai bên (nhị biên) “Có, Không”, tức là nói Trung đạo, nghiã là: Cái này
Có
nên cái kia Có, cái này Sinh nên cái kia Sinh. Nghiã là do duyên Vô Minh nên
có
Hành,
do duyên Hành nên có Thức, do duyên Thức nên có Danh Sắc, do duyên
Danh
Sắc nên có Sáu Xứ (lục nhập), do duyên Sáu Xứ nên có Xúc, do duyên Xúc
nên
có Thụ, do duyên Thụ nên có Ái, do duyên Ái nên có Thủ, do duyên Thủ nên có
Hữu,
do duyên Hữu nên có Sinh, do duyên Sinh nên có Già Chết. Nói là cái này
Không
nên cái kia Không, cái này Diệt nên cái kia Diệt. Nghiã là Vô Minh diệt nên
Hành
diệt, Hành diệt nên Thức diệt, Thức diệt cho đến Sinh, Già Chết diệt.
Nếu hỏi: “Ai Già Chết? Già Chết thuộc về ai?” Nếu có người trả lời: “Ta Già
Chết,
Già
Chết thuộc về ta, Già Chết là ta”,
và rằng: “Mệnh tức là Thân, hoặc nói Mệnh
khác
Thân khác”. Đó chỉ là một nghiã mà nói có các
thứ, thì phạm hạnh (khuôn mẫu
tu
hành) kia không có. Đối với hai bên, tâm chẳng theo, chính hướng Trung đạo,
bậc
Hiền Thánh Chính kiến như thật chẳng điên đảo.
Nếu lại hỏi: “Cái gì là Hành? Hành thuộc về ai?” Nếu có người trả lời: “Hành
là ta,
Hành
là cái của ta, ta là người Hành”.
Như thế, Mệnh tức là Thân, hoặc nói Mệnh
khác
Thân khác. Kẻ thấy Mệnh tức là Thân, thì phạm hạnh (khuôn mẫu) không có.
Kẻ
thấy Mênh khác Thân khác, phạm hạnh cũng không có luôn. Lià hai bên,
chính
hướng
Trung đạo, bậc Hiền Thánh thấy như thật Chính kiến chẳng điên đảo, đó
gọi
là Vô Minh duyên Hành. Nếu lià Ái dục, lià Vô Minh rồi thì “Minh” sinh, còn ai
Già
Chết? Già Chết thuộc về ai? Già Chết đã dứt, làm gì còn đời vị lai nữa? Đó
gọi
là “Đại Không Pháp”.
V). KẾT
LUẬN VỀ 12 NHÂN DUYÊN:
Nếu người nào quán sát Mười Hai Nhân Duyên và thực hành tới đích sẽ
thành
Đức Duyên Giác. Thời không có Phật hay không có ảnh hưởng giáo hóa
của
Phật, người tự tu hành Mười Hai Nhân Duyên được ngộ đạo, những vị ấy
thường
được gọi là bậc “Độc Giác”, nghĩa là tự nghiên cứu tu mà Giác Ngộ.
Qủa vị Duyên Giác và qủa vị A La Hán như nhau, nhưng về trí huệ và thần
thông,
qủa Duyên Giác cao hơn qủa A La Hán, nhưng qủa vị Duyên Giác kém
qủa vị Phật.
Theo Bộ Trường A Hàm, quyển 1 trang 471 viết: Có một lần, tại xứ Kiếp Ma
Sa
thuộc nước Câu Lưu Sa, Đức Phật giảng thuyết Mười Hai Nhân Duyên cho
đại
chúng nghe, sau khi nghe xong, Tôn giả A Nan, Thị giả của Đức Phật từ chỗ
ngồi
đứng lên vái Phật rồi thưa:
-
Đức Thế Tôn vì đại chúng nói pháp Nhân Duyên sâu xa, nhưng con thấy không
có
nghĩa sâu xa gì cả.
Đức Phật
bảo:
-Thôi,
thôi, A Nan! Chớ khởi nghĩ như vậy, vì sao? Pháp Mười Hai Nhân Duyên rất
sâu
xa, khó thấy khó biết, cho đến hàng chư Thiên, Thiên Ma, Phạm Thiên, Sa Môn,
Bà
La Môn. Những người chưa thấy pháp Nhân Duyên mà muốn suy lường phân
biệt
nghĩa lý của nó đều bị hoang mang, không thể thấy nổi. Cũng không phải chỗ
hiểu
của người thường được.
Này A Nan, duyên Thụ mà có Ái nghĩa là thế nào? Là giả dụ chúng sinh không có
Thọ
vui, Thọ khổ, Thọ không vui không khổ thì có Ái không?
- Thưa không.
-
A Nan nên biết, nhân Ái có mong cầu, nhân mong cầu có lợi dục, nhân lợi dục có
đắm
trước, nhân đắm trước có tật đố, nhân tật đố mà có Thủ. Ta nói nhân Ái có Thủ.
Nghĩa
ta nói sâu xa là ở đó. . .
Chúng sInh không hiểu pháp Mười Hai Nhân Duyên, bị lưu chuyển trong sinh tử
không
có ngày ra khỏi, thảy đều mê lầm. Không biết từ đời này qua đời sau, từ đời
sau
qua đời sau nữa, vĩnh viễn ở trong phiền não, muốn ra rất khó. Ta ban đầu
mới
thành đạo, suy nghĩ về “Mười Hai Nhân Duyên”, hàng phục Ma quân và quyến
thuộc
của Ma. Do trừ “Vô Minh” mà được “Tuệ Minh”, vĩnh viễn diệt trừ các tối
tăm,
không còn trần cấu, lậu tận.
A Nan! Khi ta ba phen chuyển, nói pháp Mười Hai Nhân Duyên này, nhiều người
liền
được thành đạo Vô Thượng. Do phương tiện này nên biết pháp “Mười Hai Nhân
Duyên
rất sâu xa, không phải người thường có thể tuyên nói được”. Bởi thế nên nhớ
phụng
trì pháp Mười Hai Nhân Duyên này.,.
__._,_.___
__._,_.___
__._,_.___
__._,_.___
No comments:
Post a Comment