Popular Posts

Wednesday, September 23, 2020

TÔN GIẢ LẠI TRA HÒA LA

 

TÔN GIẢ

LẠI TRA HÒA LA

Toàn Không

        Khi Đức Phật du hoá tại phiá bắc thôn Thâu lô Tra, thuộc 

nước Câu Lâu Sấu, bấy giờ các người trong thôn nghe tin: 

“Sa môn Cù Đàm, con Vua dòng họ Thích, lià bỏ tông tộc, 

xuất gia học đạo, đang trú ngụ trong vườn Nhiếp hoà; vị 

Sa môn ấy có tiếng tăm lớn đồn khắp mọi nơi là bậc đắc đạo, 

là thầy của Trời và Người, thuyết pháp vi diệu chưa từng có”

nên họ rủ nhau cùng đến gặp Ngài để lễ bái cúng dường. 

1). LẠI TRA HÒA LA HỌC ĐẠO:

      Khi họ đến chào hỏi lễ bái, được Phật thuyết pháp cho 

nghe những điều lợi ích, sau đó mọi người đứng dậy chào lễ, 

rồi ra về; duy chỉ có một thanh niên vẫn còn ngồi tại đó không 

đứng dậy ra về cùng mọi người, và lúc mọi người đi khỏi rồi, 

thanh niên ấy đứng lên chắp tay hướng về Đức Phật và nói:

- Thưa Thế Tôn, con tên là Lại Tra Hoà La. Như con biết, đối 

với giáo pháp mà Ngài dạy, nếu con sống tại gia, bị tù hãm 

trong sự phiền toả, không thể trọn đời tu hành được. Vì vậy, 

thưa Thế Tôn, con xin được phép theo Ngài xuất gia học đạo. 

       Đức Phật hỏi:

- Này Nam tử con của Cư sĩ, cha mẹ có cho phép lià bỏ 

gia đình để theo chính pháp học đạo không?

- Thưa chưa.

- Nếu cha mẹ chưa cho phép, thì Ta không thể nhận được.

- Con sẽ về xin phép cha mẹ cho phép con xuất gia học đạo.

- Khi nào cha mẹ cho phép, Hoà La hãy trở lại đây, Ta sẽ thu nhận. 

       Lại Tra Hòa La bèn vái lễ Đức Phật rồi ra về, tới nhà Hoà 

La liền thưa với cha mẹ về ý nguyện của mình muốn được phép 

xuất gia học đạo với Đức Phật, nhưng cha mẹ không đồng ý và nói:

- Cha mẹ chỉ có một mình con, rất mực thương yêu con, lòng 

đầy quyến luyến không kể xiết. Giả sử con có chết đi, cha mẹ 

còn không muốn rời bỏ, huống gì còn sống nỡ xa lià, không 

nhìn thấy mặt được sao? 

      Lại Tra Hoà La lại xin lần thứ hai, rồi lần thứ ba, nhưng 

vẫn bị cha mẹ từ chối và trả lời như thế; khi ấy Hòa La liền 

vật mình xuống đất, vừa thổn thức vừa nói:

- Từ giờ phút này, con sẽ không ăn không uống, không đứng 

dậy, cho đến khi nào được cha mẹ cho phép con. 

        Rồi một ngày Hòa La không ăn uống, hai ngày không ăn 

uống, cho đến ba ngày cũng vậy. Thấy thế, mẹ Hòa La đến bảo:

- Người con thường khoẻ mạnh đẹp đẽ, nay con tiều tụy quá, 

con không biết khổ sở sao? Con hãy ăn uống chút ít, sống đời 

sung sướng mà bố thí để tu phúc nghiệp, vì sao? Vì tu theo 

cảnh giới của Phật thật là khó, rất là khó khăn. 

        Hòa La vẫn im lặng không đáp, rồi cha Hòa La đến các 

bà con quyến thuộc và các người có chức tước địa vị trong 

thôn, nhờ họ đến khuyên can giùm để Hòa La bỏ ý định xuất 

gia học đạo, nhưng khi những người ấy đến khuyên can, 

Hòa La chỉ nằm yên không trả lời. 

       Tiếp theo mẹ Hòa La đến các bạn đồng lứa tuổi của 

Hòa La để nhờ họ đến khuyên bảo Hòa La giùm, nhưng 

cũng vô hiệu qủa. 

       Sau đó có vài bạn của Hòa La đến nói với cha mẹ Hòa La rằng:

- Hai bác nên cho anh Hòa La được phép xuất gia tu học, nếu anh 

ấy thích sống như vậy thì sau này còn có cơ hội gặp nhau; nếu 

chán sống cảnh ấy, thì anh ấy tự nhiên sẽ trở về với hai Bác. 

Nay nếu hai bác không chấp thuận cho anh ấy xuất gia, anh ấy 

sẽ chết mất không nghi ngờ gì nữa, và không ích lợi chi cả! 

       Cha mẹ Hòa La nghe xong thấy có lý, liền đồng ý và nói:

- Chúng tôi đồng ý để Hòa La xuất gia mà sau này vẫn trở về 

cho chúng tôi gặp mặt. 

       Các bạn ấy đến gặp Hòa La để báo tin và nói:

- Này bạn, chúng tôi vì bạn nên đã thưa chuyện với hai bác, 

bây giờ hai bác đã chấp thuận cho bạn được xuất gia tu đạo, 

nhưng bạn phải hứa khi học đạo rồi phải về thăm cha mẹ.

       Lại Tra Hòa La nghe các bạn nói như vậy, lòng rất đỗi 

vui mừng hân hoan, bèn ngồi dậy, cám ơn bạn bè đã khéo 

giúp đỡ; rồi Hòa La cố gượng đi đến chỗ cha mẹ để ngỏ lời 

cảm tạ sự chấp thuận, và hứa khi học đạo rồi sẽ về thăm. 

Hòa La ăn uống trở lại, dần dần bồi dưỡng thân thể, chỉ vài 

ngày sau, sức khoẻ bình phục mau chóng. Hòa La từ biệt cha 

mẹ, và người thân, rời khỏi gia đình đến chỗ Phật trú, cúi đầu 

vái lễ và nói:

- Thưa Đức Thế Tôn, con là Lại Tra Hòa La đã được cha mẹ 

con cho phép xuất gia, ngưỡng mong Đức Thế Tôn cho phép 

con được theo Ngài tu đạo.

       Khi ấy Đức Phật độ cho Lại Tra Hòa La làm Tỳ Kheo (Tăng), 

và được truyền giới Cụ túc; từ lúc đó Lại Tra Hòa La theo Đức 

Phật du hành trong nhân gian. Khi du hành đến nước Xá Vệ, Lại 

Tra Hòa La sống cuộc sống cô độc ở nơi xa vắng, tâm không 

phóng túng tu hành tinh tấn; Tôn giả Lại Tra Hòa La đạt đến vô 

thượng phạm hạnh (diệt tham dục đạt thanh tịnh), tự tri, tự 

giác, tự chứng ngộ, thành tựu an trụ. Tôn giả đã biết pháp 

như pháp, và chứng đắc quả A La Hán (qủa Thánh), lúc đó 

mười năm đã trôi qua; Tôn giả nghĩ: “Ngày xưa ta đã hứa 

học đạo rồi sẽ trở về thăm cha mẹ, nay đã đúng lúc ta nên 

trở về để trọn lời hứa đó”, nghĩ rồi Tôn giả liền đến chỗ Phật, 

cúi đầu đảnh lễ và nói:

- Thưa Thế Tôn, ngày trước con đã hứa xuất gia học đạo rồi 

sẽ trở về thăm cha mẹ, hôm nay con xin phép Thế Tôn được 

từ giã để về thăm cha mẹ con cho trọn lời hứa trước kia.

       Bấy giờ Đức Phật nghĩ: “Lại Tra Hòa La chắc chắn không 

xả giới bỏ đạo, dù gặp khó khăn đến đâu cũng không lay chuyển 

nổi Tỳ Kheo này”, Đức Phật biết như vậy liền bảo:

- Thầy ra đi, nếu gặp người chưa được độ hãy độ, người chưa 

giải thoát hãy khiến cho giải thoát, người chưa tịch tịnh hãy khiến 

cho tịch tịnh; Lại Tra Hòa La, nay tùy ý thầy. 

 

2). TÔN GIẢ LẠI TRA HÒA LA

     VỀ THĂM CHA MẸ:

(Còn tiếp)

   

2). TÔN GIẢ LẠI TRA HÒA LA

     VỀ THĂM CHA MẸ: 

      Tôn giả Lại Tra Hòa La sau khi nghe Đức Phật chấp thuận 

và dặn bảo, cúi đầu đảnh lễ, rồi từ biệt; Tôn giả lần lượt du hành 

về đến thôn Thâu lô Tra, nghỉ tại vườn Thi nhiếp Hòa là chỗ ngày 

trước Đức Phật đã ngụ trong khi du hoá. Khi đêm đã qua, rồi mặt 

trời lên cao; Tôn giả ôm bình bát vào thôn Thâu lô Tra khất thực 

(xin cúng dàng thức ăn) và nghĩ: “Thế Tôn khen ngợi việc có thứ 

lớp khất thực, ta nay nên theo như thế”; Tôn giả đi khất thực từ 

đầu thôn lần lượt về đến nhà cha mẹ. 

     Lúc đó cha của Tôn giả đứng trong cửa đang chải tóc, cạo 

râu, ông thoáng thấy có Sa môn khất thực, liền nói:

- Sa môn trọc đầu này bị màu đen tối trói chặt, không con cái 

tuyệt chủng, phá hoại gia đình ta. Ta có một đứa con, hết sức 

thương yêu chiều chuộng, lòng đầy quyến luyến tiếc thương 

không kể xiết. Thế mà nó dẫn con ta đi mất không thấy tăm 

hơi cả mười năm nay, không cho Sa môn trọc đầu này ăn. 

       Tôn giả về nhà cha đã không được bố thí, còn bị xua 

rủa như thế bèn bỏ đi; lúc đó người giúp việc của cha mẹ 

Tôn giả xách một rổ (giỏ) đồ ăn hư định đổ bỏ vào đống 

rác, Tôn giả trông thấy thế, liền nói rằng:

- Nếu như món ăn đó bỏ đi thì nên bỏ vào bình bát của tôi, 

tôi sẽ ăn.

       Đứa giúp việc ấy nói:

- Không ngon đâu, không nên ăn thức ăn hư này.

       Tôn giả nói:

- Không sao, không sao, tôi sẽ ăn, tôi sẽ ăn. 

       Đứa giúp việc đổ thức ăn hư ấy vào bình bát của Tôn 

giả, và nó phát giác ra hai dấu hiệu mà nó nhận ra Lại Tra 

Hòa La, đó là tiếng nói và tay chân. Nhận ra được hai dấu 

hiệu này, nó trở vào nhà và nói với cha Tôn giả:

- Thưa ông, cậu Hòa La đã về đến thôn này rồi, ông nên đến 

gặp, cậu Hòa La đang ngồi ăn thức ăn thiu thối ở ngoài kia kià. 

      Cha Tôn giả nghe xong rất đỗi ngạc nhiên, rất đỗi vui mừng 

phấn khởi; ông bước đi vội vàng, tay trái vuốt tóc tay phải vén áo, 

đến chỗ Tôn giả. Trong khi đó, Tôn giả ngồi xoay mặt vào vách 

tường nhà hàng xóm và đang ăn thức ăn thiu thối ấy, cha Tôn giả 

rảo bước tới nơi thấy thế liền nói:

- Hòa La con, con thường ăn thức ăn thơm ngon, tại sao bây giờ 

con lại ăn thức ăn hư thối như thế? Vì lẽ gì con đã về đến thôn 

này mà không về nhà? 

       Tôn giả nói:

- Tôi đã về nhà cha, nhưng đã không được bố thí mà còn bị 

xua đuổi, rủa mắng rằng: “Sa môn trọc đầu này bị màu đen tối 

trói chặt, không con cái tuyệt chủng, phá hoại gia đình ta. Ta có 

một đứa con, hết sức thương yêu chiều chuộng, lòng đầy quyến 

luyến tiếc thương không kể xiết, thế mà nó dẫn con ta đi mất 

không thấy tăm hơi cả mười năm nay”. Cha còn nói: “Không cho 

Sa môn trọc đầu này ăn”, tôi nghe như vậy, làm sao mà không bỏ 

đi cho được? 

       Cha Tôn giả nói lời nhận lỗi:

 - Hòa La, nên bỏ qua cho cha, rất tiếc, cha thật sự không biết 

con trở về. Cha thật tình đã không nhận ra con, và cha rất tiếc 

đã nói những lời bất nhã. 

       Cha Tôn giả diù dẫn Tôn giả về nhà và mời ngồi, khi thấy 

Tôn giả ngồi rồi , người cha bèn bảo người giúp việc đi mời 

mẹ Tôn giả, và sửa soạn cơm nước. Mẹ Tôn giả được tin con 

về, vô cùng sung sướng vui mừng. Bà đến ôm Tôn giả mà khóc 

sướt mướt, và nói những điều nhớ thương của một người mẹ 

đối với người con duy nhất xa cách cả mười năm trời, trong 

khi ấy Tôn giả ngồi yên để cho người mẹ khóc lóc thổ lộ tâm tư. 

       Sau những phút xúc cảm đầu tiên ấy xong, mẹ Tôn giả trở 

vào trong phòng mang tiền, vàng bạc, châu báu ra giữa nhà một 

đống và nói với Tôn giả:

- Đây là phần của cải tiền bạc của mẹ, còn của cha thì nhiều 

vô kể, nay mẹ giao hết cho con, tùy con sử dụng; vậy con nên 

xả giới bỏ đạo, ở nhà sống cuộc sống sung sướng mà bố thí 

tu phúc nghiệp, có hơn là học đạo khó khăn mà vất vả khổ sở không? 

       Tôn giả thưa:

- Tôi có điều muốn nói, mẹ có cho phép không?

- Có điều gì cần nói con cứ nói, mẹ sẵn sàng nghe.

- Mẹ nên bỏ hết số tiền của này vào một bao vải, dùng xe chở 

đến sông Hằng, đổ xuống chỗ thật sâu, vì sao? Vì do tiền của 

này làm cho con người đau khổ sầu thảm, không được an vui.

       Mẹ Tôn giả nói:

- Biết bao nhiêu khổ sở vất vả mệt nhọc mới tạo được số của 

cải này, làm sao mà bỏ đi được. 

       Dùng cách ấy không được, mẹ Tôn giả bèn cất tiền bạc 

của cải rồi bỏ đi, tức tốc tìm đến chỗ mấy cô bạn gái cũ của 

Tôn giả để nhờ họ lôi kéo Tôn giả xả giới bỏ đạo. Chỉ trong 

thời gian ngắn, mấy người nữ này tới, mỗi người một bên, 

kẻ nắm tay, người ôm chân Tôn giả mà nói:

- Này anh ơi, người yêu qúy của em ơi, tại sao anh lại bỏ em 

đi biền biệt cả mười năm trời như thế?

- Này người tình bạc bẽo ơi, có người Thiên nữ nào đẹp hơn 

em mà khiến anh bỏ nhà đi tu vì nàng? 

       Tôn giả co tay, rút chân ra khỏi những bàn tay của họ và nói:

- Này các cô em, các cô nên biết, tôi không vì Thiên nữ mà đi 

tu phạm hạnh (tu giải trừ tham dục để đạt thanh tịnh), sở dĩ tôi 

tu là theo mục đích mà Đức Phật đã dạy là giải thoát, và những 

điều cần làm, tôi đã làm xong. 

       Những người nữ ấy còn nhõng nhẽo nói:

- Em không phải là em gái của anh, em là người yêu của anh, 

tại sao anh lại gọi em bằng cô em, anh đã quên em thật rồi sao? v..v... 

       Bấy giờ Tôn giả nhìn về phiá cha mẹ mà nói:

- Nếu cha mẹ có thí cơm, đúng giờ thì thí, tại sao lại bày ra 

nhiều phiền phức thế này? 

       Cha Tôn giả biết ý con, liền bảo các cô gái tạm đi về và 

sẽ gặp lại sau. Rồi ông sai người lấy nước cho Tôn giả rửa tay, 

và đích thân tự tay đưa các món ăn cho Tôn giả ăn.  Khi ăn no 

đủ rồi, người làm bưng nước cho Tôn giả rửa tay, và cất dọn 

chén bát xong. Tôn giả thuyết pháp cho cha mẹ nghe, và nói 

bài tụng với ý nghĩa tất cả ở đời là không thật, giả dối, nó trói 

buộc kẻ u mê, nhưng nó không thể lừa được người đã sang 

bờ giải thoát; nói bài tụng xong, Tôn giả từ giã cha mẹ, rồi 

dùng Như ý túc (Thần túc) nương hư không mà đi đến ngồi 

kiết già dưới gốc cây Bệ hê Lặc trong rừng Thâu lô Tra. 

3). TÔN GỈA LẠI TRA HÀNH ĐẠO:

 (Còn tiếp)

TÔN GIẢ

LẠI TRA HÒA LA

Toàn Không

(Tiếp theo)

3). TÔN GỈA LẠI TRA HÀNH ĐẠO: 

       Từ đó, tiếng đồn từ thôn Thâu lô Tra rằng: “Tôn giả 

Lại Tra Hòa La đã đắc đạo, có Thần thông” được lan truyền, 

khắp nơi dân chúng đến lễ bái, cúng dàng; Tôn giả thường 

thuyết pháp cho họ nghe, và làm cho họ được lợi ích bằng 

đủ phương tiện. 

       Bấy giờ Vua Cao Lao Bà nước Câu Lâu Sấu, với quân 

thần vây quanh, bàn tán khen ngợi Tôn giả, Vua nói:

- Nếu quả thật thiện nam tử Lại Tra Hòa La về thôn Thâu 

lô Tra thuộc nước ta, thì chúng ta quyết đến thăm hỏi. 

       Vua sai tùy tùng đến rừng thuộc thôn Thâu lô Tra xem 

xét hư thực, Vua được người ấy về báo:

- Trình Đại Vương, thuộc hạ đã đến rừng Thâu lô Tra, chính 

mắt thuộc hạ thấy Tôn giả Lại Tra Hòa La ngồi kiết già dưới 

cây Bệ hê Lặc to lớn. 

       Vua lập tức ra lệnh cho người đánh xe sửa soạn xa giá. 

Khi xa giá sẵn sàng rồi, Vua lên xe ngồi rồi đi đến rừng Thâu 

lô Tra. Từ xa trông thấy Tôn giả, nhà Vua xuống xe đi bộ. 

Tôn giả trông thấy Vua Câu Lao Bà và đoàn tùy tùng đến bèn nói:

- Đại Vương, nay đến đây muốn nói chuyện với tôi chăng, 

xin mời Đại Vương ngồi. 

       Lúc ấy Vua Câu Lao Bà và Tôn giả cùng chào hỏi nhau, 

quân hầu trải chỗ cho Vua ngồi, Vua ngồi xong đâu đấy rồi nói 

với Tôn giả:

- Lại Tra Hòa La, có phải vì gia đình suy sụp mà xuất gia học 

đạo? Hay vì không có tiền của nên sống đời hưu quạnh chăng? 

Câu Lao Bà này tại Vương gia có nhiều của cải, tôi sẽ xuất tài 

vật cho, ông tha hồ sống đời sống dục lạc sung sướng mà bố thí, 

tùy ý mà tu phúc nghiệp; vậy ông hãy xả giới bỏ đạo và đến cung 

điện của tôi mà ở, vì giáo pháp của Tôn sư ông rất khó, xuất gia 

tu đạo lại càng khó hơn.  

       Tôn giả nghe xong nói:

- Đại Vương dùng lời bất tịnh mà mời tôi, đó không phải lời 

thanh tịnh mà mời, Đại Vương nên nói: “Nước tôi nhân dân 

an ổn, sung sướng, và có lúa gạo đầy đủ. Trong nước không 

có việc binh đao và đấu tranh, cũng không có việc kinh sợ do 

nạn hà khắc hoặc khổ nô dịch; nếu Lại Tra Hòa La ở trong 

nước tôi, tôi sẽ ủng hộ như pháp”, Đại Vương nói như vậy 

gọi là dùng lời thanh tịnh mời tôi. 

       Vua nghe xong, liền nói:

- Nay tôi dùng lời thanh tịnh mà mời như thế, chứ không dùng 

lời bất tịnh mà mời. Tiện đây, tôi có ý nghĩ như thế này: 

“Thường thì nguyên nhân xuất gia đi tu của một người là do 

một trong bốn thứ suy vi, đó là: 

1- Bệnh suy:

       Hoặc có người luôn luôn bị bệnh tật nặng quá đau đớn, 

không thể làm ăn gây dựng gia đình được, nên cạo đầu đi tu. 

2- Lão suy:

      Hoặc có người già, ngũ quan yếu kém, tuổi thọ gần hết, 

gân cốt suy đồi không thể thực hiện dục vọng được nữa, nên 

rời nhà đi học đạo. 

3- Tài suy: 

     Hoặc có người nghèo khổ, không có tiền của để sống, 

nên nương nhờ nơi tu học cho qua ngày tháng. 

4- Thân thế suy:

     Hoặc có người không còn cha-mẹ anh-em, vợ chồng con 

cái không có, bà con chết hết không còn một ai là người thân 

thuộc; người ấy sống cuộc đời quạnh quẽ cô đơn, tứ cố vô thân, 

không còn cảm thấy thích thú gì nữa, nên xuất gia học đạo”. 

       Đối với Lại Tra Hòa La khi xưa không bệnh hoạn, an ổn 

trọn vẹn; lúc đó vào tuổi thanh xuân, tóc đen óng mượt, thân 

thể cường tráng, cha mẹ bà con quyến luyến, không ai muốn 

rời xa. Gia đình khá giả bậc nhất, tiền của chẳng thiếu chi. 

Tôi thấy không có một suy vi nào có thể khiến cho Lại Tra 

Hòa La lià bỏ gia đình đi tu. Vậy thì Lại Tra Hòa La lúc ấy 

hiểu biết như thế nào, được nghe những gì mà nhất quyết 

rời bỏ gia đình để xuất gia học đạo? 

       Tôn giả đáp:

- Đại Vương, đức Phật là bậc Tri Kiến, Vô Sở Trước Chính Đẳng, 

Chính Giác; Ngài dạy bốn điều mà tôi nhận biết như thật, đó là: 

Thứ nhất: Trong thế gian này không có ai hộ trì, không nơi nương tựa. 

Thứ nhì:  Trong thế gian này, vạn vật đều phải đi đến chỗ già nua. 

Thứ ba:  Thế gian này là vô thường, cần phải bỏ đi. 

Thứ tư: Thế gian này không có sự thoả mãn, không có sự biết đủ, 

bị ái dục lôi kéo đi không ngừng. 

       Vua Câu Lao Bà hỏi:

- Lại Tra Hòa La, như ông vừa nói: “Thế gian này không ai hộ trì, 

không nơi nương tựa”, nhưng tôi có con cháu anh em, tướng quân 

các binh chủng nghiêm nghị dũng mãnh; tôi lại có các lực sĩ hộ vệ, 

có người xem tướng, và có kẻ bày mưu tính toán, tôi cũng lại có 

người thông hiểu điển sách, và có kẻ giỏi đàm luận giúp tôi. 

      Tóm lại, tôi có đủ loại người, khi tôi cần đến họ đều sẵn sàng, 

bất cứ phương nào có khủng bố hoặc biến động đều được chế 

phục ngay tức khắc; như vậy nói rằng thế gian này không người 

hộ trì, không nơi nương tựa có nghĩa thế nào? 

     Tôn giả đáp: … 

(Còn tiếp)

 TÔN GIẢ

LẠI TRA HÒA LA

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

     Tôn giả Lại Tra Hòa La đáp:

- Đại Vương, bây giờ tôi hỏi nhà Vua, xin tùy theo sự hiểu biết mà trả lời; Đại Vương, thân Ngài có bệnh chăng?

 

- Hiện nay thân tôi thường có bệnh Phong, uống thuốc cũng chẳng hết.

 

- Nếu bệnh Phong bộc phát trầm trọng, rất đau đớn, thì lúc đó Đại Vương có thể bảo con cháu họ hàng, và tất cả những người mà Ngài vừa kể, họ tạm thời thay thế sự đau đớn cho Ngài được an ổn không?

 

- Không được, không ai có thể tạm thời thay thế sự đau đớn của tôi được, tôi phải tự chịu lấy mà thôi.

 

- Như vậy thì lời dạy: “Thế gian này không ai hộ trì, không nơi nương tựa” là đúng sự thật.

 

       Vua Câu Lao Bà nói:

- Bây giờ tôi đã hiểu và biết trong thế-gian này không có ai hộ trì, và không có nơi nương tựa là đúng sự thật. Tôi cũng hiểu và biết trong thế gian này tất cả vạn vật đều già nua đi là sự thật, vì tôi thấy như thân tôi đây, khi mới có hai ba mươi tuổi thì thân thể cường tráng mạnh khoẻ đẹp đẽ, bây giờ bẩy tám mươi tuổi, gân cốt yếu mềm thấy rõ ràng, như vậy là già nua đi. Nhưng câu: “Thế gian này là vô thường cần phải bỏ đi, như vậy có ý nghĩa gì?”

 

- Tôi xin hỏi Đại Vương, bây giờ Ngài có nước Câu Lâu Sấu kho tàng đầy đủ, quân lực hùng cường, lương thực dồi dào v.v... Nếu thời gian đã đến, chịu sự phá hoại, không thể nương tựa được nữa, tất cả các thứ này đi đến chỗ diệt vong, lúc đó các thứ đầy đủ, hùng cường, dồi dào có thể mang từ đời này qua đời khác được không?

 

- Không thể được.

 

- Thế cho nên lời dạy: “Thế gian này là vô thường, cần phải bỏ đi” là đúng sự thật.

 

- Nay tôi nghe và hiểu điều đó là đúng sự thật, nhưng câu: “Thế gian này không có sự toàn mãn, không có sự biết đủ, bị ái dục lôi cuốn đi không ngừng, nói như vậy có nghiã gì?” xin Ngài giải thích giùm.

 

- Đại Vương có nước Câu Lâu Sấu dồi dào, có cung điện nguy nga lộng lẫy, có kho tàng đầy đủ, có đủ thứ; nhưng nếu có người từ phương Đông, hoặc từ phương Tây, phương Nam, phương Bắc tới đây. Người ấy không nói dối, và đáng tín nhiệm, người ấy nói với Ngài rằng: “Tôi từ phương ấy, nước ấy tới đây, tận mắt tôi thấy nước ấy vô cùng giàu có, mà quân mã chẳng có bao nhiêu, binh khí rất thô sơ, lại chẳng đề phòng chi cả; Đại Vương nên chiếm nước ấy mà lấy tài vật của cải và bành trướng thế lực”. Vậy Ngài có muốn chiếm một nước rất dễ dàng để cai trị không? Và khi: đã chiếm được một nước rồi, các nước khác cũng giống như vậy, thì Ngài có muốn chiếm luôn không?

 

- Nếu tôi biết có nước giàu có, không nhiều quân mã, khí giới thô sơ, lại không đề phòng, và chiếm dễ dàng, thì tôi quyết tiến chiếm nước ấy mà cai trị; nếu các phương khác, nước khác cũng giống như thế, thì chắc chắn tôi sẽ đánh chiếm hết để làm bá chủ các nước.

 

- Thế cho nên lời dạy: “Thế gian này không có sự toàn mãn, không có sự biết đủ, bị ái dục lôi cuốn đi không ngừng” là đúng sự thật.

       Vua Cao Lâu Bà nói:

 

- Qủa thật, thế gian này không có sự toàn mãn, không có sự biết đủ, bị ái dục lôi đi không ngừng; nay tôi đã nghe, và hiểu biết như thật.

       Vua nói tiếp:

 

- Tôi còn nhiều điều cần học hỏi, nhưng thời giờ ngắn ngủi, thỉnh Ngài cùng tôi về Kinh đô để được dịp cúng dường cùng học đạo; vả lại, tại  kinh đô còn có rất nhiều người muốn học đạo, mong Ngài nhận cho.

 

       Tôn-giả im lặng nhận lời, rồi cùng ngồi xe với Vua đến Kinh đô. Tôn giả Hòa La đã độ cho rất nhiều người tại kinh thành, cũng như trong nước Câu Lâu Sấu..,.


 

(Còn tiếp)

__._,_.___


Posted by: Tien Do 

__._,_.___

Posted by: Tien Do <

No comments:

Post a Comment

Featured Post

NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng.

  NHỮNG KHÔI HÀI VỀ . . . Chữ Nghĩa Việt Cộng. 1. - Ai cũng biết VC là vua chơi chữ, lúc chúng ...

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Blog List