NHỮNG LỜI
KIÊU MẠN
Toàn Không
Khi Đức
Phật du hóa đến núi Tỳ ha La, thuộc thành La
duyệt Kỳ, Ngài trú ngụ trong động
cây Thất Diệp (sau này tập
kết Kinh Luật ở đây); có một vị Cư
sĩ tên là Tán đà Na thuộc
thành La duyệt Kỳ, cứ mỗi ngày
thường đến chỗ Phật ngụ.
Một hôm trên đường đi, Cư sĩ Tán đà
Na nhìn bóng mặt trời
thấy còn sớm, vì Cư sĩ nghĩ rằng Đức
Phật còn đang nhập
định, và các vị Tỳ kheo cũng còn
đang thiền định; nghĩ như
vậy, nên Cư sĩ Tán đà Na tạm thời
tạt vào nghỉ chân tại rừng
Ô Tạm Bà Lợi.
Lúc đó trong rừng Ô Tạm Bà Lợi có Phạm chí tên là
Ni câu Đà cùng năm trăm đệ tử ở đó, họ
đang lớn tiếng
bàn luận chính trị. Khi Phạm chí Ni
câu Đà vừa trông thấy
bóng dáng Cư sĩ Tán đà Na từ xa đi
tới, ông liền ra lệnh:
- Mọi người hãy giữ im lặng, vì có
người lạ đang đi tới.
Từ xa, Cư sĩ đã nghe tiếng nói chuyện ồn ào, nên sau
khi gặp, chào hỏi xã giao xong, ông
nói với Phạm chí Ni câu Đà:
- Thầy tôi là Sa môn (Tu sĩ) Cù Đàm
thường ưa yên tịnh không
chịu ồn ào, không giống như các ông
thường hay bàn luận ồn ào.
Phạm chí Ni câu Đà đáp lời:
- Sa môn Cù Đàm có lần nào cùng ông
đàm luận không, ông
làm sao biết được Sa môn Cù Đàm có
đại trí tuệ? Ông ở nơi
biên địa khác nào như trâu đui ăn
cỏ, sự thấy biết của ông
thiên lệch; Sa môn Cù Đàm thầy của
ông cũng vậy, ưa bảo
thủ những quan niệm thiên lệch, và
thích ở chỗ không người;
nếu thầy ông tới đây, chúng tôi sẽ
gọi là “con trâu đui”.
Còn việc Sa môn Cù Đàm thường tự
xưng là đại trí tuệ,
nhưng chúng tôi chỉ cần dùng một câu
là làm cho ông ta bí
lối, mà phải làm thinh; ông ta cũng
ví như “con rùa thun rụt
hết đầu đuôi bốn chân vào vỏ”,
và cho như thế là yên, nhưng
chúng tôi chỉ cần một mũi tên bắn ra
là không còn chỗ trốn.
Bấy giờ Đức Thế Tôn (Phật) đang ở trong tịnh thất nghe
(Ngài dùng Thiên nhĩ) Phạm chí nói những
lời như thế, Ngài
liền rời động cây Thất diệp, đi đến
chỗ Phạm chí Ni câu Đà.
Phạm chí Ni câu Đà trông thấy Đức
Phật từ đằng xa đi tới,
vội bảo các đệ tử rằng:
- Sa môn Cù Đàm đang đến đây, vậy
các ngươi chớ đón tiếp,
không cung kính, cũng không mời
ngồi; trái lại chỉ một chỗ
riêng cho ông ta ngồi mà thôi, rồi
hỏi: “Sa môn Cù Đàm từ đâu
tới? Ông dùng pháp gi để dạy đệ tử
khiến họ được tịch tĩnh ?”
Phạm chí vừa nói xong thì Đức Thế Tôn cũng vừa tới nơi,
các đệ tử Phạm chí tự nhiên đứng dậy
nghênh tiếp và nói:
- Qúy hóa thay Đức Cù Đàm đến đây!
Vinh hạnh thay Đức
Sa môn đến đây! Xin mời Ngài ngồi
tạm chỗ phiá trước đây,
từ lâu không được gặp Ngài, nay có
việc gì Ngài lại đến đây?
Tại sao họ lại thay đổi thái độ một cách mau
chóng như vậy?
Đó là do oai nghi thần lực của Phật
khiến ác tâm của họ bị tiêu
tan. Sau khi Đức Phật an tọa rồi, Cư
sĩ Tán đà Na cúi đầu đảnh
lễ Phật, rồi ngồi qua một bên, lúc
ấy Phạm chí Ni câu Đà nói:
- Sa môn Cù Đàm: từ đâu đến đây, ông
dùng pháp gì để dạy
đệ tử khiến họ được tịch tĩnh?
Đức Phật liền nói:
- Thôi đi Phạm chí: pháp của Ta dạy
bảo đệ-tử từ trước đến
nay thì không thể nào ông so sánh
được, ngay cả thầy ông
và đệ tử tu hành tịnh hay bất tịnh
Ta đều có thể nói được.
Lúc đó các đệ tử của Phạm chí bàn tán với nhau:”Sa
môn Cù Đàm có thần lực lớn, có trí
tuệ lớn, người ta hỏi
nghĩa lý của mình, mà mình lại nói
nghĩa lý của người ta”.
Khi ấy Phạm chí Ni câu Đà nói:
- Tốt lắm, xin ông hãy phân biệt rõ
ràng, chúng tôi đang muốn nghe.
Đức Phật nói:
- Những việc làm của các ông đều
thấp kém như lõa thể
rồi lấy tay che, hoặc không nhận
thức ăn đựng trong bát,
không nhận đồ ăn khi người ta đang
ăn. Hoặc không nhận
thức ăn khi nhà người ta có người
đang có thai, nhà có chó
đứng trước cửa, nhà có nhiều ruồi,
không nhận thức ăn khi
người tu hành mời. Hoặc một ngày hai
ngày cho đến bảy
ngày chỉ ăn một bữa, hoặc chỉ ăn
rau, chỉ ăn cỏ, chỉ uống
nước cháo, chỉ ăn mè (vừng), chỉ ăn
gạo sống.
Hoặc ăn
phân bò, phân nai; hoặc ăn rễ, búp, lá, hạt;
hoặc ăn qủa (trái cây) rụng. Hoặc choàng
áo trên vai, mặc
áo cỏ, áo vỏ cây, áo da nai; hoặc
cuốn cỏ quanh mình, mang
tấm lông, mặc áo bỏ ngoài gò mả.
Hoặc không ngồi giường,
cạo tóc chừa râu, nằm trên chông
gai; hoặc nằm trên trái cây
vỏ cứng, lõa thể nằm trên đống phân bò.
Hoặc một ngày tắm
ba lần, một đêm tắm ba lần v.v...
Tóm lại: các ông dùng vô số khổ hạnh để hành hạ xác
thân như thế, ông nghĩ sao, tu khổ hạnh
như vậy đáng gọi là
thanh tịnh chăng; nếu ông cho là
thanh tịnh, Ta sẽ từ trong
cái tịnh ấy mà chỉ ra những điều bất
tịnh cho ông xem.
Phạm chí đáp:
- Đó là những pháp thanh tịnh chứ
chẳng phải là bất tịnh,
ông cứ nói những điều bất tịnh, tôi
đang muốn nghe.
Đức Phật bảo:
- Người tu khổ hạnh, trong tâm vẫn
tự nghĩ: “Nay ta tu như thế
này, sẽ được mọi người nể vì, cung
kính, lễ bái, cúng dường”,
đó không phải là thanh tịnh, mà là
cấu uế (dơ bẩn, xấu xa, đê
hèn, tồi tệ); người tu khổ hạnh khi
được cung kính, lễ bái, cúng
dường liền say đắm không muốn từ bỏ,
luyến ái không muốn
thoát ly, đó là luyến ái xấu xa cấu
uế.
Khi vừa trông thấy bóng dáng người lạ đến, vội vàng
cùng bảo nhau ngồi thiền, nhưng khi không
có người lạ lại
tự ý đi đứng, ngồi nằm, chuyện trò
thỏa thích, đó là không
chân chính, cấu uế; khi nghe chính
nghĩa của người khác
không chịu nhìn nhận, đó là kiến
giải sai lầm cấu uế; nếu
ai hỏi đúng mà tiếc rẻ không chịu đáp,
đó là tư tưởng xấu
xa cấu uế.
Thấy người cúng dàng Sa môn, Bà la Môn, sinh lòng
chê bai, cản trở gièm pha, đó là cấu
uế hèn hạ; nếu có thức
ăn, tham lam giữ ăn một mình, đó là
ích kỷ dơ bẩn cấu uế;
người tu khổ hạnh mà sát sinh, trộm
cắp, tà dâm, nói dối, nói
lời ly gián, nói lời độc ác, nói lời
thêm bớt, tham lam, sân hận,
tà kiến, đó là cấu uế.
Tu khổ hạnh mà lười biếng, ham vui mê mờ, không tu
thiền định, đó là buông lung phóng
đãng cấu uế; người tu
khổ hạnh không có tín nghĩa, không
giữ tịnh giới, không
siêng năng học hỏi, kết bạn cùng
người ác để làm việc ác,
đó là cấu uế; nếu tu khổ hạnh mà
thích làm những điều xảo
trá, tìm tòi những chỗ sơ hở của
người khác, đó là thấp hèn
cấu uế.
Thế nào Ni câu Đà, lối tu khổ hạnh như vậy đáng gọi là
thanh tịnh chăng? Ta sẽ từ trong pháp
cấu uế của các ông
mà chỉ ra pháp thanh tịnh không cấu
uế.
Phạm chí Ni câu Đà đáp:
- Đó là bất tịnh chứ không phải là
thanh tịnh, xin Ngài cứ
nói những pháp thanh tịnh không cấu
uế.
Đức Phật giảng: …
(Còn tiếp)
NHỮNG LỜI
KIÊU MẠN
Toàn Không
Tiếp theo)
Đức Phật giảng:
Người tu khổ hạnh không tự nghĩ rằng: “Ta tu như
thế sẽ được cung kính, lễ bái,
cúng dường”, đó là pháp
khổ hạnh dứt trừ cấu uế; người
tu khổ hạnh khi được
cúng dường, nhưng tâm không tham
đắm, biết cách
thoát ly, xa lià, đó là tốt đẹp
không cấu uế.
Tu khổ hạnh thường tu tọa thiền theo thường lệ, chứ
không vì có người hay không có người
đến mà thay đổi,
đó là chân chính xa lià cấu uế; khi
nghe đến chính nghĩa
của người khác liền vui vẻ tin nhận,
đó là đúng đắn không
cấu uế; nếu có ai hỏi han liền vui
vẻ giải đáp, đó là đàng
hoàng xa lià cấu uế.
Khi thấy người cúng dường Sa môn, Bà la Môn,
thì vui mừng thế cho họ không gièm
pha cản trở, đó là
có tâm hoan hỉ không cấu uế; lúc
nhận được thức ăn,
không luyến tiếc tham đắm, không để dành
ăn một mình,
mà chia cho kẻ khác, đó là vị tha hòa đồng xa lià cấu
uế;
không tự khen mình chê người, đó là
chân chính không cấu uế.
Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không
nói dối, không nói lời ly gián, không
nói lời thêm bớt, không
nói lời độc ác, không tham lam,
không giận hờn thù hận,
không tật đố tà kiến, đó là
đoạn diệt cấu uế.
Chẳng
tự cao tự đại, chẳng kiêu căng ngã mạn, đó là
xa lià cấu uế; giữ lòng tín nghĩa,
thực hành hạnh báo đáp,
giữ gìn tịnh giới, siêng năng học hỏi,
làm bạn với người
lành, lo tích chứa điều lành, đó là
phạm hạnh không cấu
uế; không xảo quyệt, không ỷ mình
hiểu biết, không tìm
khuyết điểm của người, đó là cao cả
xa lià cấu uế.
Này Ni câu Đà nghĩ thế nào, pháp khổ hạnh như
vậy có phải là pháp thanh tịnh
xa lià cấu uế không?
Phạm chí đáp:
- Đúng vậy, qủa thật đó là những
pháp thanh tịnh xa lià cấu uế.
Rồi Phạm chí hỏi Phật:
- Chẳng hay pháp khổ hạnh đến mức độ
này có được gọi
là kiên cố đệ nhất hay chưa? Xin
Ngài cho biết.
- Chưa, đó mới chỉ là vỏ cây thôi,
chưa được gọi là kiên cố.
Này Ni câu Đà, người tu khổ hạnh tự
mình không sát sinh,
không trộm cướp, không tà dâm, không
nói dối, không nói
lời ly gián, không nói lời thêm
bớt, không nói lời độc ác,
không tham lam, không giận hờn thù
hằn, không tật đố
tà kiến. Người tu khổ hạnh cũng
không bảo người khác
làm các việc ác ấy, người này đem
tâm Từ trải khắp một
phương, đến các phương khác cũng
vậy, với tâm Từ
quảng đại, bình đẳng khắp cả thế
gian, không oán giận;
với tâm Bi, tâm Hỷ, tâm Xả cũng như thế,
người tu khổ
hạnh này mới được gọi là lõi
cây.
- Xin Ngài nói về nghĩa khổ hạnh
kiên cố.
- Hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho.
- Vâng.
- Người tu khổ hạnh đã như lõi cây ở
trên rồi, còn phải biết
việc xảy ra trong vô số kiếp về
trước, hoặc một đời, hoặc
hai đời cho đến vô số đời, quốc độ
thành hoại hay kiếp số
trước sau đều biết hết. Đồng thời
còn phải biết rõ mình
từng sinh vào chủng tộc đó, tên tuổi
như thế, từ đó sinh
về đây, từ đây chết đi rồi sinh về
kia; tất cả những việc từ
vô số kiếp như thế đều nhớ cả, đó là
người tu khổ hạnh
kiên cố không hoại.
- Xin Ngài giảng thế nào là pháp khổ
hạnh bậc nhất?
- Hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho.
- Vâng, thưa Đức Thế Tôn, con đang
muốn nghe.
- Này Ni câu Đà, những người tu khổ
hạnh đã không làm
mười điều ác, cũng không bảo người
khác làm mười điều
ác; vị ấy đem trải tâm Từ, Bi, Hỷ,
Xả rải khắp thế gian.
Vị ấy tự biết việc xảy ra cho chính
mình trong vô số kiếp,
và vị ấy có thể dùng thiên nhãn
thanh tịnh quán sát các
loại chúng sanh thấy họ chết đây
sinh kia, sinh ở cõi tốt,
cõi xấu đều thấy biết hết. Lại còn
thấy rõ có chúng sanh
thân làm điều ác, miệng nói lời ác,
ý nghĩ việc ác, hủy
báng thánh hiền, tin theo tà đạo dị
kiến, sau khi chết bị
đọa vào ba cõi dữ là Địa ngục, Súc
sinh và Ngạ qủy.
Vị ấy còn thấy biết có chúng sanh làm
các điều lành,
miệng nói các lời chân thật, ý nghĩ
các việc tốt lành,
ca ngợi thánh hiền, tu hành chính
tín, và sau khi qua
đời được sinh vào cõi tốt là cõi
Trời hoặc cõi Người
có địa vị giàu sang. Vị ấy với thiên
nhãn thanh tịnh
thấy chúng sanh theo hành nghiệp
(việc làm, lời nói,
ý nghĩ) mà chết đi ở cõi này và sinh
đến cõi kia, không
có gì mà không thấy không biết, đó
là khổ hạnh thù
thắng bậc nhất.
Đức Phật giảng tiếp:
- Còn có pháp thù thắng hơn nữa mà
Ta thường đem giảng
dạy cho hàng Thanh văn, và họ nhờ
pháp ấy mà tu được
phạm hạnh, trở thành bậc Thánh.
Bấy giờ các đệ tử Phạm chí đồng nghĩ và bảo nhau:
“Nay chúng ta mới thấy được Đức Cù
Đàm là tối thượng,
Thầy ta không thể so sánh được”.
Khi ấy Cư sĩ Tán đà Na nói với Phạm chí Ni câu Đà:
- Trước đây ông đã nói như thế này:
“Hễ thấy Sa môn Cù
Đàm đến đây, chúng tôi sẽ gọi là
“con trâu đui”. Chúng tôi
chỉ một câu là đủ làm cho Sa môn Cù
Đàm bí lối mà phải
làm thinh như con rùa thun cả đầu,
đuôi, bốn chân vào
trong vỏ và cho thế là yên;
nhưng chúng tôi chỉ cần một
mũi tên bắn ra là Sa môn Cù Đàm
không còn chỗ trốn”,
sao ông không đem những lời này ra
làm bí lối Đức Thế Tôn?
Phạm chi cúi mặt lặng thinh không nói năng chi cả,
Đức Phật hỏi Phạm chí:
- Trước đây ông có nói như vậy
không?
- Thưa có, qủa thật tôi có nói, nếu
tôi biết như vầy, tôi đã
chẳng dám nói như thế đối với Đức Cù
Đàm.
- Ông khá không nghe các bậc tiền
bối thường nói: “Chư
Phật, Như Lai thường ưa ở núi rừng thanh
vắng”, như Ta
ngày nay ưa ở chỗ vắng, chứ không
như các ông chỉ
thích ở chỗ ồn ào, nói chuyện vô ích
suốt ngày.
Phạm chí nói:
- Tôi có nghe nói chư Phật trong quá
khứ ưa chỗ vắng,
độc cư trong rừng như Thế Tôn ngày
nay, chẳng như
chúng tôi ưa chỗ ồn ào, nói điều vô
ích suốt ngày.
Đức Phật bảo:
- Ông há không biết Sa môn Cù Đàm
hay thuyết pháp
về đạo Bồ đề (Giác ngộ) rằng: “Không
những tự điều phục
mình mà còn điều phục cho kẻ khác,
không những dứt phiền
não cho mình mà còn dứt phiền não
cho kẻ khác. Không
những tự mình qua đến bờ giác giải thoát,
mà còn độ cho
người khác đến bờ giác giải thoát”.
Khi ấy Phạm chí Ni câu Đà, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đến trước Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ,
tay sờ chân Phật, tự
xưng tên mình và nói:
- Con là Ni Câu Đà, nay xin quy y
Phật, con xin đảnh lễ dưới
chân Ngài.
Đức Phật dạy:
- Thôi đi Ni câu Đà, hãy đứng dậy,
chỉ cần tâm ông hiểu lời
Ta nói, là đã đảnh lễ Ta rồi.
Lúc đó Phạm chí Ni câu Đà lại đảnh lễ một lần nữa
dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một
bên, Đức Phật đạy tiếp:
- Này Ni Câu Đà, chớ nghĩ rằng: “Như
Lai vì lợi dưỡng (lợi
lộc về cơm áo vật chất v.v…) mà
thuyết pháp, vì nếu có lợi
dưỡng thì Ta bố thí hết cho ông. Ta
thuyết Pháp vi diệu
(tinh tế tột
cùng) bậc nhất với mục đích diệt trừ làm việc
ác, và tăng trưởng làm việc thiện
của chúng sanh mà thôi”.
Ông không nên nghĩ: “Như Lai vì muốn được sự tôn
trọng, vì muốn được tiếng khen, vì
muốn là người dẫn
đầu nên nói pháp. Nay quyến thuộc
của ông Ta trả hết
cho ông, Ta thuyết pháp với mục
đích diệt trừ điều ác,
tăng trưởng điều thiện của chúng
sanh mà thôi”.
Cũng chớ nghĩ rằng: “Như Lai sẽ đặt ông ở nơi
thiện pháp thanh bạch, mà chính ông
phải tự mình ở
nơi thiện pháp và siêng năng tu
hành. Có như vậy,
Như Lai sẽ nói thiện pháp thanh bạch
cho ông để diệt
trừ điều ác tăng trưởng điều thiện”.
Lại nữa, ông đừng nghĩ: “Như Lai vì muốn làm thầy
cho nên thuyết pháp. Ta trả ông lại
cho thầy ông, Ta chỉ
nói pháp cho ông nghe mà thôi”.
Sau cùng, nếu ông cho rằng: “Ta có thiện pháp
tương ưng thiện, giải thoát tương
ưng giải thoát, nhưng
Sa môn Cù Đàm đoạt của ta”,
Ông chớ nghĩ như vậy,
Ta trả lại pháp của ông cho ông, Ta
chỉ giảng pháp cho
ông nghe thôi.
Lúc bấy giờ cả hội chúng đều yên lặng, không có một
ý niệm nào, không có một ai lên
tiếng gì cả, vì do ma ngu
si ám. Đức Phật thấy vậy, liền bảo
Cư sĩ Tán đà Na:
- Ta muốn trở về Tịnh thất, ông hãy
đi với Ta.
Đức Phật đứng dậy, nắm
tay Cư sĩ Tán đà Na, rồi
Ngài vận dụng Thần túc nương hư không mà đi trước
sự ngơ ngác của mọi người..,.
__._,_.___
Posted
by: Tien Do <
No comments:
Post a Comment