- Viet Nam
History - Part 2
- Viet Nam
History - Part 3
- Viet Nam
History - Part 4
- Viet Nam
History - Part 5
- Viet Nam
History - Part 6
- Viet Nam
History - Part 7
- Viet Nam
History - Part 8
- Viet Nam
History - Part 9
- Viet Nam
History - Part 10
- Viet Nam
History - Part 11
- Viet Nam
History - Part 12
- Viet Nam
History - Part 13
- Viet Nam
History - Part 14
- Bản Tuyên Ngôn
Quốc Tế Nhân Quyền.
Truyện cổ tích Việt Nam:
1. Con Rồng Cháu Tiên: Theo truyền thuyết, người Việt xuất
hiện khoảng 5000 năm trước. Ông Lạc Long Quân, thuộc dòng dõi Rồng, lấy bà Âu
Cơ, thuộc dòng dõi Tiên, đẻ được 100 người con trong cùng một bọc. Khi họ
trưởng thành, 50 người con theo mẹ lên núi và 50 người con theo cha xuống vùng
đồng bằng gần biển sinh sống. Mổi năm họ đoàn tụ với nhau một lần. Vì sự tích
đó, người Việt được gọi là dòng giống Tiên Rồng. Sách sử cũng chép rằng ông Lạc
Long Quân thuộc dòng họ Hồng Bàng, là dòng họ đầu tiên ngự trị nước Việt Nam.
Dragon and Fairy Legend: According to legend, the first Vietnamese
existed about 5000 years ago. Lac Long Quan, from the Hong Bang lineage, a man
descended from dragons, married Au Co, a woman whose ancestors were fairies. Au
Co gave birth to 100 children in one pouch. When the children grew up, 50 of them
followed their mother to settle in the mountains, and the other 50 children
followed their father to lowlands near the sea. Every year they see each other
once. This story explains why history books typically refer to the original
Vietnamese desendents as Dragon-Fairy or Hong Bang.
Dragon et Légende féerique: Selon la légende, les premiers
Vietnamiens sont apparus il y a environ 5000 ans. Lac Long Quan, un homme
descendant de dragons, se maria à Au Co, une femme dont les ancêtres étaient
des fées. Au Co donna naissance à 100 enfants en une seule fois. Quand les
enfants eurent grandi, 50 d'entre eux suivirent leur mère pour s'installer dans
les montagnes, et les 50 autres suivirent leur père dans les basses terres près
de la mer. Ils ne se virent qu’une fois l’an. Pour cette histoire, les
Vietnamiens s’appellent le Dragon-Fée. Les livres d'histoire nous apprennent
que la famille Vietnamienne Hông Bang fut la première à dominer le pays.
2. Vua Hùng Vương Lập Quốc: Lạc Long Quân lấy tên nước là Văn
Lang và phong con trưởng làm vua, hiệu là Hùng Vương. Con trai của vua gọi là Quan
Lang, con gái gọi là Mị Nương. Trong thế kỷ qua, người Việt đào được nhiều
trống đồng thời cổ xưa có khắc hình chim Lạc, chim Hồng, nên người Việt còn gọi
nhau là dòng giống Lạc Hồng.
Mặt trên của trống đồng
King Hung Vuong established the country: Lac Long Quan named the
country Van Lang and put his eldest son on the throne as King Hung Vuong. The
sons of the king were given the title Quan Lang, and the daughters were called
My Nuong. During the last century, the Vietnamese have dug up many ancient
copper drums with Lac birds and Hồng birds engraved on them. This is why
Vietnamese also call themselves the Lạc Hồng.
Le Roi Hung Vuong fonda le pays: Lac Long Quân nomma le pays Van
Lang et mis son fils le plus âgé sur le trône comme roi Hung Vuong. Les fils du
roi reçurent le titre de Lang Quan et les filles furent appelées My Nuong. Au
cours du dernier siècle, les Vietnamiens ont déterré de nombreux tambours en
cuivre antique portant des gravures d’oiseaux Lac et d’oiseaux Hông. C'est
pourquoi les Vietnamiens s’appellent aussi le Hông Lac.
3. Phù Đổng Thiên Vương: Đời vua Hùng Vương thứ 6, giặc Ân
bên Tàu hung bạo đem quân sang chiếm nước ta . Vua cho tìm người tài giỏi ra
đánh giặc giúp nước. Làng Phù Đổng, Bắc Ninh có một đứa trẻ xin vua một con
ngựa sắt và một cây roi sắt để đi đánh giặc. Khi ngựa và roi đem đến, đứa trẻ
vươn vai trở thành một thiếu niên cao lớn lạ thường. Sau khi ăn thật nhiều cơm
của dân làng đem đến, chàng thiếu niên nhảy lên lưng ngựa, cầm roi sắt đánh
giặc Ân.
Phu Dong Thien Vuong: During the reign of Hung Vuong the 6th, the
Ân from China invaded the country. The King looked for a brave, heroic person
to fight the enemy and save the country. In Phu Dong village of Bac Ninh, a
little boy who had never talked suddenly asked the King for a big iron horse
and an iron stick. When the horse and the stick came, the boy transformed to
become a young man who was masculine and extraordinarily tall. After eating a
huge meal offered by the whole village, the man jumped onto the iron horse, and
using the iron stick as a club, he started to beat the Ân enemy.
Phu Dông Thiên Vuong: Pendant le règne de Hung Vuong le 6ième, les
Ân de Chine envahirent le pays. Le roi rechercha un brave, une personne
héroïque pour combattre l'ennemi et sauver le pays. Dans le village de Phu
Dông, Bac Ninh, un petit garçon qui n'avait jamais parlé tout à coup demanda au
Roi un grand cheval de fer et un bâton de fer. Quand le cheval et le bâton
arrivèrent, le garçon étira son corps pour devenir un jeune homme
extraordinairement grand. Après avoir mangé un énorme repas offert par le
village tout entier, le jeune homme sauta sur le cheval de fer et, en utilisant
le bâton de fer comme d’un club, il commença à combattre l'ennemi Ân.
4. Đánh được một lúc roi gẫy, anh hùng Phù Đổng nhổ từng bụi
tre quật vào quân giặc. Giặc tan, chàng thiếu niên anh hùng trở về lạy tạ ơn
mẹ, phi ngựa lên núi Sóc Sơn rồi biến mất. Vua và dân chúng nhớ ơn, nên lập đền
thờ, gọi cậu bé là Phù Đổng Thiên Vương. Thanh niên Việt Nam yêu nước thường
ước mơ đem tài sức mình ra giúp nước, giúp dân như anh hùng Phù Đổng Thiên
Vương.
During the battle against the Ân, the stick was broken. The Phu
Dong hero then uprooted bamboo trees and continued to strike againts the
invaders. After the enemy army collapsed, the hero youth galloped his horse up
to Soc Son mountain and disappeared. The King and the people gratefully
appreciated, built a temple to honor him and called him Phu Dong Thien Vuong,
means the God King at Phu Dong. Patriotic Vietnamese youths still dream of
contributing to the welfare of their country as heroically as did the young Phu
Dong Thien Vuong.
Au cours de la bataille contre les Ân, le bâton se brisa. Le héro
Phu Dông déracina alors des arbres bambous et continua à combattre les
envahisseurs. Une fois l'armée ennemie battue, le jeune héros alla sur son
cheval au galop jusqu'à la montagne Soc Son et disparu. Le roi et le peuple lui
furent très reconnaissants et construisirent un temple pour lui rendre hommage
qu’ils appelèrent Phu Dông Thiên Vuong, ce qui signifie le roi-dieu de Phu
Dông. Les jeunes patriotes vietnamiens rêvent encore de contribuer à la
prospérité de leur pays avec autant d'héroïsme que celui du jeune Phu Dông
Thiên Vuong.
5. Sơn Tinh, Thủy Tinh: Vua Hùng Vương thứ 18 có cô con gái
xinh đẹp tên Mỵ Nương. Có 2 chàng trai là Sơn Tinh và Thủy Tinh đến hỏi làm vợ.
Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, cưới được Mỵ Nương và đem vợ lên núi. Thủy Tinh
đến sau, không cưới được vợ, tức giận làm mưa gió, dâng nước lên đánh Sơn Tinh.
Sơn Tinh làm phép cho núi cao hơn và dùng sấm sét đánh lại. Thủy Tinh đánh thua
rút chạy. Hàng năm đến mùa mưa to gió lớn, bão táp, lụt lội, người ta nghĩ Sơn
Tinh và Thủy Tinh vẫn còn đánh nhau.
Son Tinh, Thuy Tinh: King Hung Vuong the 18th had a beautiful
daughter, named My Nuong. Son Tinh and Thuy Tinh both came to propose to marry
her. Son Tinh came first with his offerings, married My Nuong and brought her
up to the mountain. Thuy Tinh came later, angrily made a strong hurricane to
raise water up to fight with Son Tinh on the mountain. Son Tinh also cast a
magic spell to grow the mountain taller, and used thunder to fight back.
Finally, Thuy Tinh was defeated and withdrew. When the raining season comes
every year with hurricanes, people think that Son Tinh and Thuy Tinh are still
fighting.
Son Tinh, Thuy Tinh: Le roi Hung Vuong, le 18ième du nom, avait
une jolie fille nommé My Nuong. Son Tinh et Thuy Tinh vinrent tous les deux
proposer de l'épouser. Son Tinh arriva le premier avec ses offrandes. Il épousa
My Nuong et l'emmena jusqu'à la montagne. Thuy Tinh vint plus tard. De colère
il créa un fort ouragan pour élever l'eau suffisamment pour se battre avec Son
Tinh sur la montagne. Son Tinh jeta également un sort magique pour élever
encore plus hauts les montagnes et utilisa le tonnerre pour riposter.
Finalement, Thuy Tinh fut battu et se retira. Lorsque la saison des pluies
revient chaque année, les gens pensent que Son Tinh et Thuy Tinh se battent
toujours.
6. Năm 257 trước Tây Lịch (tr.TL), vua Hùng Vương 18 mất
ngôi: Vua nước Thục bên Tàu là An Dương Vương đem quân đánh bại vua Hùng
Vương, đặt lại tên nước là Âu Lạc. Vua An Dương Vương xây thành Cổ Loa để phòng
thủ và được thần Kim Quy cho nỏ và tên thần giữ nước.
Year 257 B.C., King Hung Vuong the 18th lost his throne: King An
Duong Vuong of Thuc country defeated King Hung Vuong. Then An Duong Vuong named
the new country Au Lac and built the Co Loa rampart. One day a Golden tortoise
genius came up and gave him a magic crossbow and arrows, which would be used to
defend the country.
En l’an 257 avant Jésus Christ, le roi Hung Vuong, le 18ième du
nom perdit son trône: Le roi An Duong Vuong du pays Thuc battit le roi Hung
Vuong. An Duong Vuong nomma alors le nouveau pays Au Lac et construisit le
rempart Cô Loa. Un jour, une tortue d'or de génie arriva et lui donna une
arbalète magique et des flèches à utiliser pour défendre le pays.
7. Năm 208 tr.TL: Triệu Đà cho con là Trọng Thủy đến cưới Mỵ Châu,con
gái vua An Dương Vương, với chủ mưu đánh cướp nỏ thần. Mỵ Châu vô tình giúp cho
Trọng Thủy lấy xem và đánh tráo nỏ thần. Triệu Đà đem quân đánh. An Dương Vương
vì không còn nỏ thần nên bị thua. Triệu Đà chiến thắng, sáp nhập nước Âu Lạc
vào quận Nam Hải lập nên nước Nam Việt.
The year 208 B.C.: Trieu Da planned to have his son, Trong Thuy,
marry My Chau, the daughter of King An Duong Vuong. Trong Thuy incited his wife
to borrow the magic crossbow. Then Trong Thuy brought it to his father. His
father, Trieu Da led his forces over to defeat An Duong Vuong, and then
combined Au Lac and Nam Hai into the Nam Viet nation.
En l’an 208 avant Jésus Christ: Triêu Dà s’arrangea pour marier
son fils Trong Thuy avec My Châu, fille du roi An Duong Vuong. Trong Thuy incita
sa femme à emprunter l'arbalète magique. Trong Thuy l’apporta à son père Triêu
Dà lequel défit An Duong Vuong avec ses troupes puis combina Au Lac et Nam Hai
en la nation Nam Viêt.
8. Mỵ Châu bị cha hiểu lầm giết chết, máu loang xuống biển
khiến ngọc trai ở vùng đó đổi màu. Trọng Thủy đau buồn nhảy xuống giếng tự tử.
Người ta đem ngọc trai có màu xấu xuống giếng Trọng Thủy rửa, ngọc trai trở nên
lóng lánh màu rất đẹp.
King An Duong Vuong killed My Chau, thinking that his daughter
betrayed him. My Chau's blood flowed into the sea, causing the color of pearls
in that area to blur. Conscience-stricken, Trong Thuy jumped into a well to end
his life. Later, people noticed that when they washed blurry pearls in Trong
Thuy well, their color turned bright and beautiful.
Le Roi An Duong Vuong tua My Châu pensant que sa fille l'avait
trahie. Le sang de My Châu coula jusqu’à la mer, provoquant une décoloration
des perles. Pris de remords, Trong Thuy sauta dans un puits pour mettre fin à
sa vie. Plus tard, les gens remarquèrent que lorsqu’ils lavaient les perles
décolorées dans l’eau du puits de Trong Thuy, leurs couleurs redevenaient
brillantes et magnifiques.
9. Năm 113 tr.TL: Đời vua Triệu Ai Vương, hoàng thái hậu Cù
Thị và sứ thần Thiếu Quí mưu toan dâng nứơc Nam Việt cho nhà Hán bên Tàu . Tể
tướng Lữ Gia tức giận chém chết vua, hoàng thái hậu, và sứ thần rồi lập vua
Triệu Dương Vương lên ngôi.
Year 113 B.C.: During the reign of Trieu Ai Vuong, king mother Cu
Thi and Chinese ambassador Thieu Qui attempted to present the Nam Viet country
as a gift to the Chinese Han dynasty. The prime minister Lu Gia angrily killed
the king, king mother and the ambassador. Then Lu Gia ascended Trieu Duong
Vuong to the throne.
En l’an 113 Année avant Jésus Christ, Sous le règne de Triêu Ai
Vuong, la mère du roi Cu Thi et l'ambassadeur chinois Thieu tentèrent de
présenter le pays Nam Viêt comme un cadeau à la dynastie Chinoise des Hans. Le
Premier ministre Lu Gia tua de colère le roi, la mère du roi et l'ambassadeur.
Puis Lu Gia mit sur le trône Triêu Duong Vuong.
10. Quan Thái Thú: Vua Vũ Đế bên Tàu sai tướng quân đánh
chiếm nước Nam Việt đặt tên là Giao Chỉ Bộ và đặt quan Thái thú để cai trị nước
ta. Giao Chỉ nghĩa là hai ngón chân cái giao nhau.
The Chinese governor: King Vu De of China ordered his army to
conquer Nam Viet, then named it the Giao Chi province and appointed a Chinese
governor to rule the country. Giao Chi means the two toes slanted toward each
other.
Le gouverneur Chinois: Le roi Vu Dê de Chine ordonna à son armée
de conquérir le Nam Viêt qu’il nomma alors la province de Giao Chi et nomma un
gouverneur Chinois pour gouverner le pays. Giao Chi signifie les deux orteils
inclinés l’un vers l'autre.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment