Mot kinh nghiem song qua
dau thuong, khat nghiet!
Tờ Khai Sanh Oan Nghiệt
Tác giả : Phan Người viết.
Phan : Tác giả là một nhà báo,
người phụ trách một cột mục trên tạp chí Ca Dao tại Dallas, đã nhận giải danh
dự Viết Về Nước Mỹ 2007.
Sau đây là hồi kết bài viết mới của
ông, với lời ghi: “Gởi chút niềm riêng...”*
1. …Cha tôi đánh mẹ tôi như cơm bữa, lần cuối cùng, năm tôi
6 tuổi. Hôm đó, cha về nhà với người đàn bà son phấn chứ không xoàng xĩnh như
mẹ tôi. Sáu tuổi đầu nhưng tôi đã linh cảm được đại sự xảy ra! Thay vì chạy
trốn đòn như mọi lần cha về thì tôi chạy xuống bếp với mẹ để nhớ đời về trận
đòn kinh khủng mà mẹ tôi phải gánh chịu.
Cha đuổi mẹ Ra khỏi nhà bằng những câu chửi tục tằn, những hành vi ghê sợ.
Người đàn bà kia đứng khoanh tay nhìn cha tôi đá cái lò củi đang cháy mà trên
đó là nồi cơm chiều đang sôi. Có lẽ do nước cơm đang sôi làm phỏng chân vì cha
đi dép chứ không phải giày nên ông nóng giận hơn bình thường và đã trút cơn
thịnh nộ lên mẹ tôi một trận đòn kinh khủng. Ông đá mẹ tôi liên miên đến không
đứng dậy nổi, cuối cùng là nắm tóc và giập đầu mẹ vô vách đến khi dòng máu đỏ
chảy dài xuống mặt thì người đàn bà kia can ra, không cho đánh nữa. Bà ta mở
bóp đầm, lấy ra cái khăn tay để hỉ mũi… chứ không phải lau máu cho mẹ
tôi.
Mẹ nắm tay tôi, lom khom vì đau đến không đứng thẳng người lên được, trở lên
nhà trên, mẹ xốc thằng em tôi đang ngủ dúi ở góc nhà. Mẹ vác nó lên vai, cố tha
lưng nó cho đừng khóc nữa. Chúng tôi ra khỏi nhà trong bóng chiều chạng vạng.
Người đàn bà kia đứng lặng nhìn theo… tương lai của bà.
Con chó phân bua vài tiếng sủa, rồi quyết định chạy theo những kẻ khốn
cùng.
Chúng tôi đi bộ thật gần để sang
nhà bà nội. Mẹ tôi gởi chị em tôi cho bà nội để đến nhà ông y tá trong xóm băng
bó vết thương vì máu chảy đầm đìa. Nội xua đuổi chúng tôi làm om xòm cả xóm.
Chú Tư tôi ngoài quán nhậu, nghe chuyện trở về nhà. Ông ra lệnh cho bà nội giữ
đứa con trai, (năm đó, em tôi 4 tuổi) và ra lệnh cho mẹ dẫn tôi đi đâu thì đi,
đừng về nhà nữa, đừng đến đây nữa.
Mẹ tôi miễn cưỡng gởi lại thằng em tôi cho bà nội, nhưng nó khóc la, không chịu
rời mẹ tôi. Chú Tư táng nó một bạt tai đến sặc máu mũi, chửi tới ba đời nhà nó.
Mẹ tôi không cho đánh nó nữa bằng cách ôm nó vào lòng mẹ. Chú Tư trút giận lên
mẹ tôi còn tàn nhẫn hơn cha tôi. Chú đánh mẹ tôi như đánh chó. Đá lăn lông lốc
trên sân…
Tôi không còn khóc la nổi nữa, chỉ đứng há hốc miệng ra nhìn. Thằng em tôi thôi
khóc, máu mũi nó chảy xuống đỏ cả ngực áo nó lẫn áo tôi, nó vùng ra khỏi tay
tôi đang ôm nó trong lo sợ, nó dõng dạc chỉ mặt chú Tư! "Đụ má mày chú
Tư." Ông cho nó một đá văng ra ngõ, nó giẫy đàng đạch như con cá lóc bị
đập đầu. Mẹ tôi bò ra ngõ, lôi thằng em tôi và gọi tôi. Chạy. Con chó chạy
theo…
Đêm đó, chúng tôi ngủ sạp ngoài chợ Chồm hổm là ngôi chợ tự phát, mọc lên sau "giải
phóng". Bờ sông bãi rác trước đây nhưng có lợi thế trên bờ dưới bến, thuận
tiện cho việc mua bán của ghe thương hồ. Đêm xuống, mấy chiếc ghe thương hồ leo
lét đèn bão và tiếng hát lời ca vang lên cùng tiếng đàn vọng cổ. Tôi quá lạnh,
sợ và đói nên không ngủ được, rúc vô mẹ tôi thì thằng em không nhường hơi ấm,
nó xô tôi ra. Tôi ôm con chó, khóc thút thít… rồi lịm đi.
Khuya, mấy người Phường đội, du kích, công an… đi bắt vượt biên làm náo động
mấy chiếc ghe thương hồ đã yên giấc. Họ bắt chúng tôi chung với những người lạ,
những người vượt biên lớ ngớ không biết chạy đi đâu. Tất cả những người bị bắt,
được giải về Công an Phường. Sáng hôm sau, công an nhận mặt ba mẹ con tôi là
người địa phương nên thả ra chứ không đưa đi trại giam.
Mẹ dẫn chị em tôi xuống cuối chợ, mua cho mỗi đứa một trái bắp luộc và dặn ngồi
ngoan ở đó để mẹ đi xin việc làm. Con chó cũng kêu đói ăng ẳng đòi phần, mẹ
nhường cho nó củ khoai lang luộc là phần của mẹ. Bây giờ, tôi mới thấy trên đầu
mẹ tôi được buộc lại như đeo tang, máu khô còn đầy ở mang tai và gương mặt tím
bầm nhiều chỗ. Chúng tôi ăn xong, ngồi ngoan một chỗ để mẹ đi gánh nước và rửa
tô cho hàng hủ tiếu. Con chó lẽo đẽo theo mẹ đi gánh nước…
Từ đó, chúng tôi sống ngoài chợ. Tối ngủ coi đồ cho hàng hủ tiếu khỏi dọn bàn
ghế về nhà như trước đây. Gia đình tôi cũng quen được ông bà Mười làm nghề
thương hồ. Ông bà lên hàng là cả ghe cá mắm tới rau trái, dừa khô, khoai lang,
bí đỏ… Họ mua bán trao đổi không hết hàng thì để lại cho mẹ tôi bán chợ chiều
vì công việc phụ hàng hủ tiếu chỉ bán chợ sáng. Những ngày tháng ấy, tôi thấy
mẹ tôi cười khi chợ vắng tanh về tối và thằng em tôi chơi với con chó nhiều hơn
chơi với chị.
Chuyện ba mẹ con tôi sống ngoài chợ được đồn đến tai cha tôi và chú Tư cũng
đồng nghĩa với hết yên ổn từ hôm bà nội đi chợ. Bà ngồi ăn bún thịt nướng chả
giò thơm lừng. Tôi không giữ nổi thằng em như lời mẹ tôi dặn dò, nó vùng khỏi
tay tôi để chạy đến bà nội xin ăn vì thịt nướng thơm lắm! Bà nội hất nguyên tô
bún vô mặt nó. Bảo lượm lấy mà ăn! Chửi ba đời chín kiếp nhà nó. Nó không lượm
thịt nướng chả giò dưới đất mà chỉ thẳng vào mặt bà nội! "Đụ má mày bà
nội". Người dưng cười hả hê bao nhiêu thì mẹ tôi bị chú Tư ra chợ đánh cho
một trận còn thê thảm hơn thế.
Chiều tối hôm sau, tới phiên cha tôi ghé chợ, đánh cho mẹ tôi một trận nữa,
đánh tới gẫy xương sườn. Từ đó về sau, thằng em tôi chỉ nói một câu: "Đụ
má". Ai hỏi nó ăn hôn? Chơi hôn? Ngủ hôn? Đi đái hôn?... nó chỉ trả lời…!
Người kẻ chợ gọi nó là "thằng Đụ má".
Chị em tôi sống nhờ cơm ông Mười nấu dưới ghe, bà Mười đưa mẹ tôi đi nhà thương
chưa về. Dì Hường (cháu gọi bà hủ tiếu bằng dì, là người làm công việc gánh
nước, rửa tô với mẹ tôi). Dì mua cho chúng tôi hai bộ đồ mới… là tất cả những
gì tôi còn nhớ được tới hôm nay.
Ông ngoại (ông Mười) bỏ chị em tôi xuống ghe, con chó đã bị người ta bắt trộm
làm thịt trong hôm mẹ tôi đi nhà thương. Chúng tôi khóc con chó quá mức nên
quên khóc cho mẹ dở sống dở chết nơi đâu chúng tôi cũng không biết! Ông ngoại
đưa chị em tôi về nhà ngoại ở dưới quê. Bà ngoại ở bệnh viện chờ bác sĩ "hàn
xương sườn" cho mẹ tôi.
Ông ngoại nói với chị em tôi như thế. Chúng tôi được ở nhà ngoại với dì Hai,
(dì bị té sông hồi nhỏ nên tâm thần lãng đãng). Nhưng dì biết nấu cơm cho chúng
tôi ăn, dì biết ca vọng cổ, hay lắm! Không nhớ bao lâu thì mẹ tôi cũng được ông
bà ngoại đưa về quê. Từ đó, mẹ tôi làm người đi trao đổi hàng hóa từ thành phố
về, thu mua đặc sản trong xóm, sắp sẵn cho ông bà ngoại về tới là lên hàng và
xuống hàng, đi liền. Ông bà ngoại không phải ở lại xóm một hai hôm để mua bán,
trao đổi hàng hóa với xóm làng vì đã có mẹ tôi lo.
Thương vụ của ông bà ngoại phát đạt nhờ có mẹ tiếp sức. Ông bà ngoại tôi tin là
mẹ tôi đã đem may mắn đến gia đình có bốn người con gái nên làm ăn ạch đụi
hoài! Từ hồi có mẹ tôi thì gia đình ông bà ngoại đã đủ Ngũ Long Công Chúa nên
ai cũng ăn nên làm ra. Trừ dì Hai bị tâm thần nên không lập gia đình, còn lại
các dì kế đều tự nhiên làm ăn được nên khá lên.
Cả nhà ngoại thương mến mẹ con tôi đến độ ông bà ngoại gả chồng cho mẹ tôi với
người đàn ông trong xóm, cũng làm nghề thương hồ và vợ chết khi sanh đứa con
thứ hai cho ông. Mẹ tôi chưa đồng ý chuyện cưới hỏi thì chú Tư đã xuống tới
nơi, tố cáo với công an địa phương là ông bà ngoại tổ chức vượt biên nên mẹ con
tôi bị bắt lần nữa. Ông bà ngoại xạt nghiệp lần đó, phương tiện làm ăn chỉ là
cái ghe thương hồ mà bị cấm hoạt động vì tội đưa người; chứa người vượt biên
thì còn gì để sống! Ngoại bán ghe để chạy chọt cho họ thả chúng tôi ra.
Dì dượng ba của tôi đã âm thầm chuẩn bị cho chúng tôi ra khỏi trại giam với
lệnh phải trở về Sài gòn trong ngày. Nhưng dì dượng đón chúng tôi khi xe đò rời
Vĩnh Long không xa và đưa chúng tôi đi trốn trong gò mả - ngoài đồng hoang cả
tuần tới hôm đi vượt biên.
2. Chúng tôi đến đảo như mọi người vượt biên khác và khác
người là ba mẹ con thui thủi, không biết có được đi định cư ở nước thứ ba vì
hoàn toàn không có thân nhân ở ngoại quốc.
Cơ may bất ngờ là có một gia đình vượt biên như chúng tôi, họ có thơ của thân
nhân ở Pháp gởi tới trại. Trong thơ có mấy câu tiếng Pháp do đứa cháu nội của
ông già vượt biên viết hỏi thăm ông nội, nhưng ông không biết đọc tiếng Pháp.
Mẹ tôi dịch được sang tiếng Việt cho ông hiểu. Nhờ đó, mẹ tôi quen chú Thành.
Chú giỏi tiếng Anh và làm việc cho ban lãnh đạo trại để giúp đỡ đồng bào tỵ
nạn, chứ chú đi Mỹ lúc nào cũng được vì gia đình chú đã sang Mỹ từ lâu.
Ngày tháng, những gia đình vượt biên cùng chuyến đã đi định cư, chỉ còn gia
đình tôi ở miết vì không người bảo lãnh đi nước thứ ba; cũng không phái đoàn
nào nhận chúng tôi đi bất cứ đâu để khỏi bị cưỡng bức hồi hương. Chú Thành
quyết định làm đám cưới với mẹ tôi ngay bên trại tỵ nạn. Đám cưới được Ban lãnh
đạo trại tổ chức cho và có mấy phái đoàn ngoại quốc dự đám cưới nữa nên gia
đình tôi đi Mỹ với chú Thành, khá dễ dàng. Tôi không tưởng tượng được sự
giàu sang của gia đình chú Thành, khi tôi tới Mỹ. Nhưng tôi không được sống
trong căn nhà lộng lẫy, gọi bà cụ hiền khô là bà nội. Chúng tôi sống riêng ở
một căn apartment. Cuối tuần, chú Thành ghé thăm.
Mẹ tôi, một lần nữa lăn xả vào cuộc sống mới vì hai đứa con nhỏ. Ai cũng khen
mẹ tôi giỏi giang vì tới Mỹ mấy ngày thôi đã lội tuyết đi làm cho tiệm
fast-food Mỹ. Đêm, ngồi may tới khuya lơ để kiếm tiền. Từ khi mua được chiếc xe
hơi cũ, cuối tuần nào mẹ cũng chở chúng tôi đến thăm bà… với quà bánh cho bà
rất hậu. Cuộc sống chúng tôi ổn định dần thì bà bị trợt té gẫy chân, phải
nằm bệnh viện lâu vì giập lá lách nữa. Mẹ chú Thành có bốn người con trai thì
ba người con dâu trước đây không công nhận mẹ tôi là em dâu út, nhưng bây giờ
cần người vô bệnh viện với mẹ chồng thì gọi vợ Ut Thành! (Tôi đã bắt đầu biết
suy nghĩ về gia cảnh của mình và hoàn cảnh của mẹ vì tôi đến Mỹ năm 10 tuổi,
bây giờ đã sắp 13).
Mẹ tôi nói với chú Thành là mẹ xin nghỉ vacation, sau đó nghỉ không ăn lương để
có thể chăm sóc cho bà. Nhưng mẹ nói với tôi: "Chú Thành đã cứu chúng ta,
bây giờ mẹ phải giúp chú ấy. Mẹ bị buộc thôi việc vì nghỉ nhiều quá, nên không
có tiền lương nữa. Cũng không có thời giờ may để kiếm tiền trả tiền thuê
apartment…" Mẹ dạy tôi may và tôi đã ngủ gục trên bàn may nhiều lần để có
tiền trả apartment, năm tôi 13 tuổi.
Khi bà được xuất viện về nhà, mẹ tôi vẫn chăm sóc bà thêm mấy tháng. Khi bà tự
nói: Bà đã có thể tự túc một mình, mẹ tôi nên đi làm lại để nuôi con. Bà cho mẹ
tôi một số tiền lớn lắm, có thể mua được căn nhà để ở. Nhưng mẹ tôi không lấy
và trình ra giấy ly dị với chú Thành mà mẹ đã ký sẵn để trả lại tự do cho chú
Thành như thoả thuận của mẹ với chú Thành từ hồi làm đám cưới bất đắc dĩ bên đảo.
Tôi với thằng em, phản đối vì chúng tôi đã thân quen với chú Thành như con với
cha, dù chú không ăn ở với mẹ tôi. Tôi nhớ lần cuối đến thăm bà vào ngày cuối
tuần vì mẹ tôi quyết định dời đi tiểu bang khác sinh sống. Mẹ không giải thích
lý do nhưng tôi lờ mờ hiểu là mẹ muốn xa bà và chú Thành.
Hôm đó thật buồn, bà ngồi trên ghế bành và khóc. Cuối cùng, bà tuốt cái nhẫn
trên tay bà mà bà nói là quà cưới của bà. Bà trịnh trọng trao cho mẹ tôi: "Bác
không có con gái để trao lại cái nhẫn này nên bác cho cháu. Về chuyện của cháu
với thằng Thành, nó là người tín nghĩa trong việc giúp cháu qua được Mỹ, hai
đứa phải mang danh nghĩa vợ chồng trên giấy tờ mà nó thì sống độc thân mấy năm
nay. Nó chờ cháu đó! Cháu cứ nhận cái nhẫn gia bảo này như cháu là người xứng
đáng được bác trao lại kỷ vật của gia đình. Nếu cháu nhận thêm ý nghĩa thứ hai
- là cái nhẫn đính hôn cho con trai của bác thì bác cảm ơn cháu thật
nhiều." Mẹ tôi khóc, chị em tôi cũng khóc, mẹ đưa tay cho bà đeo
nhẫn vào.
Chúng tôi trở về apartment của chúng tôi. Tôi bắt đầu suy nghĩ về tình cảm của
người lớn! Tôi ước gì chú Thành đến tặng hoa cho mẹ tôi vì nhẫn đính hôn thì bà
đã trao rồi. Tôi hỏi thằng em: "Mày có muốn chú Thành làm ba của mình
hôn?" Nó trả lời tôi bằng cái ôm chị hai thật lâu. (Nó là người khô khan
tình cảm tới lạnh lùng, nó không thích nói và chỉ thích đánh lộn.) Không ngờ,
mẹ tôi khóc sau lưng chúng tôi - hôm đó là thứ bảy. Sáng hôm sau, chú Thành ghé
apartment chở chúng tôi đi chơi như chú hứa. Hai chị em tôi xin qua cây xăng -
sát bên apartment mua kẹo để mang theo ăn. Mẹ tôi đang chuẩn bị đi làm, mẹ tôi
đi làm liên tu bất tận…
Lần đầu tiên, chúng tôi nói dối mẹ với chú Thành vì chúng tôi băng qua chợ Mỹ,
mua một bó hoa hồng rẻ nhất (loại người ta đã bỏ ra ngoài tủ lạnh chưng hoa với
bảng giá 50% off, vì tiền chúng tôi có tới đó thôi!) Chúng tôi mang về, dúi vô
tay chú Thành và hai đứa đứng yên. Chú nhìn chúng tôi thật lâu sau lớp kính cận
rất dày của chú… chỉ có nước mắt chảy ra. Cuối cùng, chú cũng tiến đến mẹ tôi
để trao bó hoa, chú trao luôn ra cái hộp bé xíu mà xinh xắn đến tuyệt
vời…
Ba mẹ tôi đã ôm nhau thật lâu - trước mặt chị em tôi - để vài năm sau - tôi có
thêm đứa em cùng mẹ khác cha. Lần đầu tiên từ khi đến Mỹ, mẹ tôi bỏ việc không
làm để đi chơi. Ngày chủ nhật đầu tiên trong đời chị em tôi được đi chơi với
cha mẹ. Chiều về, ăn nhà hàng sang trọng để hai chị em tranh nhau cái toilet mà
ói vì đứa nào cũng không quen với cao lương mỹ vị.
3. Hai năm trước, tôi ghé thăm ba mẹ nhằm hôm ba đi câu với thằng
em khác cha của tôi. Mẹ đưa tôi lá thơ viết tay có dấu Bưu điện Sàigòn chứ
không phải Vĩnh Long. Tôi bình tĩnh theo phản xạ của người trưởng thành dị
biệt. Tôi ngồi nghĩ về ngôi chợ Chồm hổm ở bờ sông Dương Bá Trạc…
…Nhớ ba lần về Việt Nam, gia đình tôi đều thuê xe về thẳng Vĩnh Long. Lần đầu
về thăm ông bà ngoại và các dì; lần sau về xây mộ cho ông ngoại; lần cuối về
xây mộ bà ngoại. Mẹ tôi về một mình trong lần thứ tư để chôn cất dì Hai đã mãn
phần vì chứng tâm thần từ nhỏ của dì nên dì kém thọ. Không biết lần về một
mình, mẹ tôi có ghé thăm bên nội?! Tôi không nghĩ mẹ tôi còn ghé bờ sông Dương
Bá Trạc làm gì! Nhưng bằng cách nào mà bên nội biết được địa chỉ của mẹ? Tôi
không hỏi, cũng không đọc thơ dù phong bì đã xé. Tôi ngồi lặng thinh, ký ức trở
về năm lên 6 tuổi của mình với lòng oán hận tới ứa nước mắt. Mẹ tôi nói: "Vì
lá thơ có liên quan tới con nên mẹ phải đưa cho con." Tôi ngước lên nhìn
mái tóc bạc sớm của mẹ, đôi vai gầy và đôi mắt sâu… làm tôi không nói được
lời oán trách nào hết! Mẹ ngồi xuống bên tôi như đêm đầu ngủ chợ, vết thương
trên mang tai mẹ chỉ còn vết sẹo lu mờ, máu khô nâu đã sạch nhờ ơn chú Thành
chùi rửa! Không biết mẹ có biết vết thương trong lòng tôi với em tôi không bao
giờ khép miệng! Một tuần trôi qua, tôi mất ngủ hoàn toàn vì tò mò muốn
đọc lá thơ nhưng lại tự lòng không cho mình đọc. Tôi không muốn xát muối lên
vết sẹo còn mưng mủ trong lòng em tôi. Tôi không muốn làm tổn thương chú Thành
khi ơn chú chưa trả mảy may! Vì ở vai trò người cha kế, chú xử tệ với chị em
tôi thì đã sao?
Ngược lại, chú thương tôi bằng vất vả, hy sinh, chia sẻ… cho đứa con gái nhiều
mặc cảm về gia đình và xuất xứ bản thân. Chú khổ sở với tánh tình hung bạo, hận
thù tất cả, không tin ai ở đời… của thằng em bất trị của tôi. Không ít lần nó
làm cho chú suýt vô tù, mất việc, tiền bạc tiêu tan trong những lần phải bồi
thường cho những người mà nó gây hại cho người ta. (Nó đánh người vô cớ khi
chợt nhớ về thù hận đâu đâu trong tuổi thơ của nó.) Nó quên tiếng Việt đến 99%!
Phần trăm còn lại là câu "Đụ má".
Mỗi lần nhìn mẹ tôi cắn răng chịu đựng những cơn đau nội tạng bị tổn thương khi
trở trời. Nó chửi thề tiếng Việt ỏm tỏi, mắt long lên giận dữ như con chó điên!
Những lúc ấy, tôi an ủi, vỗ về nó để nó đừng ra đường đánh đại - bất cứ ai mà
nó thấy mặt. Chú Thành lặng lẽ săn sóc mẹ tôi hết khăn nóng tới khăn lạnh. Chú
nói chơi mà tôi khóc thiệt, "Lau mòn da cũng không hết cái đau bên trong!
Tụi con ngoan ngoãn nghe lời, cố gắng vươn lên… mới là cái khăn lông lau được
nhức nhối trong lòng của mẹ con. Hai đứa ráng lên…"
Tôi đến nhà em tôi sau cú điện thoại nó gọi, tôi đoán được việc nó đã thu xếp
trước với anh rể vì chồng tôi ít khi để tôi đi đâu môt mình trong ngày nghỉ
cuối tuần. Tôi đến một mình và người vợ mới cưới của nó cũng vắng nhà vô cớ để
chỉ có hai chị em tôi gặp nhau. Tôi ngồi chưa nóng ghế thì ba tôi đến - chú
Thành ở trại tỵ nạn năm xưa - nay đã già, qua hai tròng kính cận thật dày, đôi
mắt nhân từ độ lượng của ông vẫn như xưa - người đàn ông khuôn mẫu trong quyết
định của tôi khi lập gia đình vì chồng tôi giống chú đến 90%, mười phần trăm
còn lại là khoảng cách tuổi tác của hai người. Ba chúng tôi không vào
chuyện được khi chai rượu vang đã gần cạn. Chú Thành hỏi tôi:
- "Con đã đọc lá thơ của
ba con chưa?" Tôi trả lời:
- "Dạ
chưa"!
Chú nói:
- "Không cần đọc nữa! Vì
mẹ con đã đưa chú đọc. Chính chú nói:
- Cứ đưa cho con để con quyết định.
Nội dung bức thơ do cha con viết, chỉ một yêu cầu: Con bảo lãnh ông ấy sang Mỹ
vì thằng Thắng (em tôi) không có giấy khai sanh. Con thì có. Cha con cũng không
có giấy kết hôn với mẹ con, nên chỉ mình con có tư cách bảo lãnh ông ấy sang
Mỹ. Mẹ các con nhờ chú suy nghĩ giúp vì bà không lường được hậu quả chuyện này.
Với lòng tin mà mẹ các con đã gởi gắm nơi chú! Chú tin mình có thể vượt qua
những khó khăn của gia đình chú. Nhưng, hai con đã trưởng thành nhiều, chú muốn
chính chúng con giải quyết việc riêng của gia đình riêng của các
con…"
Thằng em tôi nổi giận, mắt nó long lên! Chửi thề văng tục… nó thề giết cha tôi,
giết hết bên nội… rồi tới đâu thì tới nếu tôi bảo lãnh ông ấy sang đây.
Tôi biết không bàn tính được gì với em tôi, tôi với chú Thành và chồng tôi lại
ngồi xuống với nhau. Hai người đàn ông đã gầy dựng lại cuộc đời tôi từ đổ nát…
cũng không ai cho tôi được quyết định cuối cùng vì mỗi mình tôi có liên hệ pháp
luật với quá khứ! Tôi có tờ khai sanh oan nghiệt.
4. Tôi đi gặp mẹ để đi đến quyết định cuối cùng cho chuyện có bảo lãnh
cha tôi hay không? Mẹ tôi biết trước cuộc gặp này nên có lẽ mẹ đã chuẩn bị chu
đáo cho một lần nói hết với con. Tôi như người bạn của mẹ tôi nơi một góc nhà
hàng xa lạ, hai người phụ nữ Việt Nam lạc lõng trong cái nhà hàng Mỹ như đôi
bạn dạt trôi đến nơi này từ địa ngục trần gian. Mẹ tôi ăn mặc đẹp, nét đẹp trời
cho… rồi tiếc! Nên ông ấy ganh tỵ với mẹ tôi hoài.
Lâu lắm rồi, tôi mới nhìn kỹ mẹ mình bằng con mắt khách quan để hiểu thêm vì
sao mẹ khổ! Người đàn bà nào không ham nhan sắc! Và đó là nguồn gốc của bất
hạnh bản thân cùng những liên lụy đến đời sau… những nghĩ suy miên man trong
đầu tôi không trốn chạy được ánh mắt mệt mỏi của mẹ mình. Mẹ tôi dở lại từng
trang đời cho đứa con nghe như nước đã qua cầu! Cầu bao nhiêu nhịp lòng sầu bấy
nhiêu… Mẹ tôi nói: "…mẹ không trả lời những câu hỏi của con, khi con
còn quá nhỏ. Đến khi nói được với con thì tự con thấy không nên hỏi mẹ nữa! Cảm
ơn con đã xử sự với mẹ bằng sự chia sẻ thầm lặng đó! Nhưng hôm nay, mẹ nói hết
một lần với con về xuất xứ của con và cả xuất xứ của mẹ nữa, khi định mệnh đã
không buông tha mình…
Biến cố 1975 đã liệng mẹ ra khỏi
Viện mồ côi với tuổi đời 16, thân xác trưởng thành hơn đồng lứa, có lẽ hai
người sinh ra mẹ cũng khá đẹp đôi. Mẹ không biết đi về đâu, làm gì để sống?...
Khi trong tay chỉ có vốn tiếng Pháp ở trình độ biết đọc, biết viết mà các dì
Phước đã dạy cho mẹ; một chút tài may vá, thêu thùa học được trong Viện mồ côi.
Mẹ với người bạn thân trong Viện đã đói khát nhiều ngày mới xin được việc ở đợ
cho một gia đình mà trước mặt tiền đường là tiệm may. Người bạn của mẹ phải ở
nhà dưới lo cơm nước, giặt giũ. Mẹ biết cắt may nên được bà chủ may mặc cho dễ
coi để đứng tiệm ở nhà trên, dù thời ấy cũng chẳng ai may mặc gì nhiều.
Tưởng cuộc đời có ăn có mặc được yên thân, ai dè ông bà chủ bảo coi nhà cho gia
đình họ đi chơi Đà lạt dăm hôm. Họ không trở về nữa. Họ đã vượt biên. Công an
đến niêm phong nhà cửa, tịch thu tài sản. Mẹ với người bạn bị bắt đưa về Phường
để điều tra! Thuở ấy, hai đứa trẻ mồ côi đâu biết được cạm bẫy ngoài đời. Đó
chỉ là cái cớ cho họ đưa hai đứa con gái mồ côi ngờ nghệch về hành lạc, chứ ai
đi bắt đám con ở làm gì! Cả hai đứa bị hãm hiếp tập thể trên tầng ba của ngôi
nhà lầu, bất kể ngày đêm…
Hai (chị em) mẹ quyết định tự tử. Cô chị nhảy lầu trong hoàn cảnh không mảnh
vải che thân. Mẹ nhảy theo không thoát vì bị níu lại. Người chị chết thảm trên
lề đường đêm khuya, chắc cũng không được chôn cất gì đâu. Sáng hôm sau, họ giải
mẹ lên công an quận để xoá dấu cái chết đêm qua của bạn mẹ. Từ quận giải đi
tiếp đến đâu thì mẹ không biết! Chỉ biết trên xe có chú Tư của con. Dọc đường,
đồng bọn của chú Tư giải cứu, cướp tù. Họ bắn nhau với công an. Trong hỗn loạn
tiếng súng, chú Tư nói mẹ chạy theo chú chứ ở lại thì họ xử bắn mẹ. Mẹ chạy
theo chú Tư… để ân hận suốt đời.
Chú, đưa mẹ về nhà bà nội con, rồi đi biến đến mấy tháng. Mẹ không có khái niệm
về một gia đình vì nhỏ lớn ở trong Viện mồ côi. Mẹ chỉ biết so sánh gia đình bà
nội với gia đình tiệm may và thấy khác xa, thế thôi. (Con cứ nhớ lại năm con 16
tuổi và sự khờ khạo của mình thì mẹ khờ gấp đôi con vì mẹ ở trong Viện mồ côi
nhỏ lớn. Không biết gì về đời sống bên ngoài). Có bà hàng xóm với bà nội, xúi
mẹ trốn đi vì bà nội là người hành nghề chứa chấp mãi dâm, đó. Nhưng mẹ biết
trốn đi đâu, khi miếng băng vệ sinh, mẹ cũng phải xin bà nội vì mẹ đâu có đồng
nào trong túi để tự mua. Mẹ ở nhà nội như con ở, trong tủi nhục cũng có cái
mừng là mình không bị có thai với đám công an.
Mẹ bắt đầu hiểu biết về chuyện đó từ bà hàng xóm của bà nội. Mấy dì Phước chỉ
dạy mẹ phải giữ gìn vệ sinh thật kỹ, hàng tháng thôi. Các dì không dạy chuyện
hơn. Nhưng ông nội con đã hãm hiếp mẹ đến có thai. Lần ông đang hãm hiếp mẹ thì
chú Tư đột ngột về nhà, vô phòng. Chú, rút dao găm và đâm chết ông nội ngay
trên người mẹ. Chú kéo xác ông xuống gầm giường vì đang trưa. Đến đêm, chú Tư
với bác Hai của con đưa xác đi đâu thì mẹ không biết. Mẹ lên cơn sốt vì khủng
hoảng tinh thần triền miên mấy ngày. Bà nội cho uống thuốc bắc, đối xử tử tế ra
mà mẹ không biết? Khi biết thì đã thành kẻ giết người vì thuốc đó là thuốc trục
thai. Mẹ nhớ suốt đời chỗ bờ sông mà bà nội đã ném cái thai xuống dòng nước…
trôi đi.
Sau đó, mẹ lại có thai vì chú Tư hãm hiếp. Tiếp theo, chú Tư đi tù bất ngờ vì
chú là người đâm thuê chém mướn. Tới bác Hai ra tù, (anh em họ vào tù ra khám
như đi chợ). Bác Hai về nhà cũng bất thường như chú Tư, bác Hai cũng hãm hiếp
mẹ như chú Tư. Mẹ biết mình đã có thai với chú Tư nhưng không nói ra vì sợ bà
nội cho uống thuốc nữa. Mẹ không muốn giết người. Con hiểu! Khi bụng mẹ lớn
rồi, mà vẫn chưa có tiền và có cách để trốn đi thì bà nội bắt uống thuốc phá
thai như lần trước. Mẹ đã biết gian ngoa, nói dối từ cuộc sống dạy mình.
Mẹ cầu cạnh bác Hai che chở và nói dối với bác: Cái thai trong bụng mẹ là con
của bác Hai. Con ra đời như thế đó!" (Tôi điếng người khi hình dung
ra gương mặt chú Tư… lờ mờ trong trí nhớ! Gương mặt mà những khi thằng Thắng
ngủ khò trên sofa… tôi nhìn mặt nó rồi nổi da gà vì vừa thương vừa giận mà tôi
không bao giờ hiểu được vì sao? Tôi giải thích cho mình không thoả đáng khi
nghĩ thương vì là chị em; giận vì nó gieo tai họa cho gia đình nghiêm trọng. Nó
không biết thương chú Thành chút nào hết! Tôi giận nó để rồi thương trong vòng lẩn
quẩn. Sao nó lại giống người đàn ông mà tôi ghê sợ nhất là chú Tư! Cha tôi là
chú Tư.
Còn gì cay đắng hơn trong đời tôi?!) Qua cơn xúc động nhất thời, tôi
không muốn nghe thêm về gia đình bên nội tôi nữa! Nhưng tôi nghe vì thương mẹ
tôi. Tôi hiểu lòng người đàn bà được nói ra những khổ tâm sẽ dễ chịu lắm! Nên
mẹ tôi nói tiếp: "Bác Hai thích mẹ thì đúng hơn thương. Những người nhà
nội mà biết thương ai! Mẹ cũng không hiểu vì sao họ thích khi trong tay họ biết
bao nhiêu cô gái trẻ. Bác Hai làm khai sanh cho con để phòng khi chú Tư ra tù
thì không tranh chấp nữa vì mẹ đã như là vợ bác Hai. Bác đưa mẹ qua sống ở căn
nhà mà mình đã từ đó ra đi…
Khi chú Tư ra tù (vượt ngục hay được thả thì mẹ không biết). Chú Tư lầm lì tới
đáng sợ! Lui tới nhà mình khi bác Hai vắng nhà và hãm hiếp mẹ. Sự chống đối của
mẹ hoàn toàn không có vì chỉ thiệt thân với những trận đòn không tả nổi. Mẹ
thật sự không biết thằng Thắng là con bác Hai hay con chú Tư. Chỉ sau này, căn
cứ vô tính tình của nó thì mẹ đoán nó là con chú Tư. Phần bác Hai con, là người
nghiện rượu, xì-ke ma túy. Nên mẹ càng tin là thằng Thắng con chú Tư. Mẹ đối
phó với hoàn cảnh mình là gian ngoa, nói dối… với chú Tư để bảo vệ cái thai
thằng Thắng vì mẹ không muốn giết người - dù mới là phôi thai. Trong hoàn cảnh
của mẹ lúc ấy, không có chọn lựa!
Chú Tư đánh bác Hai suýt chết vì bác Hai cướp mẹ trên tay chú Tư, bác Hai trở
mặt tố cáo chú Tư giết ông nội tại nhà. Sau này mẹ biết ra, ông nội cũng không
phải là chồng bà nội. Ông có gia đình và chỉ lui tới với bà nội theo lối già
nhân ngãi non vợ chồng. Ông là cán bộ, đã che chở cho bà nội làm ăn phi pháp.
Nên chính bà nội cũng nổi ghen với mẹ vì bị ông bỏ rơi.
"Trong tình thế gia đình tranh giành bát nháo đó, họ thi nhau trút giận
lên mẹ là vậy! Mẹ hiểu chú Tư có tình cảm với mẹ hơn nhưng kẹt người anh tán
tận, người mẹ bất nhân. Mẹ không muốn chú Tư giết bác Hai vì mình - dù họ tàn
ác như nhau, nhưng là chuyện của họ! Không nên xui anh em người ta giết nhau để
mình mang tội. Người ta có tàn nhẫn với mình thì để bề trên xét xử. Sau
khi thằng Thắng ra đời, bác Hai không làm khai sanh cho nó vì nghe lời người
ngoài, bà nội… rồi tin nó là con chú Tư. Bác trở nên tàn độc với mẹ hơn, những
lúc không tiền uống rượu, chích xì-ke, bác Hai bắt mẹ tiếp khách tại nhà để ông
lấy tiền uống rượu và chích. Giai đoạn này thì mẹ đã học được cách tránh thai
từ những cô gái trong nhà chứa của bà nội. Chú Tư thù bác Hai về việc bắt mẹ
tiếp khách, điều đó thì mẹ biết!
Nhưng chú bị người ta đâm lòi ruột trong những tranh chấp ngoài đường, cũng là
việc làm ăn của chú. Chú về nhà nội nằm dưỡng thương mấy tháng. Giai đoạn đó,
mẹ chỉ muốn tự tử vì tủi nhục. Nhưng hai con mình ai nuôi? Mẹ rối trí dữ lắm!
Mẹ nhớ những người khách hiền lành, họ thật sự có nhu cầu giải quyết sinh lý
đơn thuần. Họ thương cảm những cô gái điếm bằng những đồng tiền dấm dúi cho
riêng trong khi hành lạc vì họ dư biết số tiền trả cho ông, bà tú thì bản thân
người gái đĩ đâu có bao nhiêu, thậm chí không được đồng nào trong những hoàn
cảnh bị khống chế. Mẹ chắt chiu tiền đó để chờ cơ hội dẫn tụi con trốn đi
nơi khác, sống.
Mẹ có mua cho chú Tư gói thuốc lá, tô hủ tiếu… không phải vì tình cảm của mẹ
với chú mà đơn giản - chú là cha của tụi con. Mẹ phải có trách nhiệm với ông ấy
cho tới khi tụi con trưởng thành. Suy nghĩ của mẹ lúc ấy là như thế. Khi
chú bình phục lại thì nói mẹ dẫn tụi con lên Long Khánh sinh sống. Chú sẽ giúp
đỡ về tài chánh và sẽ sinh sống với mẹ như vợ chồng. Nhưng mẹ tưởng tượng ra
tương lai của tụi con… thì trốn đi làm chi? Mẹ có mưu đồ trốn chạy nhưng với
hai con thôi. Đó là căn nguyên của những trận đòn tàn tạ mà bác Hai với chú Tư
đã trút lên mẹ.
Chuyện người đàn bà son phấn xuất hiện ở nhà mình để bắt đầu một cuộc ra đi của
ba mẹ con mình, mẹ vẫn tin là Ơn trên đã cho mình một lối thoát. Bên
ngoài cửa kính của nhà hàng, lá thu bay xào xạc về đâu? những chiếc lá tụ ở một
góc parking thì mục rữa theo thời gian. Tôi theo chiếc lá bay một mình trên
parking mênh mông - vô định! Không còn tập trung nổi để nghe mẹ tôi nói, nhưng
mẹ cứ nói như không còn cách nào dừng lại được!
Từ khi ngủ chợ thì con biết rồi. Những lần về Việt Nam thì con cũng đã có trí
nhớ. Hôm nay, mẹ chỉ nói về lần mẹ về một mình. Sau khi xây mộ cho dì Hai, (là
các dì muốn mẹ về chơi chứ không ai cần tiền của mẹ). Lần đó, chú Thành đã
chuyển về cho dượng Ba hai chục ngàn đô la, nên khi mẹ về tới là có hai chục
ngàn và năm ngàn trong bóp tay của mẹ. Mẹ rời Vĩnh Long với tiền bạc còn nguyên
vì không dì nào cho mẹ chi trả gì hết. Mẹ lên Sàigòn với tâm nguyện thực hiện
những điều mình đã nghĩ trước đó. Mẹ tìm lại xóm xưa để thăm dì Hường (Dì bây
giờ khổ lắm! Con cái cũng nghèo nên không nhờ được gì).
Người chồng thì y như bác Hai - xì-ke, nghiện rượu. Thiệt là khổ cho dì. Mẹ cho
dì mười ngàn đô la để sửa sang lại ngôi nhà đã mục nát tới hết cỡ. Bỏ nhà bank
cho dì mười ngàn đô la để dì có thể sống bằng tiền lời từ nhà bank, chứ tuổi
tác chưa già nhưng sức khoẻ yếu kém của dì thì chắc chắn khổ tới chết. Mẹ có
đến bờ sông để thắp cây nhang xin lỗi người anh/chị của con, mẹ đã bỏ nó mấy
chục năm trời lạnh lẽo ngoài bờ sông - dù mới là phôi thai nhưng nó đã có linh
hồn. Không ngờ dì Hường là người chị em mà Ơn trên đã ban cho mẹ.
Dì nghèo vậy mà cũng đã xin lễ cầu siêu cho nó, rước vong linh nó vô Chùa để
cầu siêu theo tín ngưỡng của dì. Mẹ nhớ hoài về hai bộ quần áo mà dì đã mua cho
tụi con - hôm tụi con theo ngoại về quê - là tiền giành dụm của một đứa rửa tô
ngoài chợ. Hôm mẹ xuất viện, ông bà ngoại phải lén đưa mẹ xuống ghe (sợ gia
đình nội biết được thì không biết điều gì xảy ra cho mẹ). Vậy mà trước lúc ông
ngoại nhổ sào cho ghe đi, dì Hường có mặt kịp thời. Dì đặt chồng tô đi thu gom
từ những bạn hàng ở chợ xuống đất, dì xuống ghe và ôm mẹ khóc hết nước mắt. Khi
ghe đã đi rồi, mẹ mới biết được dì đã lén đút hết cuộn tiền đi thu tiền hủ tiếu
vô túi áo mẹ. Nghe bà ngoại nói, dì bị đòn cũng tan xương nát thịt vì tội ăn
cắp số tiền đó).
Bao năm nay, mẹ cứ tâm niệm là mẹ còn thiếu người chị em một trận đòn, thiếu dì
Hường cái tình nghĩa người dưng mà hơn cả ruột thịt. Mẹ không ghé thăm bà
nội hay bác Hai, vì chẳng có gì cho mẹ thăm. Nhưng dì Hường có cho mẹ hay là
chú Tư đang ở tù vì vận chuyển xì-ke ma túy, chờ ngày ra pháp trường chứ
không phải tù ngồi một thời gian như những lần trước. Mẹ suy nghĩ thật kỹ và tự
đi thăm ông. Lúc đối mặt nhau ở nhà tù, ông nói: " Ông đã cầu nguyện cho
được gặp lại mẹ một lần. Và ông đã mãn nguyện". Những câu xin lỗi của một
người ăn năn thật hay giả thì mẹ không quan tâm, Mẹ chỉ nói với ông: "Tôi,
không đến đây để thăm ông. Tôi đến đây chỉ để nói với ông: Những gì ông đã gây
ra cho tôi thì tôi bỏ qua! Những gì gọi là giúp đỡ tôi lúc khốn khổ thì tôi trả
ơn ông bằng cách cho ông biết: Hai đứa con tôi đã nên người…" Mẹ không
muốn nói thêm nên ra về.
Vì mẹ không yên tâm lắm về cuộc sống của dì Hường nên đã để lại địa chỉ cho dì
Hường liên lạc khi túng thiếu và cần mẹ giúp đỡ. Theo dì Hường cho biết qua thơ
thì người chồng của dì đã ăn cướp hết tiền sửa nhà (nên nhà cũng chưa sửa được
gì mà tiền thì đã hết). Phần tiền trong nhà bank thì ông không lấy ra được
nhưng đánh đập dì mỗi tháng khi lấy ra tiền lời nhưng không đưa cho ông.
Tóm lại, mẹ cũng không giúp được dì sướng hơn mà làm cho dì còn khổ hơn không
có tiền. Thật là đau khổ. Dì cũng cho mẹ biết: Sau lần mẹ vô thăm chú Tư
trong tù thì ông đã tự tử chứ không đợi ngày bị đưa ra pháp trường. Mẹ không ăn
năn, hối hận gì về việc đó! Biết ông là cha của tụi con, và mẹ nghĩ ông ấy đã
để lại một chút con người cho con cái không quá xấu hổ về người cha - như thế
cũng tốt! Chuyện ông chồng của dì Hường đã đánh cắp địa chỉ của mẹ để đưa
cho bác Hai với thoả thuận gì giữa họ thì mẹ không biết. Mẹ chỉ trình bày hết
sự thật cho con quyết định có bảo lãnh bác Hai sang đây hay không? Cho con hiểu
rõ hết những điều mà bao năm qua mẹ đã không nói! Con thương hay oán trách mẹ
thì mẹ cam chịu khi không thể làm gì hơn được…"
Vậy là bức màn u uất về bản thân tôi đã được vén lên rõ ràng. Xét về mọi mặt…
thì tôi không nên bảo lãnh bác Hai sang đây làm gì! Nhưng lòng riêng tôi cứ
muốn đưa ông sang đây để ông tận mắt thấy được hạnh phúc mà mẹ tôi đang có. Để
ông thấm thía tội ác mà ông đã gieo cho người vô tội thì về sau: Người hiền vẫn
được trời thương, người ác vẫn bị trừng phạt. Tôi muốn ông sống thật lâu để
chết mòn trong bơ vơ và đau khổ ở xứ người, hơn là để ông chết với một cơn say
thuốc phiện quá liều bằng cách gởi tiền về cho ông ăn hút ngập mặt; chết vô
thừa nhận như một kẻ vô lại.
Những thù oán xưa cũ đã cho tôi nghị lực để hoàn thành ý nguyện từ mỗi miếng
giấp khai sanh - xét ra chẳng có giá trị gì! Tờ khai sanh như tờ giấy lộn với
cái mộc đỏ của cấp Phường, là đơn vị hành chánh cấp địa phương, vừa vô nghĩa,
vừa nực cười… Nhưng lòng riêng đã quyết nên tôi không ngại tốn kém. Tôi thực
hiện bằng được một cuộc trả thù xứng đáng cho những gì mẹ con tôi đã chịu đựng
từ mấy mươi năm qua và tới hết đời chúng tôi không chừng!
Tánh tình em tôi có dịu lại từ khi Ơn trên đã sai phái người vợ hiền ngoan của
nó đến giúp nó làm lại cuộc đời. Nhưng tôi biết trong lòng nó chẳng bao giờ có
bình an - nhất là những lúc mẹ tôi đau đớn với nội tạng hư hao vì bị hành hạ
xưa kia… Ngày, vợ chồng tôi ra phi trường đón bác Hai - với danh nghĩa
cha tôi. Tôi thề không khoan nhượng trong cuộc trả thù này. Nhưng bề trên không
muốn cho tôi trở thành một người độc ác. Người đàn ông răng hô, da trắng xanh
đến bệnh hoạn, nói giọng Bắc đặc… thì chắc chắn không phải bác Hai tôi vì gia
đình nội tôi người miền Nam.
Tôi chưng hửng, không biết đối phó ra làm sao trong trường hợp mà mình không
lường trước được. May là chồng tôi tỉnh táo, anh nói chuyện với tôi bằng tiếng
Anh và dùng toàn tiếng lóng vì không biết ông Bắc này có biết tiếng Anh không?
Chồng tôi đã bình tĩnh để suy xét:
- "… Ba em (bác Hai) đã không hơn em tưởng! Ông qua đây làm gì cho em trả
thù? Ông đã nhường chuyến xuất ngoại này cho một tội phạm trong nước hay cán bộ
bị truy nã vì lý do gì đó?... thì anh không cần biết! Bác Hai ôm một đống tiền,
tha hồ ăn hút ở Việt Nam, không sướng hơn sang đây cho em trả thù!
Ông này đủ tiền mua một chuyến xuất ngoại và qua mặt chính quyền thì ông ấy là
tay ghê gớm bên Việt Nam.
Anh nghĩ, ra khỏi phi trường, ông ta sẽ bỏ trốn mình. Chuyện còn lại là chúng
ta đối mặt với luật pháp ở đây là không khai báo khi đón nhận thân nhân giả
mạo…"
- "…. Em hết biết tính sao rồi! Anh tính toán giùm em." Chồng
tôi cho biết: - "Nếu mình tố cáo ông ấy ngay trong phi trường thì mình vô
tội. Ông ấy, không phải người tốt cho mình áy náy hay hối hận gì đâu! Phần bác
Hai của em bên Việt Nam cũng không yên nếu ông này không trót lọt bên đây! Có
thể tay chân ông này sẽ đòi lại tiền bằng máu của bác Hai. Nhưng những người
không đáng giúp này thì rất cần trừng trị…"
Tôi đồng ý với chồng tôi nên anh giả đi vô toilet để gọi cảnh sát. Ong Bắc đúng
như chồng tôi tiên đoán, ông cũng giả đi toilet nhưng trốn chạy! Ong ta là tội
phạm cỡ nào bên Việt Nam thì tôi thật thà không biết!
Chồng tôi đã giúp tôi qua được những rắc rối điên đầu với cảnh sát cho tới khi
họ tóm được thủ phạm của một vụ lừa đảo sở Di Trú Hoa kỳ. Nhiều lần ngồi nhớ
lại chuyện ân oán này. Tôi hiểu biết hơn về lòng mình với những ân oán của con
người. Tôi nghĩ… Hãy để bề trên phán quyết thay ta. Phan
------------------------------------------------------ *
Lời người viết.
Cảm ơn nhân vật "tôi"
trong bài ghi chép của Phan. Cảm ơn bạn đã cho nhiều người suy nghĩ về tình yêu
và hận thù trong những hoàn cảnh tương tự với bạn. Lớn hơn là suy nghĩ về tình
yêu và hận thù trong thời đại chúng ta. Cảm ơn nhân vật "mẹ"
đã đồng ý cho phổ biến trên trang báo về cuộc đời không may nhưng kết thúc khá
có hậu của bà. - Như một thông điệp chia sẻ cùng bạn đọc: Ở hiền gặp lành không
bị ảnh hưởng gì từ văn minh và khoa học kỹ thuật. Con người muôn đời - gieo gió
gặt bão - ở hiền gặp lành.
Chân thành cảm ơn qúy vị
Người ghi chép
Phan
__._,_.___
Posted by: =?UTF-8?B?TkdVWeG7hE4gVsOCTiBUw5