Trích Tạp Chí Cách Mạng Số 72 của Đại Việt Cách Mạng Đảng
Thói
hư tật xấu của người mình!
Trần Văn Giang (Ghi lại và viết thêm 2 mục)
Lời giới thiệu:
Không hiểu cuốn sách “Người Trung Quốc
xấu xí” của Bá Dương (“Bo Yang”) được xuất bản cách đây gần hai chục năm có
liên quan gì đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc hôm nay hay không?
[Nên biết bên Mỹ có cuốn sách nổi tiếng tương tự
là "The ugly American" của WILLIAM J. LEDERER AND EUGENE
BURDICK xuất bản năm 1958 đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất thời đó].
Tuy nhiên, hình như có nhiều liên quan giữa sự
can đảm nhìn nhận ra những yếu kém của chính mình và sức vươn lên mạnh mẽ cho
dân tộc (!)
Ở hoàn cảnh Việt Nam, đã gần một thế kỷ rồi, thế
hệ cha ông của chúng ta cũng đã có rất nhiều người dám vạch thẳng những tính
xấu, những hủ tục của người Việt mình để biết mà sửa đổi (!) Nhưng mà không
thấy có ai chịu nghe??? Để xét cái kết quả (“không khá”) này, cứ việc
nhìn vào hiện tình dân tộc Việt ở trong nước lẫn ở hải ngọai; cứ nhìn vào chính
bản thân mình, đồng bào và các tổ chức / hội đoàn chung quanh mình chứ chẳng
cần tìm đâu xa! Đến lúc này, thế hệ chúng ta, giữa những thay đổi lớn lao
đang và vừa mới xẩy đến cho dân tộc chúng ta, giữa khát vọng phục hưng dân tộc…
đây là một cơ hội thật tốt để cùng nhau đọc lại những nhận định mà các vị tiền
bối đã viết về nhũng cái xấu xa của người mình và rồi tự đặt câu hỏi cho bản
thân và cộng đồng của mình phải làm gì để cho dân tộc mình khá hơn?
“Có lẽ ta đâu mãi thế này …”
(Nguyễn Công Trứ - “Quân tử cố cùng”)
TVG
*
|
|
|
1- Chơi bời lãng phí
Trần Chánh Chiếu
(“Lục tỉnh tân văn,” năm 1907)
Theo tục ông bà để lại, hễ mãn một năm thì ăn
Tết một lần ấy cũng là phải. Sao tôi thấy hễ tới ngày ấy, ai ai cũng đốt pháo,
dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, đánh đáo đánh quần tới bảy bữa, rồi nào
me, nào lú (1), bài cào, xóc đĩa, tổ tôm đủ thứ. Thậm chí có ông ăn Tết rồi thì
bán nhà bán cửa, nợ réo trước nợ réo sau. Đã “bần nhược” (2) lại “đãi
đọa” (3) vậy thì biết chừng nào mà giàu có như người ta đặng?
——————
(1) Theo Huỳnh Tịnh Của, “Đánh me” là "gây
ăn thua trong cuộc chơi tiền,” còn “Lú” là "cuộc chơi con nít dùng tiền mà
đánh đố.”
(2) Nghèo đói.
(3) Biếng nhác.
2- Ở đâu cũng thấy học đòi làm dáng
Hoa Bằng
(“Hiếu thượng,” Tri tân, năm 1943)
Cái hiếu thượng (1) của số đông người mình đã lộ
rõ ở từ ngôn ngữ đến cử chỉ, từ hành vi trong gia đình đến động tác ngoài xã
hội. Người ta chơi câu đối? Phần đông không phải vì thích chữ tốt
yêu văn hay nhưng vì muốn sĩ diện ở mấy cái lạc khoản (2) có chức tước. Người
ta in danh thiếp? Không phải vì cốt thông tính danh tỏ địa chỉ, song hình
như chỉ cốt trưng những chức sắc tước trật và phẩm hàm. Người ta đăng cáo
phó? Có lẽ ít vì cốt để báo tang, nhưng phần nhiều cốt để lợi dụng cái
chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh phận của con cháu.
Cái bệnh hiếu thượng ấy truyền nhiễm đến cả nữ
giới làm cho lắm người cũng mắc lây. Một dạo ở xã hội ta nổi lên cái
phong trào “phi cao đẳng bất thành phu phụ.” Vì thế trong cuộc hôn nhân
đã xảy ra lắm chuyện buồn cười. Hoặc mượn văn bằng của người khác để đưa
nhà gái sát hạch lúc cầu hôn, hoặc giả làm nhà tòng sự (3) suốt mấy tháng để
nhà gái nếu có dò la vẫn thấy sớm vác ô đi tối vác về...
——————
(1) Thích hướng lên trên, tức hiếu danh, bon
chen...
(2) Tự đề tên họ chức tước ở một góc câu đối.
(3) Làm công chức.
3- Học vấn một đằng, công nghệ một nẻo
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm 1915)
Tính người mình không biết quý trọng công nghệ,
người làm nghề tựa hồ như bất đắc dĩ không học được làm quan chẳng lẽ ngồi
khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề thôi. Mà làm nghề thì
không cần gì tinh xảo chỉ cốt bán rẻ tiền được nhiều người mua là hơn. Công
nghệ suy nhược lại còn là vì người có học thức không chịu làm, người chịu làm
thì lại là người không có học thức, chẳng qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ
không nghĩ được cách thức nào mới.
Ít năm nay, có trường bách công dạy dỗ, có lắm
lời tân học cổ động thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều và cũng đã có người sinh
được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn bán. Song cái tính
khinh đường công nghệ thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu
có song vẫn tự coi mình là đê tiện, phải mượn cái phẩm ông Hàn ông Bá mới là vẻ
vang.
4- Khéo tay mà trí không khôn
Phạm Quỳnh
(“Pháp du hành trình nhật ký,” năm 1922)
Xét ra ở nước Nam ta mới có các nghề mỹ nghệ là
thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có
gì sánh được với các nước, nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa có kỷ luật, chưa
có thể thống gì, chưa phân rõ các kiểu cách, các thời đại, các lề lối, các
phương pháp, thợ thuyền phần nhiều là những người vô học, phi quen tay phóng
lại lối cũ, thời bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay có khéo mà trí
không khôn, không biết biến báo mà vẫn giữ được tinh thần cốt cách cũ , tồn cổ
mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mời, nói tóm lại là không có trí sáng khởi
(1) khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề một cái thể thức trang nghiêm mà đặc
biệt. Cho nên các nhà nghề ta không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng
phải tập cho có cái trí khôn nữa.
Nay muốn gây lấy cái trí khôn ngoan trong mỹ
nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức, thời không gì bằng lập ra một nhà bảo
tàng mỹ nghệ, sưu tập lấy những đồ đẹp trong nước, chia ra từng thời đại, bày
cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học cho biết nghề
mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy mà giữ lấy
cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biển đổi dần
——————
(1) Bắt đầu dựng lên, ngày nay hay viết là “sáng
tạo.”
(2) Quan hệ của những cái liên tiếp nhau. Cũng
nghĩa như hệ thống.
(3) Duyên (có khi đọc diên) ở đây là thủ cựu, cách
là đổi mới. “Duyên cách”: Tình hình trong một khu vực nào đó cái cũ thế nào,
cái mới ra sao.
5- Thiếu tinh thần cầu học
Nguyễn Văn Tố
(theo Lê Thanh, “Cuộc phỏng vấn các nhà văn,”
năm 1943)
Phải nhận rằng người mình không ham học mấy.
Thí dụ như người đỗ bằng tốt nghiệp, có công ăn việc làm thì thôi, không chịu
học thêm. Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho bấy nhiêu là để
cho mình tạm đủ sức mà học lấy, khi ở trường ra mắt là chỗ khởi hành, mình lại
tưởng đến nơi rồi. Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên anh em thanh niên học
rõ nhiều, vừa đọc văn Tây, vừa học lại tiếng ta, vì phần đông người ta mà viết
văn ta còn sai nhiều.
6- Mô phỏng đã thành thói quen
Hoa Bằng
(“Phải có cái gì để làm đặc tính của người mình
chứ.” Tri tân, năm 1941)
Hết thảy mọi phương diện, chẳng hạn, từ văn học
tới nghệ thuật - chúng ta đều ăn của người, nhưng đã biết hóa để làm của riêng
của mình chưa?
Bình tĩnh mà xét, từ hình thức đến tinh thần ta
nay cũng có một đôi phần tiến. Nhưng cái óc mô phỏng hay còn rõ sờ sờ
trung hết thảy mọi mặt.
"Chúng ta phải làm con cháu của cổ nhân chứ
không nên làm nô lệ của cổ nhân.” Đối với cổ nhân ta nay còn phải dè dặt
thay, huống chi đối với gió bốn phương, há lại nên bạ chiều nào che chiều ấy?!
7- Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não
Nguyễn Văn Huyên
(“Văn minh Việt Nam,” năm 1944)
Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh sắc thiên nhiên,
tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt của các nhóm người, sự phân chia
nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiển người Việt thiên về u buồn
và sầu não.
Cá nhân bị giam hãm một cách chặt chẽ và giả tạo
trong những khuôn khổ cứng ngắc như gia đình và làng mạc đến nỗi họ không quan
niệm nổi họ có khả năng hành động một mình. Vì thế khi môi trường chung
quanh không còn giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông thường mà lễ giáo quy
định, người ta dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến mọi nỗ lực
trí tuệ tiêu tán.
Nền văn hóa vốn thấm nhuần lòng từ bi Phật giáo
cũng góp thêm phần dồn nén các dục vọng cá nhân. Rồi quan niệm siêu hình của
đạo Lão khiển nhiều tác giả thiên về một cái nhìn bi quan sâu sắc và một sự mỉa
mai chua chát. Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu dạ lữ hoài ngâm cũng
như các tác phẩm của Trần Tế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu… chỉ là những tiếng
vọng của nỗi đau nhân loại. Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn thấy cùng
những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản ảnh tất cả
sự dồn nén tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn thuở của một
kiếp người bấp bênh, một cuộc sống chật hẹp.
8- Một nền nghệ thuật thiếu tư tưởng
Hoài Thanh
(“Có một nền văn hóa Việt Nam,” năm 1946)
Trong lịch sử ta biết bao thế hệ nhà nho kế tiếp
nhau mài miệt trong sách vở của thánh hiền mà nào có sáng tác được gì đâu.
Ta không có một nền quốc học nếu quốc học là học
thuật riêng của nước. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử ta cơ hồ không có
sáng tác gì về học thuật. Ấy cũng vì ta kém óc trừu tượng khái quát, điều
kiện căn bản để phát minh về tư tưởng.
Người phương Tây rất ngạc nhiên thấy ta hôm qua
chỉ biết có “Tứ thư Ngũ kinh” mà hôm nay bỗng tin theo những thuyết rất mới mẻ,
rất cấp tiến của khoa học hiện kim. Họ không biết rằng học thuật tư tưởng không
phải là những căn bản tinh thần của dân tộc ta. Tư tưởng nào có lợi cho
đời sống của dân tộc thì ta theo, nhưng một khi tình thế đổi thay, tư tưởng ấy
trở nên có hại cho đời sống chung, ta sẽ trút bỏ dễ dàng không tiếc hối.
9- Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm 1915)
Văn chương gọt từng tiếng khác nào như người gọt
củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn, cài giò kia hãm cho thấp trông thì hoa
nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động vào đã gãy, để chưa mấy ngày đã úa. Cốt lấy
cái khéo nhỏ nhặt làm mất đi cái khí mạnh, gọi là "nhu nhược chi văn
chương!"
10- Xu thế trang sức quá nặng
Đào Duy Anh
(“Việt Nam văn hóa sử cương,” năm 1938)
Nghệ thuật Việt Nam thường bị bó buộc trong lề
lối cổ. Phải tôn trọng những phép tắc xưa, cho nên nhà nghệ tài giỏi mấy
cũng chỉ phỏng lại những hình thức có sẵn cho khéo, chứ không được theo tự ý mà
sáng kiến những cách thức mới.
Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là người biểu
diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không phải người quan sát và biểu hiện tự
nhiên mà chỉ là người giỗi bắt chước những kiểu mẫu sẵn. Có muốn hơn
người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế, thật
dụng công, chỉ cốt xếp đặt các bộ phận cho xinh xắn lộng lẫy.
Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Việt Nam là
tính trang sức. Nó thiếu hẳn hoạt khí, vì cách biển hóa tuy lưu động mà ở
trong phạm vi hình thức, cách phối hợp tuy phiền phức mà ở trong phạm vi thái
độ chế kiểu.
11- Lối tính toán thiển cận
Lương Dũ Thúc
(“Nông cổ mím đàm,” năm 1901)
Cách đại thương (1) là có gan làm giàu. Coi
người ta phí (2) là bao nhiêu tiền bạc mà không sợ mất, là vì người ta tiên
liệu đại lợi, kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho thấy trước
mắt có lợi mới chịu làm. Nếu đem đại thương mà sánh với bán hàng bông (3)
thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn
mua chiều sáng thấy, chớ như đại thương thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là
mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít, cái lợi mà lâu
thấy thì thật lớn lắm.
Người nước nào đều có ngay gian xấu tốt, họ
không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì quen, còn người mình
không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.
——————
(1) Buôn bán lớn.
(2) Bỏ tiền của ra sử dụng.
(3) Bán hoa quả bông trái.
12- Mê tín gây nhiều lãng phí
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm 1915)
Lễ kỳ (1) an chủ ý là trừ khử ma quỷ cho dân xã
bình an. Ta lại tin theo Phật thuyết (2), bày ra vàng mã, nào mũ Ngọc
Hoàng, nào tượng Minh Vương, nào âm quan quỷ tốt, chiến khí binh tiền được việc
cũng cam, nhưng nào có được việc gì đâu, rút lại chỉ tại ta tin nhảm.
——————
(1) Kỳ đây là cầu.
(2) Theo tôi (người viết / Trần Văn Giang)
Cụ Phan Kế Bính có lẽ hiểu lầm (!?) Phật thuyết của Phật giáo về vấn đề đốt
vàng mã, mũ Ngọc Hoàng v..v... Đốt vàng mã không phải là sản phẩm của Phật giáo
mà là sản phẩm của mấy ông nhà Nho Trung Hoa truyền sang Việt Nam dưới thời
Việt Nam bị đô hộ. Một số các thầy "cúng," những người nầy không phải
là các Sư Tăng đạo Phật, vẫn còn dùng cái hủ tục mê tín dị đoan này vì nhiều
người Việt nẫn còn tin!
13- Không ai chuyên nhất việc gì
Tân Việt (*)
(“Mỗi người một việc” - Đông Pháp thời báo, năm
1928)
Các nước phú cường, người nào làm việc gì.
Nhà khoa học lo cả đời phát minh, người làm giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước
ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc, trong khi làm bầu gánh hát
bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở một cửa hàng tạp
hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm chính trị.
Người ngoại quốc thấy vậy, cho rằng chúng ta có
lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất, không có tính nhẫn
nại.
——————
(*) Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi ký
chung trên Đông Pháp thời báo 1928 (theo Lại Nguyên Ân). Nghe giọng (văn phong)
thì người viết ở đây có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?)
14- Dễ dãi trong tiếp nhận nên hỏng việc
Phạm Quỳnh
(“Giải nghĩa đồng hóa,” Nam Phong, năm 1931)
Người An Nam vốn có cái thiên tính dễ đồng hóa
(1), dễ am hiểu, dễ thu nạp lấy những cái khác lạ với mình, dễ đem những điều
hay điều dở của người mà hóa (2) làm của mình, nhưng cái tài đồng hóa đó thường
thường chỉ là cái khóe tinh (3), biết xem xét và bắt chước của người, chỉ phảng
phất ở bề ngoài chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để (4) chỗ tinh túy.
Tỷ như thợ An Nam thì phóng chép tài lắm, những
hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách lạ đến đâu, họ cũng bắt chước được như
hệt cả.
Học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất mau, nhưng
chưa chắc đã hiểu thấu đã hóa được những cái người ta dạy mình.
Một người trí não khô cạn hay là vì không được
tiêm nhiễm những cái tinh hoa của nòi giống mà thành ra khó cạn đi - một người
như thế không thể không thể nào hiểu thấu được cái tinh thần của Tây phương. Có
đồng hóa chỉ đồng hóa được cái bề ngoài, chỉ bắt chước được cái hình thức.
Cái cách đồng hóa dễ dàng thô thiển đó thiết
tưởng không phải là cái tính tốt, mà có thể cho là cái tính xấu được. Chưa
chắc cái học tiếp thu được dễ dàng như vậy đã làm cho óc được khôn ra, người
được chín ra chút nào.
Đồng hóa một cách cấp tốc, một cách vô độ há
chẳng phải là hại hơn lợi?
——————
(1) Tiếp nhận.
(2) Biến cải.
(3) Ngón nghề, mánh lới.
(4) Gốc rễ, cơ bản.
15- Quá tin ở những điều viển vông
Phan Bội Châu
(“Cao đẳng quốc dân,” năm 1928)
Mê tín sinh ra những việc nực cười. Ngày giờ nào
cũng là trời bầy định mà bảo rằng có ngày dữ ngày lành, núi sông nào cũng là
đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu, vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng
có ông thần táo, vì che mưa gió mới có nhà mà bảo rằng có ông thần nhà, cho đến
thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc gì cũng trông mong
vào thần, kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát nhà tan, của mòn
người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy nhiêu...
16- Tầm thường hóa những giáo lý sâu xa
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm 1915)
Phật giáo là một tôn giáo riêng, cũng có lý
tưởng. Mà lời thiện ác báo ứng cũng đủ khuyên răn người. Nhưng hiềm ta không
cứu (1) đến nguyên lý mà chỉ tin những lời trần hủ (2), sùng tín cái vỏ xác
ngoài còn cái lý cao xa của người ta, không mấy người nghĩ đến. Đã không
ích gì, mà làm hại của cải cũng chỉ bởi lòng tin sai vậy.
——————
(1) Xét đoán, tra hỏi.
(2) Cũ kỹ, không hợp thời.
17- Vớ được sách nào theo sách ấy
Nguyễn Văn Vĩnh
(“Hương Sơn hành trình,” Đông Dương Tạp chí, năm
1914)
Có kẻ sáng ngày ra vào phủ thờ bà cô, ông mãnh
nào, chiều lại vào làm tôi con ông Trần Hưng Đạo là thần hay trị những tà ma,
những ông hoàng bà chúa. Đến sáng hôm sau cũng người ấy có thể chay lòng thực
dạ mà nghe giảng những lời đạo đức của ông Khổng, ông này không có dạy phải tin
thờ ông thần ông thánh nào cả hoặc là đi lễ Phật là một đạo trái hẳn với mọi ma
thiêng thần dữ.
Nói rút lại, thì người An Nam ta tin bậy hình
như theo lý tưởng này: Dẫu không có mà tin cũng chẳng hề chi, ngộ có mà không
tin, có lẽ hại đến mình. Cho nên cứ tin liều đi.
Người ta theo lý tưởng ấy cho nên sinh ra những
đạo không có tôn chỉ, quy tắc pháp ở trong tay mấy anh sư mô, thầy cúng, ngày
nay làm theo sách này, ngày mai bịa ra sách khác, có ngược nhau cũng chẳng ai
bảo sao. Mà người tin, người tộc trưởng, người làm lễ tang lễ hỷ, cũng cứ tùy
bện mà theo, vớ được sách nào theo sách ấy, tùy cách lịch sự tùy gia tư (1) mà theo
lễ này hay lễ kia, chứ không theo tôn chỉ nào cả.
Còn như sự đi chùa Hương và các chùa chiền khác,
nhiều người cho như một cái tật của các cụ già và của người đàn bà. Cũng có kẻ
bảo là việc hay, cũng có người cho là việc dở. Hay là vì các bà các cô đi lễ
bái như thể nó cũng thêm được cái dáng đạo đức, cái nếp nhà ra một chút. Dở
là vì các bà ganh nhau tốn kém và mấy ông sư ông vả lại cũng chưa quên hẳn sự
đời.
——————
(1) Của cải, tài sản trong gia đình.
18- Đời sống tôn giáo hời hợt
Nguyễn Văn Huyên
(“Hương Sơn hành trình,” Đông Dương Tạp chí, năm
1914)
Mặc dù sự có mặt của vô số ma quỷ và thần linh,
người Việt vẫn có một đời sống tôn giáo không lấy gì làm sâu sắc cho lắm.
Người ta chỉ có những niềm tin mơ hồ về linh hồn, về sự sống ở thế giới bên
kia, về các thần. Một số lớn thần được định tính không rõ ràng và thường thường
là phi nhân cách. Không có sự giáo dục tôn giáo cụ thể, cũng như không có sự
tuyên truyền tôn giáo có tổ chức.
Mọi người chỉ cầu tới tôn giáo do nhu cầu vật chất.
Ở một số trường hợp, người ta tìm kiếm một kết quả trước mắt như khỏi bệnh, có con,
có tiền tài. Người ta cũng cầu thần để cho đời sống một người đã khuất ở
thế giới bên kia được dễ dàng, để thi đỗ, để nhanh chóng trong một việc, để đi
xa một chuyển được bình yên... Thường thường trong ý thức dân gian, tôn giáo
được quy lại chỉ còn là một lô thực hành thờ cúng đã trở thành bắt buộc. Lễ
nghi là tất cả, nó đôi khi bao gồm những nghi thức rắc rối hoặc núp dưới một
hình thức long trọng có tính cách bề ngoài.
19- Từ ảo tưởng tới thoái hoá
Phan Khôi
(Báo Thần chung, năm 1929)
Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức tân dân (1)
làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi
còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào hai chữ tân dân đó mà ôm những hy
vọng hăo huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ kinh bang
tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công nghiệp (2) ghi
vào thanh sử (3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà không làm ra
trò chi, thì trở nên thất vọng, thiếu điều ngă ngửa người ra, tay chân xuôi lơ
và bủn rủn.
Còn người khác đắc thời, thi đậu ra làm quan thì
lại ỉ rằng bấy lâu mình đă có cái công phu minh đức, nghĩa là mình đă học giỏi
rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở hành, chớ có lo chi.
Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà làm
chẳng chạy bốn phép toán, thượng thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái lưng
con ngựa ra sao cái cò khẩu súng là gì. Mà rồi ông quan nào cũng như thượng đế
cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng (!)
——————
(1) Trích từ câu đầu tiên của sách Đại học, có
nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
(2) Cũng tức là sự nghiệp.
(3) Thanh sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ tre
để chép sử, nên lịch sử thường được gọi là thanh sử.
20- Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học
trò
Phạm Quỳnh
(“Bàn về quốc học,” Nam phong, 1931)
Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước
ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo
khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học
trò!
Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay
và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu,
ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi… chưa mấy ai là rơ rệt có cái
tư cách – đừng nói đến tư cách nữa, hăy nói có cái hy vọng mà thôi – muốn độc
lập trong cơi tư tưởng cả.
Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ làm
nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá
không đủ cho ta cái óc tự lập.
——————
(1) Suốt đời.
21- Không có can đảm là mình
Nguyễn Duy Thanh
(“Muốn cho tiếng An Nam giàu,” báo Phụ nữ tân
văn, 1929)
Ông Dorgelès trong quyển “Con đường cái quan” có
nói đến thói hay bắt chước của người mình. Đại khái ông nói rằng: “Ngày xưa
người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam đều nhất nhất theo Tàu cả. Nay
người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm năm, mà nhà cửa đă theo Tây thời
rất dễ dàng, nói đến tiếng An Nam thời khô khan, hình như phải dịch tiếng mình
ra tiếng nước ngoài… Khoa học có nói rằng giống thằn lằn hễ bám vào cây nào thì
lâu dần sẽ giống da cây ấy. Ở bên An Nam này thời không thế, thằn lằn không đổi
màu da mà chính cây đổi màu da để lấy màu da thằn lằn.”
Câu nói đau đớn thay mà xét người ta nói cũng
phải. …Người viết văn phải có can đảm mà dịch những chữ nước ngoài ra. Mở đầu
có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được. Cụ Nguyễn Du không can đảm sao
dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ thiết diện ra chữ mặt sắt (1)… Mà
cũng lạ thay cho người mình không suy xét kỹ: Người Tàu nói chữ vân cẩu tang
thương có khác gì chữ mây chó chữ bể dâu không. Ấy thế mà giá mình nói “Bức
tranh mây chó vẽ người bể dâu” (2) tất phần nhiều người cho là mách qué! Người
Tàu trước kia làm gì có những tiếng cộng hòa, cách mạng, cá nhân, vật lý học,
kỷ hà học (3)… Vì sốt sắng làm cho tiếng nước nhà giàu thêm lên, nên họ không
ngại khó, rồi mới đặt ra được cái tiếng ấy. Người mình thì không thế. Muốn dịch
một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng nước nhà mà không dịch nổi, thì cứ việc mở
ngay tự vị (4) Tàu ra, trong ấy đă sẵn sàng cả rồi. Dù người Tàu có dịch sai
chăng nữa cũng mặc cứ cắm đầu cắm cổ mà chép, ai biết đến đó mà lo.
——————
(1) Hai câu nguyên văn trong Truyện Kiều: “Trải
qua một cuộc bể dâu” và “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vi tính.”
(2) Một câu trong “Cung oán ngâm khúc.” “Bức tranh
vân cẩu vẽ người tang thương.”
(3) Tức hình học.
(4) Tức từ điển.
22- Thạo sử người hơn sử mình
Hoàng Cao Khải
(“Việt sử yếu,” 1914)
Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không
biết đất đai của nước ta và ṇi giống dân ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao
Tổ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ
chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành,
Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót
vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu
tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ – phát nguyên từ nơi nào. Ưa chuộng phong tục nước
ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước
người Trung Hoa cả. Lại c̣òn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đă không chịu
học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp
cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2)…
chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh
hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí năo của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta
không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sứ (3) mà thôi.
——————
(1) Các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới
xin…
(2) Hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn.
(3) Tức lịch sử Trung Hoa.
23- Đầu óc vọng ngoại và hay kỳ thị (**)
Luôn luôn có đầu óc vọng ngoại, nghĩa là tôn
sùng hàng (ngoại) hóa và người ngoại quốc – những gì đến từ bên ngoài Việt Nam
đều tốt đẹp hơn ở nội địa. Có lẽ vì dân trí mình còn thấp kém lại bị ngoại quốc
đô hộ quá lâu - trên ngàn năm. Đã đành là đối với người ngoại quốc thì e sợ,
nhát nhúa, nhưng đối với nhau thì lại thích hống hách và kỳ thị.
Người mình có đủ mọi kiểu kỳ thị: Tôn giáo (Phật
giáo, Công giáo, Hoà hảo, Cao đài, Tin lành v.v..); Địa phương (nơi, miền);
Sinh trưởng (Nam, Trung, Bắc); Sắc dân (Kinh, Thượng, Cao miên, Chàm, Trung
hoa…); Bằng cấp và Xuất xứ được đào tạo giáo dục (truờng Việt, trường Mỹ,
truờng Tây, trường Tầu, trường Liên xô…)
Sang sống tị nạn ở hải ngoại, sau khi ăn nên làm
ra, cũng thấy bắt đầu dở mòi kỳ thị người thiểu số, da mầu bản xứ (da đen và da
nâu / Mễ) nhiều khi tính kỳ thị của người mình còn hơn cả người Da trắng chính
gốc bản địa nữa (!)
24- Vô kỷ luật (**)
Bất cứ ở đâu cũng có thể lấy thịt đè người, to
tiếng, chen lấn vô trật tự, khinh thường người khác có vẻ nhỏ bé, nhã nhặn hơn mặc
dù chưa (hoặc chẳng cần) hiểu rõ họ là ai? Ở những nơi như chợ búa, hàng quán…
Những nơi cần phải được xếp hàng theo thứ tự, tuần tự thì phe ta cứ tự tiện bất
chấp luật lệ, lẽ phải tự nhiên (“common senses”), cứ tranh dành thế nào để rồi
chen lấn, xô đẩy xếp thành một hàng ngang thôi mới vừa ý – hàng ngang có nghĩa
rằng mọi người đều là số 1, không ai chịu thua kém ai? Thiệt tình, dân
mình thiếu hẳn cái “văn hóa xếp hàng!” – Người nào hung bạo nhất, to tiếng nhất
thì người đó cũng tự cho mình có cái quyền phải được phục vụ trước (?) Hay
thật!
Sau biến cố tháng 4 năm 1975, người Việt Nam di
tản đi tị nạn cộng sản khắp thế giới, sau khi đã được định cư ở những nước văn
minh Âu Mỹ thì Cộng Đồng Việt Nam bị những sắc dân bản xứ và thiểu số khác coi
thường chỉ vì cái "thói quen cố hữu 4000 năm chen lấn" này.
Vấn đề “vô kỷ luật,” thiếu lịch sự tối thiểu còn
được thấy ngay trong các dịp đi dự tiệc cưới, họp mặt, lễ lạc, giờ hẹn phòng
mạch bác sĩ… Cứ tự nhiên đi trễ cả tiếng đồng hồ sau giờ ấn định làm các
quan khách, các thân hữu, người phục vụ phải chờ đợi trông ngóng mệt mỏi.
Sự trễ nãi lạc hậu này đã trở thành một hủ tục gắn liền với người Việt Nam.
Đến nỗi tại hải ngoại có câu vè châm biếm:
"Không ăn đậu (“bean”) không phải Mễ,
Không đi trễ không phải Việt Nam…"
________
Chú thích:
(**) TVG viết thêm 2 tiểu mục số 23 và 24.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment