CHUYỆN
ÔNG BÀN CỔ
Thương
nhớ em trai ruột thân yêu An Phong Nguyễn Vân Diễn, hằng ngày tôi tha thiết,
âu yếm cầu nguyện cho em với trái tim đẩm lệ. Hôm nay gặp lại bài viết
quá hay của em về chuyện ÔNG BÀN CỔ trên trang mạng củ VIETNAM-MUSEUM của
tôi, lấy lại, chuẩn chi tử tế, tôn trọng nguyên văn, và xin đăng gởi đến anh
chi em trên DĐ và Facebook. Tôi dám xin những người CG đọc bài này, một
HOA HỒNG ĐẸP cầu nguyện cho em An Phong Nguyễn
Văn Diễn. Chị Trưng Triệu Nguyễn Thị Thanh thương nhớ một em trai, một
người bạn, một tri âm, tri kỹ, hẹn gặp nhau trên Nước Trời.
|
KHẢO LUẬN VĂN HÓA TIỀN SỬ VIỆT
NAM:
CHÂN
THIÊN MỸ TRONG CHUYỆN ÔNG BÀN CỔ
An Phong Nguyễn Văn Diễn 1980
I.- NGUỒN GỐC CHUYỆN ÔNG BÀN CỔ
Chuyện Ông BÀN CỔ còn gọi là
BÀN VŨ hay BÀN HỒ hay BÀNH TỔ xưa nay ai cũng nói là của Tàu, riết rồi thành nếp,
hễ ai nói khác là sai. Sự thực là của người Dao* ở Quảng Tây đã được Từ Chỉnh sao
chép (quá trể) vào khoảng năm 225/SCN và ông nói rằng chuyện này đã được truyền
tụng lâu đời trong xã hội người Dao.
Chúng ta đã biết, từ thời Nhà
Hán trở về trước, đất Quảng Đông và Quảng Tây (Lưỡng Quảng còn gọi là Lưỡng Việt)
lên tới Động Đình Hồ là đất của người Bách Việt. Người Dao là một dân tộc thuộc
chủng Bách Việt mà người Trung Hoa cổ gọi chung là Man di, Nam man...
* Người Dao là một dân tộc khá
đông dân, ngày nay họ sống rải rác từ các tỉnh phía Nam nước Tàu, suốt dọc biên
giới Hoa Việt, vùng thượng du Bắc Việt xuống tới các tỉnh phía Bắc của miền
Trung Việt Nam. Đời sống và tổ chức xã hội của họ gần giống người Mường. Những
năm 1961- 63, khi còn làm phụ tá quản đốc các đồn điền chính phủ ở Banmêthuột,
Darlac, Cao nguyên Trung phần, người viết có nhận một số người Dao, Mường,
Mán... di cư từ Thanh Hóa, Nghệ An vào làm việc cho đồn điền. Họ nói tiếng Việt
với nhiều thổ ngữ rất khó nghe.
Chính người Trung Hoa cổ khi chọn
chuyện này làm thời điểm khai thiên lập địa và khởi nguyên của con người, cũng
đã chủ tâm đặt trước nhiều chuyện cổ khác… cho đến khi vua Hoàng Đế (Hiên Viên)
lập quốc là năm 2.704/TCN. Chẳng riêng gì chuyện BÀN CỔ, những chuyện khác
như NỮ OA, PHỤC HI... đều phản ảnh tư tưởng nông nghiệp xuất phát từ các dân tộc
ở miền Nam Trường Giang đã cho chúng ta một giải đáp khá rõ rang về nguồn gốc của
chúng. Toàn bản văn cổ chuyện Ông BÀN CỔ được viết thành từng câu 4 chữ
như sau:
Hỗn mang chi sơ
Vị phân Thiên Địa
Bàng cổ thủ xuất
Thủy phân âm dương
Thiên khai ư Tý
Địa tịch ư Sửu
Nhân sinh ư Dần ...
Bản dịch:
Thái hoang ban sơ
Trời đất chưa phân
Bàng Cổ ra tay
Trước phân âm dương
Khai Trời giờ Chuột
Dựng Đất giờ Trâu
Sinh Nguời giờ Cọp *…
* Tý, Sửu, Dần là 3 con thú đầu
trong 12 con thú để tính thời gian của văn hóa BÁCH VIỆT từ thời đại PHỤC HI.
Sách nói mỗi ngày Ông Bàn Cổ biến
đổi chín lần, mỗi lần cao thêm 10 thước. Khi Ông lớn lên bao nhiêu thì Đất dầy
thêm bấy nhiêu, Trời cao thêm bấy nhiêu. Ông BÀN CỔ sống tới 18.000 năm nên Đất
cực dầy, Trời cực cao, còn thân hình Ông thì cực kỳ to lớn. Khi Ông khóc, nước
mắt chảy ra làm thành hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử. Hơi thở của Ông là
gió và khi Ông liếc mắt nhìn đây đó thì tạo ra sấm chớp. Lúc Ông vui tươi khỏe
mạnh thì trời đất êm đềm, khí hậu tốt đẹp; lúc Ông buồn, đau ốm thì mây mù phủ
kín, trời đất ảm đạm, lạnh giá; lúc Ông giận dữ, thì mưa gió, bão bùng, sấm
sét, lụt lội tràn ngập khắp nơi. Đầu đội Trời, chân đạp Đất, Ông sống an nhiên
tự tại và xữ dụng thiên nhiên để làm cho đời sống của Ông mỗi ngày một thêm tốt
đẹp. Khi Ông chết, xác Ông rã ra từng mảnh làm thành những vùng đất núi lớn
trong thiên hạ. Máu, mỡ chảy ra thành biển cả, hồ, ao. Hai con mắt trở thành mặt
trăng và mặt trời. Lông, tóc đâm rể xuống đất mọc thành cây cối.
Những loài sâu bọ sống trên
thân xác Ông trở thành loài người.
II.- TƯ TƯỞNG ẨN DẤU TRONG CHUYỆN
ÔNG BÀN CỔ
Câu chuyện thoạt nghe có vẻ
hoang đường, phóng đại đến độ hài hước, tức cười. Tuy nhiên nếu chịu khó suy
nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng, tổ tiên người Dao chắc chắn không truyền
tụng một câu chuyện hài hước cho vui. Người Trung Hoa cổ cũng không ngu dại gì
khi vay mượn một chuyện tiếu lâm của ‘Man di’ để tôn lên thành ông tổ của họ!
Bởi đó mà người thời xưa đã quan tâm sâu xa đến chuyện này. Họ quan niệm
rằng chuyện cổ, là những thông điệp quan trọng của người xưa, trong đó mang nhiều
ẩn dụ mà người đời sau phải gia tâm nghiên cứu để thấy được cái giá trị của nó.
Giáo sư triết gia LM Lương Kim
Định trong sách Nhân Chủ đã nói về cái thông điệp lý thú đó, ông xác quyết:
“Chuyện Ông BÀN CỔ là khởi nguyên của toàn bộ triết học Đông Á mà đỉnh cao là mẫu
người Nhân chủ, Quân tử cũng đã xuất phát từ đó.” Có người đặt nghi vấn,
con người làm sao lại có thể góp phần vào việc kiến tạo vũ trụ, thiên nhiên như
mẫu chuyện viết về BÀN CỔ, để xưng là Nhân chủ? Vô lý và khoa ngôn chăng?
Thưa, trước hết chúng ta không
lấy con mắt khoa học kỹ thuật để nhìn về chuyện Ông Bàn Cổ mà hãy nhìn đấy là một
ẩn dụ mang tính chất triết học thì câu chuyện sẽ trở nên sáng sủa và đơn giản đến
độ một trẻ nhỏ cũng cảm nhận dễ dàng. Khởi thủy BÀN CỔ không kiến tạo vũ
trụ từ không đến có, vì trước BÀN CỔ đã có trời, đất hoang sơ, mà theo nghĩa
con người nắm phần xếp đặt, cải sửa và xử dụng thiên nhiên theo ý mình. Chúng
ta có thể nói, nhờ có Người mà thiên nhiên, vũ trụ được biết tới, được đặt tên
và được xử dụng. Nếu không có Người, vũ trụ
chỉ là khối vật chất vô danh,
có cũng như không.
Trang Tử diễn đạt ý trên bằng câu:
“Thiên Địa dữ ngã tịnh sinh”
(Trời, Đất cùng với Ta sinh
ra).
Khi chưa có Người tức là chưa
có nhận xét thì tất cả là thái hoang. Đâu có tên Hồng Hà, Hương Giang, Cửu
long...; Đâu có tên Kim Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh... Chỉ sau khi con Người sinh
ra, thiên nhiên, vũ trụ mới được biết tới, được đặt tên, xữ dụng và cải sửa dần
dần cùng với sự hiểu biết và bàn tay của Người mà thôi.
Để sự diễn đạt được cụ thể hơn,
xin đưa một tỉ dụ: Anh Y lúc chưa sinh ra thì vũ trụ chưa có đối với riêng anh.
Khi Anh Y mới sinh thì vũ trụ của anh thật là nhỏ: chiếc vú của mẹ, vòng tay của
cha, là tiếng ru ạ ời, là sáng, là tối... Lớn lên một tí, vũ trụ của anh Y là
khuôn mặt của các anh, các chị, là ngôi nhà thân yêu, là tiếng nói của mỗi người
thân trong gia đình... Cứ thế, anh Y lớn lên bao nhiêu anh, vũ trụ quanh anh
càng lớn lên, rộng ra, dày đặc bấy nhiêu... Anh là thầy giáo thì vũ trụ của anh
trong phạm trù thầy giáo với học sinh, trường học, tài liệu, bài vở, đồng nghiệp,
kỷ luật, tác phong đạo đức… anh là nông dân thì vũ trụ của anh trong phạm trù
nhà nông với đất đai, mùa màng, mưa nắng, thủy triều lên xuống, con trâu, cái
cày, hạt giống cao hơn nữa, anh là nhà thiên văn thì vũ trụ của anh trong phạm
trù mặt trăng, mặt trời, các tinh tú với biết bao hệ lụy phức tạp của nó...
Anh Y xử dụng và cải sửa vũ trụ cho thích hợp với cuộc sống của anh và của xã hội.
Anh sống an nhiên tự tại trong khung cảnh an hoà với ý niệm anh là một Người Chủ
(Nhân Chủ) có trách nhiệm đối với thiên nhiên và xã hội từ dĩ vãng cũng như
trong tương lai. Khi nhắm mắt lìa trần anh Y để lại cho con cháu biết bao
tài sản vô giá: Vật chất là những tài nguyên anh đã cãi sửa, xây dựng lên.
Lý trí là tư tưởng, là kinh nghiệm thành bại trên đường đời; Tinh thần là
nếp sống đạo đức, luân lý anh đã sống, đã khuyên dậy con cháu, đã dẫn dắt những
người chung quanh; Tâm linh của anh, hiên ngang như mặt trời, dịu dàng như mặt
trăng, soi sáng cho đời sau. Con cháu, hậu thế cứ theo đó mà dựng xây, sáng tạo…
tiếp nối cuộc sống. Bằng vào nền tảng đó, quan niệm nhân sinh Bách Việt
mang tầm vóc một minh triết diệu kỳ, sinh động, soi sang toàn bộ đời sống Con
Người từ lúc chào đời cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay.
Từ chuyện Ông BÀN CỔ chúng ta
thấy được quan niệm nhân sinh của người Bách Việt cổ đã thoát khỏi cái mặc cảm
tự ti, hèn kém của kiếp người trước thiên nhiên, vũ trụ. Con Người Bách
Việt đầu đội trời, chân đạp đất, sống an nhiên tự tại trong ý thức làm chủ.
Lấy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín để làm phương châm hành xử chẳng riêng gì với
tha nhân mà cả với chính mình.
III.- NHÌN SƠ VỀ TÂY PHƯƠNG CỔ
ĐẠI
Quay nhìn về thế giới Tây
phương cổ đại để xem họ suy tư về con người như thế nào: Khởi đầu họ quan niệm
con người là nô lệ của thần minh đến độ lấy cả mạng sống con người để tế lễ thần
minh. Về sau họ lại chối bỏ thần minh mà đề cao Nhân bản. Khi triết gia
Aristote và những người đồng thời như Socrate, Platoon… của Hi Lạp cổ đại, 600
năm TCN, định nghĩa: “Người là con vật biết suy lý (animal raisonable)”, là các
ông đã đặt con người vào phạm trù sự vật. Do đó, trong gần 20 thế kỷ, tư
tưởng Nhân bản Suy lý của Aristote được xem là một hảo ý nhằm giải phóng con
người ra khỏi thần minh hầu trả lại độc lập cho con người.
Vào thế kỷ 17, 18 khi Âu châu
thoát ra khỏi ảnh hưởng của giáo hội Công giáo La Mã, các bậc thầy như
Voltaire, Descartes, Pascal, Képler, Leibnitz, Galilée, Newton phục hưng nền
Nhân bản Suy lý tạo thành ý thức mới trong việc xây đắp nền móng Khoa học thực
dụng cận đại. Địa cầu nhờ đó phát triển rất nhanh trên nhiều lãnh vực đáp ứng
được phần nào nhu cầu vật chất của con người. Xã hội dần dần chạy theo nguyên tắc
suy lý và nhà nước pháp trị. Quán tính đã đẩy nó đi rất xa, từ Suy lý* tiến
tới Duy lý**, rồi Duy vật***,Hiện sinh**** vô tình đưa con người ra khỏi khả
năng kiểm soát giá trị thực tế của nó.
* Suy lý: Sự suy diễn theo căn
bản lý luận, dựa vào lý lẽ phải, trái mà kết luận. Tỉ dụ: Mẹ thương con là do
tình cảm chứ không do suy lý. Chủ tiêm buôn tặng quà cho khách hành là do suy
lý chứ không do tình cảm. Thầy dạy học trò vừa do tình cảm vừa do suy lý...
** Duy lý: Chỉ có lý tính, luận
thuyết cho rằng con người vốn sẵn có lý tính tự nhiên mà nhận thức tất cả sự việc
trên đời, những kinh nghiệm,
tín ngưỡng, huyền niệm... đều không đáng kể...
*** Duy vật: Con đẻ của Duy lý,
cháu nội của Suy lý. Duy vật thiên về vật chất hoàn toàn, tinh thần chỉ là phụ
thuộc hoặc không đáng kể. Từ duy vật mà phát sinh ra Duy vật Biện chứng pháp,
Duy vật sử quan, Duy vật chủnghĩa, Cộng sản chủ nghĩa, Xã hội chủ nghĩa...
**** Hiện sinh: một quan niệm sống
chối bỏ mọi ràng buộc của xã hội, luân lý, văn hóa, truyền thống, tín ngưỡng,
luật pháp... Họ cho đó là rác rến, cản trở tự do của con người.
Triết gia LM Lương Kim Định viết:
“Thế giới thế kỷ 20 là một cơn sốt duy lý, duy vật và hiện sinh vô cùng nghiệt
ngã, tạo nên biết bao thảm cảnh trên địa cầu. Đó là hậu quả của sự dẹp bỏ nền tảng
đạo đức do tôn giáo xây dựng gần 2.000 năm để thay thế và phát triển tư tưởng
Nhân bản Duy lý chưa được hoàn chỉnh.”
Chúng ta dễ dàng nhận thấy nhân
sinh và vũ trụ quan của người Tây Phương thời cổ là vong thân. Con người được
sinh ra từ những loại thần cực kỳ hung dữ. Thân phận con người là những kẻ nô lệ
thần minh, nếu lầm lỗi có thể bị thần minh tiêu diệt không thương xót. Nếu
chàng PROMETHÉE tuổi trẻ (thần thoại Hy Lạp) phải lén lút lên núi Olympie ăn cắp
lửa trời đem về soi sáng cho trần gian khỏi tăm tối để rồi bị thần Trời (ZEUS)
trừng phạt, trả thù cực kỳ tàn nhẫn, nếu Abraham, tổ phụ người Do Thái phải đem
con trai độc nhất sát tế thần Gia Vê để chứng tỏ lòng tuân phục tuyệt đối của
mình, nếu mỗi năm người Babilon phải giết hàng trăm thiếu niên nam nữ đồng
trinh để tế thần, nếu người Ấn Độ vì sợ dơ bẩn lời cầu kinh Bàlamôn mà phạt tội
người Padi* phải bị đổ chì vào lỗ tai (một cách giết người cực kỳ tàn khốc), nếu
vua chúa Trung Hoa cổ giết hàng trăm sinh mạng con người để tế thần xã tắc trước
khi ra trận hay tế Thái miếu để tạ ơn ‘thần, tổ tiên dòng họ sau một cuộc chiến
thắng’, thì ÔNG BÀN CỔ, chỉ một cái liếc mắt là phát sinh ra sấm chớp, chỉ một
hơi thở là gió nổi lên, bỏ ra chút mồ hôi, nước mắt là đầy ắp công ích như nước
hai dòng sông Hoàng Hà và Dương Tử! Thì quả thực mẩu chuyện Ông Bàn Cổ khiến
cho chúng ta thật sự kinh hoàng trước cái giá trị tuyệt vời của con Người Đông
Á đối với vũ trụ. Đó là cái vị thế Nhân Bản Hoàn Mỹ hợp tình hợp lý ở chỗ
Con Người đã nhận diện được mình là chủ của chính mình đồng thời là chủ của cái
thiên nhiên bao la hùng vĩ chung quanh.
* Padi, có nghĩa là ‘không được
phân loại’, gần giống với nô lệ, dùng để gọi người Dravidian, thổ dân rất cổ vốn
là chủ đất Ấn Độ cách đây khoảng 3200 năm. Họ bị tội đổ chì vào lổ tai nếu nghe
lén tu sĩ Bàlamôn đọc kinh.
Ngược về thời tiền sử Ấn Độ,
người Dravidian cổ dù chưa lập quốc nhưng đã có một nền văn hoá rất sâu sắc, hướng
về Nhân bản Tâm linh (Purusa Đại ngã) có tầm vóc vũ trụ. Khoảng năm 1.200 TCN,
một nhánh thuộc giống Ấn Âu (Ariyan) từ Ba Tư xâm lăng Ấn Độ. Họ lập ra cả
ngàn Tiểu quốc. Họ đàn áp dân tộc Dravidian và hũy diệt văn hóa của dân tộc
này. Người Ariyan lập đạo Bàlamôn làm quốc đạo, xã hội chia thành 4 giai cấp:
quý tộc, tu sĩ, chiến sĩ, và nông-thương. Người Dravidian (thổ dân) không được
kể tới nên gọi là vô loại (padi). Các chế độ Tiểu quốc ở Ấn Độ có cách đối
cực kỳ dã man với người Dravidian tồn tại mãi cho đến cuối thế kỷ 19 mới được
người Anh bãi bỏ. Tuy nhiên văn hoá Dravidian vẫn được nhiều người ái mộ,
kể cả những quý tộc Ariyan. Họ tu học ‘Đạo kín’ Dravidian trong rừng sâu.
Năm 563/TCN, Đức Thích Ca Mâu Ni cỡi bỏ giai cấp quý tộc của mình, vào rừng
tu theo ‘đạo kín’này. Đức Phật Thích CaNgài cải sửa, hoàn chỉnh tư tưởng và
nguyên tắc hành đạo của đạo này thành một triết lý uyên thâm. Đạo Phật phát
sinh từ đó.
IV.- NHỮNG CHUYỂN HÓA CỦA TRIẾT
LÝ ĐÔNG Á
Kể từ thời điểm TRÁC LỘC (2704
TCN), chúng tôi tạm chia minh triết Đông Á làm ba giai đoạn chuyển hóa:
1.- GIAI ĐOẠN VIỆT NHO (Việt
Nhu) NGUYÊN THỦY
Danh xưng Việt Nho do Triết gia
Lương Kim Định đặt và chính ông đã đề xướng triết lý An Vi. Từ TOẠI NHÂN
(khoảng 4.000 TCN) đến ĐẾ LAI (2.704 TCN) và giai đoạn các vua Hùng với quốc
gia Văn Lang. Đây là giai đoạn Văn hóa Nông nghiệp Bách Việt thuần túy, xã hội
Bách Việt được lãnh đạo bằng chế độ Nhân trị mà biểu tượng là mẫu người Nhân chủ.
Giai đoạn này tương ứng với các nền văn minh nông nghiệp khác trên thế giới thời
đó như các vùng châu thổ Lưỡng Hà ở I-Raq, sông Nil ở Ai Cập, sông Hằng ở Ấn Độ
...
2.- GIAI ĐOẠN TIỀN KHỔNG NHO
Từ vua HOÀNG ĐẾ chiếm được nước
Xích Thần (Bách Việt) của vua Đế Lai (2.704 TCN) đến Đức KHỔNG PHU TỬ (500
TCN). Đây là giai đoạn hai nền văn hóa Du mục và Nông nghiệp tranh dành ảnh hưởng
vào xã hội thái cổ. Một bên là các dân tộc du mục Hoa tộc (Hán Mông: kẻ chiến
thắng); Một bên là các dân tộc nông nghiệp (Bách Việt: kẻ bị xâm lăng). Cho đến
đầu thời nhà Chu thì xã hội Hoa tộc đã hoàn thành được một nền văn hóa khá ổn định:
Chế độ Phụ hệ, Quân chủ Phong kiến với guồng máy triều đình, quan lại và đội
quân chuyên nghiệp hội nhập với chế độ Mẫu hệ, Nhân chủ, Nhân trị của Nông nghiệp
Bách Việt.
Mẫu người Nhân Chủ vốn là biệt
sắc mang tính giáo hóa của đại chúng Bách Việt bị vua chúa Hoa tộc chiếm lấy,
biến thành mẫu người Quân tử (kế tự) của giai cấp quý tộc. Mất tính Nhân chủ,
xã hội Bách Việt chỉ còn là những người hạ tiện; chế độ Nhân trị teo lại, rút
vào hệ thống bộ tộc (về sau phía Việt gọi là Làng Xã) còn được gọi là ‘nước chư
hầu’ của thời thượng cổ . Bởi đó, ngày nay, nếu muốn biết giá trị văn hóa Việt
cổ, người làm Văn hóa phải tìm học Làng Xã Việt Nam là vậy.
* Các bộ tộc nước Xích Thần sau
trận Trác Lộc 2704/TCN bị đồng hóa trong hệ thống Hậu của người du mục và gọi
chung là chư hầu. Do đó, thời này có hàng vạn chư hầu. Mỗi chư hầu
có những truyền thống văn hóa, xã hội, chính trị, tôn giáo mà triều đình trung
ương phải tôn trọng. Đến khi các chư hầu thôn tính nhau từ một vạn còn lại vài
ngàn, rồi vài trăm, vài chục... thì những biệt sắc của xã hội Bách Việt dần dần
tràn ngập xã hội mới đồng thời cũng mang quốc tịch mới: Văn minh Trung Hoa với
nền quân chủ chuyên chế và xã hội phụ hệ.
Trong khi đó, nước Xích Quỷ (Việt
Nam tiền sử) non yếu ở phía Nam suýt tan rã (sau thảm bại Trác Lộc) vì bị mất
lãnh đạo, đã được bà Âu Cơ giúp đỡ lập quốc trở lại với quốc hiệu mới là Văn
Lang. Hệ thống làng xã Việt tộc (tiền thân là các bộ tộc, bộ lạc Bách Việt)
về sau dù bị cường lực Hoa tộc đô hộ suốt một ngàn năm vẫn kiên trì giữ chặt
truyền thống tự trị làng xã cho đến giữa thế kỷ 20 thì chế độ cộng sản làm cho
tàn lụi (Tôi tin rằng, tinh thần tự trị của Làng Xã vẫn tiếp tục sống tiềm ẩn
và chắc chắn sẽ có ngày hồi sinh khi có điều kiện).
3.- GIAI ĐOẠN KHỔNG NHO
Từ KHỔNG TỬ trở về sau gọi là
KHỔNG NHO hay là Nho giáo do đức Khổng Tử sưu tầm và san định (sắp xếp lại cho
có hệ thống) khi mà nền văn hóa hợp chủng Hoa-Bách Việt đang càng ngày càng sa
sút vì xã hội nhà Chu đi vào li loạn. Chế độ Quân tử kế tự nhờ Khổng Tử mà chuyển
thành kế Hiền * Danh xưng Quân tử không còn là đặc quyền của giai cấp quý tộc
mà dành cho bất cứ ai có đạo đức, luân lý. Một vài danh xưng khác có phần
khiêm nhượng hơn: Hiền nhân, Sĩ Phu, Kẻ sĩ, Trí thức, Thức giả... Có người thắc
mắc tại sao một nền văn hóa sáng chói như thế mà lịch sử Đông Á trong suốt nhiều
ngàn năm vẫn không xây dựng được một xã hội Thái hòa? Chẳng những thế lại còn
đi vào suy thoái khi kề cận với văn minh Tây phương? Đúng là đã có những
nghịch lý xã hội.
A.- Những nghịch lý giữa 2 nền
văn hóa dị biệt
Khởi đầu, khi nhân loại sống
theo phương thức hái lượm và trồng trọt gọi chung là nông nghiệp thì tất cả mọi
dân tộc sống theo chế độ Mẫu hệ, gọi là Thị tộc (nữ cầm quyền trong gia đình).
Khi một phần loài người chuyển qua phương thức chăn nuôi gia súc, thì họ đổi
thành chế độ Phụ hệ (nam cầm quyền).
Trong xã hội Mẫu hệ, người Mẹ
là chính. Con cái theo họ Mẹ. Những hoạt động của cộng đồng xã hội cũng
được phân định thành lệ. Chẳng hạn những người Mẹ cùng một Tộc cử ra một nam
nhân có tài đức, sức khỏe đảm nhiệm chức vụ Tộc trưởng. Các Tộc trưởng
trong cùng một khu vực bầu ra một Tù trưởng Bộ lạc hay Bộ tộc. Trong cơ
chế chính quyền sơ khai như thế như thế, thông thường vị Tù trưởng Bộ tộc xã hội
Mẫu hệ nhẹ về quyền uy và tài sản nhưng lại nặng về trách nhiệm dẫn dắt, giáo
huấn và tư tế .
Xã hội nông nghiệp Miêu Viêm, về
sau gọi là Bách Việt có hàng ngàn, hàng vạn Bộ lạc như thế và gọi chung là
Thiên hạ. Thiên hạ khai hoang lập ấp khắp nơi và hầu như không có biên giới.
Các Tù trưởng trong Thiên hạ họp nhau công cử lên một vị vua gọi là Thiên tử.
Thiên tử có nhiệm vụ vừa là Đại tù trưởng, vừa là Đại tư tế, Đại phán quan...
do vậy, những việc làm của Thiên tử gọi là vương hóa. Khi có loạn, Thiên
tử kêu gọi các Bộ lạc góp dân quân, lương thực, vũ khí để thi hành công đạo. Xã
hội đó gọi là Xã hội Nhân Chủ, Nhân Trị.
Con của Thiên tử mang họ mẹ, do
đó không có chuyện nhường ngôi cho con để duy trì dòng họ. Tuy nhiên, em và con
cháu Thiên tử vẫn có ưu thế hơn người khác. Dù thế, liên hệ anh em, cha con
chưa hẳn làm lệch cán cân tuyển chọn của Đại hội các Tù trưởng thường căn cứ
trên đức độ, tài năng... (Đế Minh, cháu ba đời vua Đế Viêm, sau vài triều đại
thuộc họ khác, đã được công cử lại. Đế Nghi có lẽ thiếu tài đức, đã không được
công cử. Lộc Tục là em, lại được công cử nhưng không nhận. Cuối cùng, giải pháp
chia làm hai nước Xích Thần (Đế Nghi) và Xích Quỷ (Lộc Tục) đã được chấp nhận.
Con trưởng Lạc Long Quân thuộc họ Hồng Bàng phải thuyết phục 15 Bộ tộc và
được bà Aâu Cơ ủng hộ mới được công cử lên ngôi Hùng vương).
Làm Thiên tử là tiếp nhận trách
nhiệm hơn là danh vọng, quyền uy và của cải vật chất của những vị vua thời thượng
cổ. Do vậy, người được công cử thường nhún nhường, đề bạt lại người khác.
Cuối cùng khi không thể từ chối mới lễ độ tiếp nhận chứ không dành dựt
tàn khốc, đầy máu và nước mắt như các chế độ quân chủ chuyên chế sau này.
Triết gia LM Lương Kim Định nhận
định về hai xã hội Nông nghiệp và Du mục như sau: “Người Nông nghiệp hiền lành
nhưng tư tưởng thâm trầm do phải sống thích nghi với thiên nhiên. Họ thường
xuyên quan sát vũ trụ, khí hậu, sông nước, cỏ cây... rồi theo thời gian họ rút
ra những kinh nghiệm sống (Nữ Oa): Hợp với thiên nhiên thì tốt mà nghịch lại
thì xấu. Trời, Đất, Vạn vật cùng một thể và những thứ đối chọi nhau như
âm dương, sáng tối, nắng mưa, đực cái… phải nương nhau sinh tồn và tiến hóa tạo
thành nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Nông nghiệp Đông Nam Á.
Người Du mục Mông Cổ (Hán Mông)
thì trái lại, họ thiên về cường lực, chuộng thực tiễn, mạnh được yếu thua...
Truyền thống văn hóa người Du mục do đó hoàn toàn khác hẳn người Nông nghiệp”
(Sách Nhân Chủ). Xã hội Nhân trị của Miêu tức Viêm mà về sau gọi là Bách
Việt đã tồn tại nhiều ngàn năm trước công nguyên trên môït vùng đất rộng lớn gồm
từ châu thổ sông Hoàng Hà vượt qua sông Dương Tử, sông Hồng Hà xuống đến sông Cả
và sông Mã.
Vị Thiên tử của chế độ Nhân trị
này không ăn thuế khóa... Bù lại, hàng năm vua và triều đình được cung ứng “đồ
tuế cống” của các bộ tộc, và được thụ hưởng hoa lợi từ những công điền cung cấp
tùy theo từng nhiệm vụ. Ruộng đất riêng của vua và triều đình được người dân
canh tác và phân chia theo phép Tỉnh điền (Điềân sản của mỗi vị được chia làm 9
phần bằng nhau, dân chúng chia nhau canh tác 8 phần để hưởng lợi đồng thời cùng
nhau làm phần còn lại, 100% huê lợi phần còn lại đó sẽ nạp cho vua và triều đình).
Luật lệ Bách Việt có 10 điều,
chủ yếu khuyên răn dân chúng gìn giữ đạo đức, luân lý của một xã hội Nhân Chủ
(Sách Hoài Nam Tử). Vua và dân cùng thờ cúng Trời, Đất và Tổ tiên và những
Anh hùng dân tộc có công với đất nước (đạo Tam Thông còn gọi là đạo thờ Ông
Bà). Văn hóa truyền thống, nền tảng Nhân Chủ và chế độ Nhân Trị của người Miêu
Viêm còn gọi là Bách Việt cổ hình thành một xã hội bình trị, thái hòa vững chãi
kéo dài không dưới 5.000 năm kể từ năm 2704 tr.CN trở về
trước (Thời kỳ Văn hóa Bắc Sơn).
Về sau, khi cuộc chiến tranh vệ
quốc của Liên minh Xích Quỷ (2704 tr.CN) thất bại thảm hại, nền văn hóa Nông
nghiệp tuyệt diệu này còn được duy trì thêm 2446 năm với 18 dòng họ nối nhau
làm Hùng vương nước Văn Lang.
Phải cho đến năm 111 tr.CN, khi
Hoa tộc thôn tính nước Nam Việt (nhà Triệu) đặt ách nô lệ lên nước ta thì xã hội
Mẫu hệ và truyền thống tốt đẹp Việt tộc dần dần đổi hướng qua chế độ Phụ hệ Hoa
tộc. Tuy nhiên một điều cực kỳ may mắn cho dân tộc là nền văn hóa siêu việt này
vẫn sống còn nhờ sự tồn tai của làng xã sau lũy tre làng. Khẩu hiệu ‘Luật
Vua Thua Lệ Làng’ là một niềm hãnh diện của làng xã mà hầu như không một thế lực
quân chủ chuyên chế nào phá đổ nổi.
Triết gia Kim Định cho rằng dịch
chữ làng xã Việt Nam qua tiếng Pháp là village thì không chính xác và người
Pháp cũng không có từ ngữ nào khác để dịch chữ làng xã cho đúng nghĩa. Bởi vì
village là đất của các lãnh chúa Tây phương và người dân sống trong đó là nông
nô của họ. Mọi người ở trong village bị giai cấp lãnh chúa và quý tộc làm tình
làm tội trăm chiều mà không thể chống đối . Chủ đất có thể bắt bỏ tù hoặc đuổi
họ ra khỏi làng để lấy đất lại.
Mặc dù khi người ta nhận ra được
giá trị của làng xã Việt Nam thì nó đã không còn như nguyên thủy của 5.000 năm
về trước. Rõ ràng làng xã Việt Nam đã phải thi thố khả năng tuyệt diệu của nó một
cách vô cùng cam go trong những căn cứ nhỏ hẹp dưới những chế độ quân chủ
chuyên chế luôn luôn tìm cách trấn áp, phá bỏ. Cuộc đấu tranh để sống còn
này được thể hiện qua một khẩu hiệu cực kỳ “khi quân, phạm thượng” của người
dân trong làng xã Việt Nam: “Phép vua thua lệ làng”. Nó mạnh mẽ đến độ trong suốt
nhiều ngàn năm, quyền hành của vua chỉ về đến Quận, Huyện mà thôi . Tinh thần
Nhân chủ, Nhân trị và ý niệm an nhiên tự tại của người dân trong làng xã Việt
Nam thực đáng cho người đời sau suy gẫm!
Làng xã Việt Nam như những bang
tự trị trong một Liên bang mà Quận, Huyện chỉ là cơ chế điều hợp trong suốt
2000 năm kể cả những giai đoạn bị Tầu và Pháp đô hộ *.
* Thực dân Pháp đô hộ Việt Nam
gần 100 năm, khởi đầu họ cho rằng, để cho làng xã tự trị sẽ tạo ra sự chia rẽ
giữa các địa phưong, nhờ đó họ sẽ dễ dàng cai trị một dân tộc có những dĩ vãng
vô cùng hào hùng này. Tuy nhiên, về sau họ nhận thấy làng xã trở thành những căn
cứ chống Pháp vô cùng hữu hiệu: Tinh thần yêu nước của người Việt không vì tính
tự trị của Làng Xã mà suy giảm trái lại bùng lên rất mãnh liệt khi đất nước lâm
nguy. Người Pháp liền tổ chức lại Làng xã bằng cách dành quyền bổ nhiệm
những người thân Pháp vào chức Lý trưởng thay thế chức Xã trưởng do dân bầu,
nhưng vẫn để Làng tự trị. Do sự thay đổi này, một số làng Việt Nam trở thành
nơi chứa chấp bè nhóm, gian đảng, hối mại quyền thế, tham ô, hà hiếp dân chúng
và Lý trưởng thì trở thành tai mắt của chính quyền thực dân Pháp… đã làm giảm
sút rất nhiều tính cách Nhân trị, Nhân chủ trước đó.
Trong sách ‘Làng xóm Việt Nam’,
học giả Toan Anh viết như sau: “Hành chánh tại Làng xã Việt Nam được tổ chức
theo chế độ tự trị, là một chế độ đặc biệt đã được áp dụng tại nước ta ngay từ
thời Tiền cổ.” Việc cai trị trong xã từ xưa vẫn do dân chúng cử ra theo những tục
lệ cổ truyền của mỗi Làng xã. Triều đình không can thiệp tới việc đề cử này, và
dẫu triều đình có muốn can thiệp chưa chắc đã được vì ‘phép vua thua lệ làng’.
Thực ra, cho tới thế kỷ XVIII, các triều đại VN cũng đã nhiều lần muốn nhúng
tay vào việc Làng xã, nhưng rút cuộc Làng xã vẫn là của dân và chính dân đã
luôn luôn bầu lấy những người lo việc dân.
Như thế, nghịch lý đã xẩy ra
khi Hoa tộc pha trộn truyền thống Du mục của họ với nền văn hóa Nông nghiệp
Bách Việt. Vì vậy trong nhiều ngàn năm, xã hội Hoa tộc dù được xây dựng ít nhất
80% trên nền tảng văn hóa Bách Việt đã không đạt được thành quả như xã hội Việt
cổ nguyên thủy. Trái lại đã chất chứa đầy mâu thuẩn trên nhiều lãnh vực khiến đất
nước chỉ tạo được thanh bình từng giai đoạn ngắn ngủi mà thôi.
B.- NHỮNG NGHỊCH LÝ TỪ CHẾ ĐỘC
QUÂN CHỦ CHUYÊN CHẾ
Truyền thống du mục Trung Hoa cổ
từ giai đoạn phong kiến đến quân chủ chuyên chế với những dòng vua cha truyền
con nối mà hầu hết các triều đình Việt Nam về sau cũng noi theo đã tỏ ra vô
cùng gượng ép khi chung sống với nền văn hóa Tiền Nho lẫn Khổng Nho và đã làm
giảm giá trị của nền văn hóa đặc thù Nông nghiệp Bách Việt. Bởi vì khi cố gán
ghép cho mối tình du mục Trung Hoa cổ và nông nghiệp Bách Việt, Khổng Tử đã đưa
ra thuyết Thiên mệnh để tránh đi cái tiếng “làm cách mạng” vô cùng nguy hiểm
cho bản thân ông. Thuyết này vừa tôn quyền dòng vua cai trị vừa tìm cách
ràng buộc kẻ làm vua phải chấp nhận ý Dân là ý Trời. Tuy nhiên, ngay vào thời đại
của ông, vua chúa các nước chỉ khoái tôn quyền nhà vua mà thôi và rất ngán cái
chuyện “Dân Vi Quý, Xã Tắc Vi Thứ, Quân Vi Khinh”. Vì thế, chẳng những
ông bị thất nghiệp dài dài mà có lúc còn bị giới này đối xử rất bạc bẽo, thô bạo.
Chế độ quân chủ chuyên chế Đông Á, nếu may mắn gặp được vị vua hiền đức, anh
minh thì còn giữ được vài phần Nhân trị. Còn chẳng may gặp phải thứ hôn quân vô
đạo thì Nhân trị chỉ có thể... ở trong tù.
Xã hội Việt Nam trong suốt 10
thế kỷ độc lập (939-1945) dù tổ chức chính quyền theo đường hướng du mục Trung
Hoa (Quân chủ chuyên chế), nhưng nhờ hệ thống hàng ngàn Làng Xã tiếp tục giữ vững
cái gốc Nhân chủ, Nhân trị đã ảnh hưởng không ít đường lối trị quốc của chính
quyền trung ương. Tỉ dụ: Khi nhà vua muốn làm một việc gì gây tồn hại cho dân,
cho nước thì thường bị các quan cản trở, tìm cách bác đi; và rồi, khi lệnh xuống
đến cấp làng xã lại bị phản ứng của dân nếu lệnh vua đụng đến lệ làng. Nếu chú
ý, chúng ta tất thấy: nước Việt hùng mạnh hơn các nước trong vùng như Chiêm
Thành, Miên, Lào, Thái Lan, Miến
Điện ‘nhưng cung điện, lăng miếu,
đền đài, thành quách nước Việt không đồ sộ, nguy nga, tráng lệ bằng các nước
kia. Trái lại, những việc ích quốc lợi dân như đắp đê chống lụt, đào kinh dẫn
thủy nhập điền, giúp dân khai hoang lập ấp được triều đình quan tâm thực hiện.
Hàng năm, trong Lễ hội đầu mùa vua Việt xắn quần lội xuống ruộng cầm cày
thúc trâu vở luống đất đầu tiên hoặc tự tay nhà vua đánh trống cổ võ dân chúng
đào sông, đắp đê. Hội nghị Bình Than, Hội nghị Diên Hồng, xây dựng Văn
Miếu, lập bia Tiến sĩ: Tất cả những tỉ dụ trên đã ít nhiều để lại dấu
ấn tư tưởng Nhân chủ và xã hội Nhân trị trong đó.
Nhân đây cũng xin ghi lại một
vài mẫu người đặc trưng của các nước trên thế giới:
. Thiên tài (Vĩ nhân): Có biệt
tài về một ngành chuyên môn: mỹ thuật, khoa học, văn nghệ, quân sự, chính trị,
xã hội... Triết gia Nietzsche nhận xét: “Thiên tài vị tất đã là nhân!”.
. Người hùng : Có tài về quân sự,
mưu lược hay vũ dũng, tung hoành ngang dọc để tranh đoạt chiến công, quyền lợi...
Mẩu người này ít quan tâm tới nhân nghĩa.
. Chính nhân : Mẫu người Âu
Châu TK 17, là kẻ biết xã giao, lịch thiệp, có uy tín cá nhân, được dân chúng
yêu quý và giới quí tộc nể vì.
. Gentlemen : Người quí phái
trong xã hội Anh quốc. Mẫu người này thuờng tỏ ra mình thông minh, trầm tĩnh,
cương nghị hơn người nhằm đề cao đẳng cấp giới mình trong xã hội . Gentlemen
như một loại hàm vị dành cho giới thượng lưu, quý tộc do đó họ cũng có những ưu
đãi trước nhiều giới trong xã hội Anh.
. Cán bộ đảng viên CS: Cán bộ,
đảng viên trong chế độ Cộng Sản đa số vốn xuất thân từ giai cấp thợ thuyền và
nông dân. Họ được nhồi nhét một số bài bản, kinh điển chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Họ cuồng tín phụng sự đảng hay tôn thờ lãnh tụ đảng đã được
lý tưởng hóa một cách giả tạo. Ho thường tự xưng là đẳng cấp “siêu việt”,
là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”. Mẩu người này hoàn toàn vong thân,
vong bản. Để đạt cứu cánh, họ bất chấp phương tiện.
. Người Quân tử : Mẫu người có
đạo đức, luân lý cao đẹp của các nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật, Triều Tiên...
trước đây. Họ là những người rất được xã hội tôn trọng, và coi đó là mẫu
người lý tưởng.
Bằng con mắt vô tư, chúng ta thấy
những mẩu người nói trên đều được các xã hội Đông, Tây tôn trọng, ngoại trừ
‘cán bộ đảng viên đảng cộng sản’ thì hoàn toàn ngược lại mặc dù họ được đảng và
chính quyền cộng sản tôn họ lên hàng ‘ưu việt’ và ‘đỉnh cao trí tuệ của loài
người’ và dành cho họ nhiều đặc quyền, đặc lợi.
Theo Triết gia LM Lương Kim Định,
khi xét vị thế của người Quân tử Đông Á, ông cho rằng: “người Quân tử mang một
tầm vóc khác hẳn những vị kia một cách diệu kỳ”. Chữ quân tử hay hiền
nhân mang ý nghĩa tương tự chữ nhân chủ, tuy nhiên nhân chủ mang tính chất
minh triết, chỉ ra đường lối xây dựng xã hội, giáo dục đại chúng; còn quân
tử, hiền nhân mang tính cách hoàn thiện của kẻ sĩ. Theo nguyên lý Tam
Tài (Thiên, Địa, Nhân) cũng gọi là Tam Hoàng thì Nhân (Người) là một trong Tam
Tài hoặc Tam Hoàng, mà Hoàng đồng nghĩa với Quân, Vương nên Quân, Vương cũng chỉ
vào Nhân. Chữ Vương biểu thị bằng 3 nét ngang chỉ Thiên, Địa, Nhân,
còn một nét sổ dọc ở giữa là quán thông Tam Tài. Con Người vừa thông với Trời,
với Đất vừa nối kết giữa Người với Người. Cho nên Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
đúng là những đức tính của con người Nhân chủ.
Nói rõ hơn, khi còn trong giai
đoạn Văn hóa Nông nghiệp Bách Việt thuần túy, toàn dân đều cố gắng đặt mình
trong ý thức làm chủ để xứng đáng là một trong ba ngôi: Trời là Chủ, Đất là
Chủ và Người là Chủ. Đến khi nền văn hóa này bị du mục Trung Hoa cổ
chiếm đoạt thì vua chúa Trung Hoa dành riêng ngôi vị Người là Chủ cho kẻ làm
vua mà thôi . Đó là truyền thống của chế độ quân chủ chuyên chế:
Tất cả mọi thứ (kể cả người) trong thiên hạ đều là của nhà vua.
Bàn về xây dựng con người Nhân
chủ, học giả Nguyễn Việt An góp ý như sau : “Muốn xây dựng xã hội Nhân bản
Toàn diện thì phải có Con Người Nhân Chủ. Con Người Nhân Chủ biết rõ mình
ở đâu mà ra? Thành bởi gì? Ra đời để làm gì ? Rồi trở về đâu ?
Nên sống sao cho ra sống, không quá lụy vào Trời (thần thánh) hay quá ỷ
vào Đất (vật chất), không vướng vào ý hệ này, chủ nghĩa kia. Ngửng cao đầu tham
dự vào cuộc sinh sinh hóa hóa với Trời cùng Đất.”
Biểu tượng ÔNG BÀN CỔ vừa mang
cái giản dị đến độ một thiếu niên cũng tiếp nhận dễ dàng, vừa mang cái thâm
sâu, cao diệu mà những học giả uyên thâm cũng phải tìm học sảng khoái. Chuyện
Ông BÀN CỔ không nhắc tới tâm linh, đạo đức, luân lý, không nói tới quan niệm
nhân sinh, không đã động đến con người lý tưởng, không có những cái tên thực
kêu như Nhân chủ, Quân tử, Nhân bản... của nhiều ngàn năm sau, nhưng mỗi người
nghe, tùy mức độ tiếp nhận, đều có thể hiểu được mình, hiểu được người, thấu
đáo đuợc vũ trụ chung quanh để từđó, tùy vị thế trong cộng đồng của mình, nhìn
ra một lối đi chân, thiện, mỹ cho ta, cho người, cho xã hội “ như câu chuyện đã
kể : Ông càng lớn thì Trời càng cao, Đất càng dầy... Khi Ông chết, mắt biến thành
mặt trăng, mặt trời, máu mỡ chảy ra thành biển cả, thân xác rã ra thành những
vùng đất, núi lớn trong thiên hạ, lông tóc đâm rể xuống đất mọc lên cây cối”
Toàn bộ câu chuyện đi từ những
điểm thật nhỏ như đếm từng ngày, như đo từng thước, như cái liếc mắt, như khi
vui lúc buồn ‘để rồi lớn lên, cao thêm, dày thêm’ thoát chốc 18.000 năm bùng
lên, hùng vĩ đến vô cùng, hành động đến vô cùng và kết quả cũng vô cùng! Quả
nhiên là một lối nói ẩn dụ, mới nghe thì có vẽ mộc mạc, tiếu lâm đến độ hoang
đường mà thực sự mang một tư tưởng trùm lấp không giới hạn và sự uyên thâm vô
lượng có giá trị đến muôn đời về sau.
Tuy nhiên còn câu chót: ‘Những
loài sâu bọ sống trên thân xác Ông trở thành loài Người’ thì quý độc giả nghĩ
sao? T ại sao loài sâu bọ lại biến thành người?
Ta thử ngưng lại vài phút, pha
một tách trà thật ngon, thưởng thức cái mùi vị truyền thống, ‘lắng nghe lòng ta
nghĩ sao về loài sâu bọ này!’ - Ừ nhỉ! ‘Tại sao chúng lại thành người ? -
Nhất định đây là một câu kết cực kỳ quan trọng, nếu ta không thưởng thức được
câu này thì coi như chuyện Ông BÀN CỔ hoàn toàn hỏng!! Và bài luận này phải ‘sổ
toẹt’!!
Loài sâu bọ sống bám trên người
ông Bàn Cổ chắc hẳn là những con chí, con rận. Nhưng mà! Lý do nào thúc đẩy bọn
chí rận này biến thành người mà không phải một con gì khác?
Trong truyện dài dã sử mang tựa
đề ‘Nước Non Tiền Sử’, tôi có dành một đoạn viết về chuyện Ông BÀN CỔ. Nay
xin trích phần chót của đoạn đó như một gợi ý của người viết để quý độc giả thử
nghiệm lại xem, may ra chúng ta khám phá thêm những ý tưởng mới qua câu kết hài
hước, hóm hỉnh, trầm mạc của người xưa!
Một thanh niên đang đi ở vòng
ngoài cùng, bỗng chen vào giữa câu chuyện:
- Vậy ra người ta bắt nguồn từ
loài chí rận chứ không phải từ Ông Bàn Cổ sinh ra hay sao?
Nghe hỏi, một cô gái có mặt
trong nhóm bật cười, cô hóm hỉnh góp ý:
- Vô duyên không! Ông Bàng Cổ...
là... đàn ông... làm sao sinh đẻ cơ chứ?
Cô vừa dứt lời thì lập tức những
tiếng kêu thét vang lên ồn ào như vỡ chợ của bọn thanh niên:
- Đúng lắm!
- Chí lý!
- Câu góp ý tuyệt vời
Cô gái e thẹn, phân trần:
- Này! Tôi nói thế không đúng
hay sao!!
Thầy Lê Dực tươi cười góp ý:
- Ông Bàn Cổ, ta gọi bằng Ông,
nhưng theo tôi nghĩ thì vị tất đã là ông hay bà. Người xưa dùng câu chuyện Ông
Bàn Cổ như một ẩn dụ, truyền đạt cho con cháu chứ thực tế làm gì có người nào kỳ
lạ như Ông Bàn Cổ phải không?
- Dạ đúng vậy thầy! Thầy Dực
đưa tay lên trán bóp nhẹ, nói tiếp:
- Vậy thì việc những con chí,
con rận biến thành người cũng là một lối nói ẩn dụ. Ông Bàn Cổ không sinh đẻ ra
loài người, nhưng những con vật dù nhỏ nhất, chẳng ra gì, nhờ sống trên người
ông, thừa hưởng khí huyết, tinh thần, đạo lý và tư tưởng của ông, chúng đã trở
thành loài người. Một chiến sĩ đi bên cạnh nghe đến đó bất chợt thốt lên:
- À! Tôi hiểu rồi... Con người,
nếu không có tư tưởng, không có đạo đức, luân lý, không có ý niệm tâm linh để
duy trì cuộc sống cao đẹp, thì có khác gì những con chí, con rận... phải không
thầy? Mọi người nghe lời góp ý thì cùng ồ lên, bên cạnh cái ngạc nhiên hứng
thú còn pha lẫn sự kính phục chân thành lời dậy của cha ông :
- Phải rồi! Nếu không thoát ra
được cái thú tính thấp hèn thì Con Người khác gì loài chí rận!!
An Phong Nguyễn Văn Diễn
Trích sách ‘Đường Ta Đi’
Tác giả: An Phong Nguyễn Văn Diễn – 2003
__._,_.___
No comments:
Post a Comment