TÔN GIẢ QUANG MINH
Toàn Không.
2). PHẬT ĐỘ CHÚNG SINH:
Bấy giờ, Đức Phật thấy biết mọi việc xảy ra, từ miệng Ngài phóng ra ánh sáng Ngũ Sắc [năm màu: xanh (dark blue), vàng (yello), đỏ (red), trắng (white), cam (orange), là màu cờ Phật giáo]. chiếu xuống 8 loại Địa ngục nóng, 8 loại Địa ngục lạnh. Khi ánh sáng chiếu tới các Địa ngục nóng liền được mát mẻ, khi chiếu tới Địa ngục lạnh liền được ấm áp; ở các Địa ngục liền được dứt khổ sinh tâm vui vẻ, liền thoát khỏi địa ngục sinh đến cõi lành Trời Người Thần.
Chiếu xong Địa ngục, miệng Phật hướng lên chiếu khắp 6 tầng Trời Dục giới, 18 tầng Trời Sắc giới và 4 tầng Trời Vô Sắc giới. Trong ánh sáng phát ra tiếng “vô thường, khổ, vô ngã”, và trong ánh sáng ấy có lời kệ vang lên:
Như voi lớn trong bùn,
Dùng sức liền ra khỏi,
Như Lai có sức lớn,
Phá tan giặc sinh tử,
Khéo điều phục chính pháp,
Xa lìa các lỗi lầm,
Chấm dứt cảnh luân hồi,
Diệt hết khổ chúng sinh.
Rồi từ miệng Phật, ánh sáng chiếu khắp ba nghìn Đại Thiên thế giới (khắp giải Ngân Hà của chúng ta), xong ánh sáng ấy xoay chuyển đi vào miệng Ngài. Chư Thiên các tầng Trời thấy thế, liền trong khoảnh khắc đều đến chỗ Phật. Lúc ấy Tôn giả A Nan Đà, Thị giả của Ngài thấy thế liền hỏi:
- Bạch Thế Tôn, ánh sáng từ miệng Ngài sáng rực như thế là do nhân duyên gì?
Đức Phật bảo:
- A Nan, nếu không có nguyên nhân Như Lai không phóng ánh sáng. Nay Ta muốn đến rừng Thi Đà, ông bảo đại chúng Tỳ Kheo theo Ta đến rừng Thi Đà.
Tôn giả A Nan Đà nghe lời Đức Phật nói liền tập trung thông báo các Tỳ Kheo về sự việc Phật phóng hào quang từ miệng và muốn đại chúng theo Ngài đến rừng Thi Đà.
Lúc ấy, Đức Phật như voi chúa, là một vị Phật, có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thanh tịnh, trang nghiêm, vô sở úy (không sợ hãi). Ngài dẫn đầu đoàn Tỳ Kheo đông đảo ra khỏi rừng Ca Lan Đà đến rừng Thi Đà.
Khi ấy, trong thành Vương Xá có hai thanh thiếu niên đang chơi đùa bên đường, một tên Thọ Mạng, một tên Đồng Tử. Thọ Mạng đã có lòng tin Phật chân chính, còn Đồng Tử không có lòng tin. Lúc ấy Đồng Tử nói rằng có lời nói về những điều Sa Môn Cù Đàm nói trước về đứa con trong bụng vợ Trưởng giả Thiện Hiền. Nói xong, Đồng Tử bảo những điều Sa Môn nói là sai, vì người vợ đã chết, đứa con trong bụng cũng chết luôn, xác người chết đã đưa ra rừng Thi Đà rồi. Nhưng Thọ Mạng không đồng ý và nói kệ:
Mặt trời, trăng, sao có thể rơi,
Núi đất, núi đá có thể bay,
Nước biển, vực sâu có thể cạn,
Lời Cù Đàm nói quyết không dối.
Nói kệ rồi, Thọ Mạng bảo Đồng Tử:
- Nếu bạn không tin, hãy cùng tôi đến rừng Thi Đà xem rõ sự việc này.
Bấy giờ Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt, trước đã nghe nói về việc ấy, lúc ấy lại nghe quần Thần báo cáo việc Trưởng giả Thiện Hiền đã đưa xác vợ đến rừng Thi Đà, và nhất là Đức Phật và đại chúng Tỳ Kheo cũng đang đến rừng ấy. Vua liền nghĩ: “Đức Thế Tôn nếu không vì lợi ích chúng sinh thì đến rừng Thi Đà làm gì? Ta nên đến xem việc này”, nghĩ rồi Vua liền ra lệnh quần Thần dùng xe cùng ra khỏi thành nhanh chóng đến rừng ấy.
Trong đại chúng đông đảo Trời Quỷ Thần Người, có cả Ni Kiền Đà và quyến thuộc đang ở bên cạnh Trưởng giả Thiện Hiền và quyến thuộc với xác người vợ đã được để trên dàn củi, có các đồ tang lễ chung quanh.
Khi Đức Phật vừa tới nơi, Ngài liền phóng ánh sáng chiếu khắp đại chúng. Ni Kiền Đà thấy thế liền nghĩ: “Sa Môn Cù Đàm hiện tướng ánh sáng cùng khắp, lẽ nào con Trưởng giả còn sống?” Nghĩ xong, ông ta nói với Trưởng giả Thiện Hiền:
- Trưởng giả, ta thấy Sa Môn Cù Đàm hiện tướng ánh sáng, ắt là con ông không chết.
- Thưa Thánh Thầy, nếu như vậy, con phải làm sao?
- Trưởng giả, nếu con ông còn sống thì nên cho vào học trong giáo pháp của ta.
Lúc ấy, Trưởng giả Thiện Hiền bèn châm lửa đốt dàn củi, khi lửa đang cháy, từ giữa bụng người chết tự nhiên sinh ra một hoa sen lớn, trong hoa sen có một hài nhi ngồi ngay thẳng. Ni Kiền Đà thấy thế, trong lòng buồn rầu, đứng yên lặng nhìn, Đức Phật đến gần dùng tay phải nâng hài nhi ra khỏi ngọn lửa đặt trên một tang lễ gần đó, rồi Ngài bảo Thiện Hiền:
- Ông đem đứa bé này về giữ gìn nuôi nấng.
Ni Kiền Đà nhìn Trưởng giả rồi nói nhỏ:
- Trưởng giả, trong ngọn lửa đốt xác chết bỗng dưng sinh ra đứa bé, việc này không an lành, ông không nên mang đứa bé này về nuôi.
Nghe lời Ni Kiền, Thiện Hiền lắc đầu không nhận đứa con mình. Đức Phật bảo thanh thiếu niên Thọ Mạng đứng gần đó:
- Anh có muốn nhận đứa bé này về nuôi không?
Thọ Mạng suy nghĩ rồi thưa:
- Trong nhà con không có chỗ chứa, vả lại việc này không phải việc của con.
Đức Phật lại bảo Trưởng giả:
- Đứa bé này là con của ông, ông nên đem về gìn giữ nuôi dưỡng.
Thiện Hiền quay qua nhìn Ni Kiền Đà, ý muốn hỏi ý kiến, Ni Kiền liền nói nhỏ:
- Trưởng giả, ông nên suy xét, đứa bé này là di vật của lửa, rất xui xẻo. Tuy lửa không đốt, nhưng tướng sao tốt được, nếu ông đem về gia đình ông sẽ bị phá hoại, gây nhiều tổn hại, không được thuận lợi, sau hối hận không kịp.
Thiện Hiền đã có tà kiến, lại nghe Ni Kiền nói vậy, thấy hợp ý, bèn từ chối không nhận đứa con; bấy giờ, Đức Phật bảo Vua Tần Bà Sa La:
- Đại Vương! Ông nên mang đứa bé này về cung nuôi dưỡng.
Vua thưa:
- Con xin vâng, đem đứa bé này về cung nuôi dưỡng, nhưng xin Thế Tôn đặt tên cho đứa bé này.
Đức Phật bảo:
- Đức bé này được sinh ra từ trong lửa, nên đặt tên là Hỏa, là Quang Minh.
Lúc ấy Vua Tần Bà Sa La bảo tùy tùng mang đứa bé về cung, rồi Vua tuyển chọn và giao Quang Minh cho 8 Cung nữ làm 8 người mẹ như sau:
+ Hai người làm Dưỡng Mẫu dạy dỗ nuôi dưỡng.
+ Hai người làm Nhũ Mẫu bú mớm cơm nước.
+ Hai người làm Tịnh Mẫu tắm rửa giắt giũ.
+ Hai người làm Hý Mẫu vui chơi học tập.
Tám Cung nữ luân phiên ngày và đêm trông coi từ bấy giờ cho tới khi Quang Minh trưởng thành, thương yêu, chăm sóc, dạy dỗ, chiều chuộng, không để thiếu sót; dần dần đến khi trưởng thành, Quang Minh trang nhã đẹp đẽ như một hoa sen từ ao trong mát mọc lên.
LỜI BÀN:
Trước hết, chúng ta nên biết: “Vô sở úy” của Đức Phật là gì? Là những điều Đức Phật không sợ mà người thường như chúng ta lại sợ, đó là:
- Không sợ lửa, Ngài có thể vào lửa không sao.
- Không sợ nước, biển, Ngài có thể vào trong nước trong biển không sao.
- Không sợ thú dữ rắn rết v.v... các loại dữ độc to nhỏ, Ngài không sợ bị hại.
- Không sợ Vua Chúa, dù Vua hiền Vua dữ, đều phải kính phục Ngài.
- Không sợ giặc cướp người ác, vì họ không thể hại được Ngài.
- Không sợ Trời, Quỷ, Thần, Ma, vì tất cả đều quy phục Ngài.
- Không sợ khổ não do bệnh, vì bệnh không làm Ngài buồn rầu.
Như chúng ta đã biết, Đức Phật có đủ thứ thần thông siêu việt, không việc gì chẳng thấy chẳng nghe chẳng biết, nên những việc xảy ra trong nhân gian, Ngài đều thấy nghe biết hết thảy.
Vậy lúc ấy Đức Phật thấy gì? Ngài thấy thế gian có nhiều người ác độc quá, mà họ không biết sẽ bị quả báo khổ về sau. Ngài thương cho chúng sinh ngay từ khi đang tạo nghiệp ác, vì thương chúng sinh đang khổ nơi Địa ngục, nên Ngài phóng ánh sáng từ bi cứu khổ cho vui chúng sanh. Ngài phóng ánh sáng lên các cõi Trời và cõi người để cảnh giác phải xa lìa làm ác.
Thiết nghĩ, trong lần phóng ánh sáng ấy, ngoài việc cứu khổ cho các chúng sinh ở Địa ngục và cảnh giác Trời Người, còn có mục đích là bảo vệ hài nhi trong bụng người chết.
Tại rừng Thi Đà có vô số Trời, Người, Thần, Quỷ, khi Đức Phật vừa tới nơi, Ngài lại liền phóng ánh sáng nữa, chiếu khắp xung quanh, để làm gì? Đây là Ngài trải lòng từ bi giữa hàng Trời Người Thần Quỷ ban điều không sợ hãi, ban điều lành.
Khi đang đốt xác chết, tự nhiên có hoa sen mọc từ giữa bụng xác chết mọc lên, rồi trên đài sen có hài nhi ngồi ngay thẳng.
Về điểm kỳ đặc này, người không biết Phật pháp không thể hiểu được sự nhiệm mầu, vì sự việc nằm ngoài sự suy nghĩ, trái với Khoa học, chúng ta không thể giải thích được; nhưng chúng ta có thể hiểu rằng các cõi siêu hình, thế giới vô hình như các vị Trời, Thần, Quỷ, Ma có thể làm được một số việc mà chúng ta không thể làm, và chúng ta không thể hiểu tại sao họ có thể làm được. Vì vậy việc hài nhi ngồi trong hoa sen từ trong bụng mẹ đã chết, hoa mọc lên, là điều có thể xảy ra đối với cõi vô hình. Nói vô hình, đây chỉ là đối với mắt con người bình thường mà nói, chứ chẳng phải đối với mắt Phật, mắt của các vị có Thiên nhãn, mắt của chư Thiên, Thần, Quỷ; vì các cõi ấy đang hiện diện, nhưng với mắt người bình thường chúng ta không thể nhìn thấy họ được, nên nói thế giới siêu hình, cõi vô hình là vậy.
Những điều khó hiểu ấy, chúng ta lấy thí dụ về ảo thuật là tầng bậc thấp; trong Đại Tạng Kinh thỉnh thoảng có nêu ra khi Đức Phật còn tại thế, có Bà La Môn thấy Ngài hiện thần thông nên khen ngợi Ngài làm ảo thuật hay, Ngài liền quở người ấy rằng Ngài không làm ảo thuật và Ngài bảo người ấy phải bỏ tà kiến ấy. Ngày nay, chúng ta đã thấy có người làm ảo thuật như chui qua cửa kính, đi trên mặt nước, đi trên không v.v...trước mắt nhiều người; chẳng ai hiểu tại sao họ làm được như vậy, như thế thì những việc xảy ra nói trong Kinh chúng ta chẳng nên nghi ngờ.
Cũng vì sự đố kị của Ni Kiền ngoại đạo đối với Đức Phật, nên ông ta đã tìm cách chỉ bảo cho Trưởng giả Thiện Hiền không nhận đứa bé. Sự từ chối ấy cũng là “số” đứa bé sung sướng, không bị khổ chết, tại sao? Vì nếu Trưởng giả Thiện Hiền nhận đứa bé đem về nuôi, sau đó Ni Kiền Đà mới gièm pha, sẽ làm người cha ác ấy tìm cách giết đi, sẽ khổ cho đứa bé. Nhưng đó chỉ là bàn cho có chuyện, chứ một đứa bé có phước báu, khó mà hại được vậy.
Đứa bé thực sự có phúc, nên đã được Vua nhận nuôi chứ không phải là thanh thiếu niên Thọ Mạng, vì được Vua nhận nuôi, nên Quang Minh có tới 8 bà Mẹ chứ không phải một Mẹ. Trong đời có ai được như thế không? Thông thường, chỉ có cha mẹ và một hai người giúp việc thôi, còn Quang Minh có tới tám bà Mẹ luân phiên ngày đêm nuôi dưỡng, chăm sóc, dạy bảo, đó là người có đại phước mới được như vậy.
3). DUYÊN NỐI CHA CON:
(Còn tiếp)
__._,_.___
https://vuxep.blogspot.com/2019/04/ton-gia-thi-ba-la.html
TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
VÀ
MỤC KIỀN LIÊN
NHẬP NIẾT BÀN
Toàn
Không
(Tiếp theo)
Bấy giờ Tôn giả
Đại Mục Kiền Liên đã diệt độ rồi, mặt đất chấn động rất lớn, Chư Thiên bảo nhau
hiện đến, hầu hạ Tôn giả, đem các thứ hương hoa đến cúng dàng công đức, trên
không trung nhạc Trời vang lên, chung quanh thôn Nan La Đà một do tuần (18 cây
số), chư Thiên đầy cả; bấy giờ có nhiều chúng Tỳ Kheo mang các thứ hoa hương
rải trên thân Xá Lợi của Tôn giả Mục Kiền Liền . . . .
--- : : ---
Từ thành La Duyệt, Đức Phật tuần tự du
hóa trong nhân gian, đến thôn Nan La Đà cùng với 500 Tỳ Kheo, lúc ấy, hai Tôn
giả diệt độ chưa được bao lâu, Đức Phật ngồi giữa khoảng đất trống, Ngài im
lặng quan sát các Tỳ Kheo xong bảo:
- Nay Ta quan sát
các Thầy trong chúng này bị tổn giảm to lớn Vì sao thế? Nay trong chúng này
không có Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, nếu phương nào có Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên, phương đó chẳng trống rỗng, vì hai Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền
Liên ưa kham nhận hàng phục ngoại đạo.
Việc làm của Chư Phật rất kỳ đặc: có hai đệ tử trí tuệ và thần túc nhập Niết
Bàn, nhưng Như Lai không buồn rầu. Ngay cả vô số Chư Phật trong quá khứ cũng có
đệ tử trí tuệ, thần túc, và các chư Phật tương lai cũng sẽ có đệ tử trí tuệ, thần
túc như thế.
Tỳ Kheo nên biết, thế gian có hai nghiệp thí, đó là tài thí và pháp thí, nếu
luân về tài thí thì nên theo Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên mà cầu. Nếu
muốn cầu pháp thí, nên theo cầu Ta, Như lai không có tài thí; hôm nay các Thầy
có thể cúng dàng Xá Lợi của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.
Lúc ấy, Tôn giả A Nan Đà đứng lên cúi đầu lễ Phật rồi hỏi:
- Thưa Thế Tôn, làm
sao cúng dường Xá Lợi của Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên?
Đức Phật dạy:
- Nên lập tháp ở
ngã tư đường lớn để Xá Lợi ở trong đó rồi dùng các thứ hương hoa cúng dường. Có
bốn loại tháp nên lập, đó là: Chuyển Luân Thánh Vương, A La Hán lậu tận (hết ô
nhiễm ở đời), Bích Chi Phật, và Phật. Tại sao?
1. Chuyển Luân
Thánh Vương:
Là Đại Vương nhân đức tu hành và dạy người mười điều thiện là: 1- Không sát
sanh, 2- Không trộm cướp, 3- Không tà dâm, 4- Không nói dối, 5- Không nói hai
chiều, 6- Không nói thêu dệt, 7- Không nói ác, 8- Không tham lam, 9- Không sân
hận, 10- Không tà kiến; Chuyển Luân Thánh Vương có 10 công đức tu thiện và dạy
người khác tu 10 điều thiện, nên xứng đáng lập tháp thờ.
2. A La Hán lậu tận: A La Hán lậu tận
không còn thụ thân sau nữa, trong sạch ba độc (tham sân si), năm kết sử (tham
ái, sân hận, hôn trầm uể oải, trạo hối dao động, nghi ngờ) không còn xuất hiện.
Do đó, A La Hán lậu tận xứng đáng dựng tháp thờ.
3. Bích Chi Phật: Không thầy tự ngộ,
trừ sạch các kết sử và ba độc, không thọ thân sau nữa. Do đó Bích Chi Phật xứng
đáng xây tháp thờ.
4. Phật: Chư Phật có Thập lực,
Tứ vô sở úy, kẻ không hàng phục bị hàng phục, kẻ không độ được độ, kẻ không đắc
đạo khiến cho đắc đạo, người không nhập Niết Bàn khiến cho nhập Niết Bàn; mọi
người thấy rồi đều hết sức vui mừng, do đó, Như lai xứng đáng được dựng tháp thờ.
LỜI BÀN:
Chúng ta thấy ngay từ đầu của Kinh này, Đức Phật và 500 đại Tỳ Kheo đều cùng muốn
từ vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ đến vườn trúc Ca Lan Đà nước Ma Kiệt để nhập hạ.
Tại nơi đây, ngày Đức Phật mới thành đạo và lập Tăng đoàn chưa được bao lâu,
Ngài thu nhận hai đệ tử quan trọng, đó là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Chỉ ít
ngày sau thu nhận hai vị đệ tử này, Đức Phật tuyên bố hai vị là Tỳ kheo thượng
thủ, trong khi trước đó vài tháng Ngài đã thâu nhận hơn một nghìn đệ tử rồi.
Khi tất cả đã đến vườn trúc Ca Lan Đà tại thành La Duyệt đông đủ, trước các Tỳ
Kheo, Đức Phật nói rằng: “- Nay 1250 Tỳ Kheo vì các Thầy mà nhập hạ ở đây,
nhưng Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên sắp diệt độ. Thế nào, Xá Lợi
Phất, Thầy có kham nhận thuyết diệu pháp cho các Tỳ Kheo chăng?” Tại sao Đức
Phật nói những lời này?
Chúng ta không biết là có hay không sự thưa hỏi Đức Phật về sự nhập diệt của
hai Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên trước khi Ngài và 500 đại Tỳ Kheo từ
vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ đi đến vườn Ca Lan Đà nước Ma Kiệt. Nhưng câu: “Nhưng
Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên sắp diệt độ”, chúng ta thấy câu nói
trên của Đức Phật là một lời thụ ký. Lại bởi nơi ấy trước kia hai Tôn giả nhập
Tăng đoàn, nơi ấy gần nước Ma Sấu là quê hương của hai Tôn giả, và vì hai Tôn giả
nên lần ấy các Tỳ Kheo đến nhập hạ tại vườn trúc Ca Lan đà vậy.
Bởi vậy tất cả những diễn biến xảy ra sau đó, đều không ngoài dự kiến của Đức
Phật, vì Ngài đã biết hết sự việc sẽ diễn biến như thế nào nên Ngài mới nói thế
ấy.
Việc Đức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phất thuyết pháp, đó cũng là do Ngài muốn Tôn
giả để lại những lời thuyết giảng sau cùng cho các Tỳ Kheo trước khi diệt độ.
Sau khi Tôn giả Mục Kiền Liên bị vây đánh nát thân thể, phải dùng thần túc để đến
chỗ Tôn giả Xá Lợi Phất. Xuyên qua hỏi đáp của hai vị, Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi:
“Tại sao có thần thông mà không tránh đi?” Tôn gỉa Mục Kiền Liên đáp: “Xưa
kia tôi tạo nghiệp quá sâu nặng nên dẫn đến thụ báo không thể tránh được, chẳng
phải khi không mà thọ báo này. Thân tôi đau nhức do dập gẫy nên đến từ giã Hiền
giả để nhập Niết Bàn.
Nhưng trong vấn đề này, chính Tôn giả đã nghe Đức Phật nói: “Nhưng Tỳ Kheo
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên sắp diệt đô.” Một lời dự ký như thế hẳn đã ở
trong đầu hai Tôn giả rồi, nên khi sự việc xảy ra, Tôn giả Mục Liền Liên không
hề dùng thần thông để tránh, mà sẵn sàng nhận nghiệp báo đến với mình.
Rồi Tôn giả Xá Lợi Phất lại hỏi: “Các Tỳ Kheo tu Tứ Thần Túc thường nói: “Nếu
họ có ý muốn trụ lại một kiếp hay hơn một kiếp, cho đến chẳng diệt độ, thì họ có
thể làm được” Sao Hiền giả không trụ lại?” Tôn giả Mục Kiền Liên trả lời: “Thế
Tôn chẳng bao lâu nữa sẽ nhập Niết Bàn, tôi không chịu nổi việc thấy Thế Tôn nhập
Niết Bàn.”
Thiết nghĩ Tôn giả Xá Lợi Phất đặt câu hỏi như thế để xem ý của Tôn giả Mục
Kiên Liên ra sao, chứ trong ý của Tôn giả Xá Lợi Phất cũng đã biết ngay khi
nghe Đức Phật thọ ký: “Tỳ Kheo Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên sắp diệt độ”.
Do đó Tôn giả Xá lợi Phất không hỏi nữa mà bảo Tôn giả Mục Kiên hãy chờ để Tôn
giả Xá Lợi Phất nhập diệt trước; việc hai Tôn giả xin Đức Phật cho phép trước
khi nhập diệt là cung cách của ngươi đệ tử thượng thủ của tôn sư là bậc Phật
không thể thiếu sót vậy.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment