TU MA ĐỀ LẤY CHỒNG
Toàn Không
Trưởng giả Cấp Cô Độc có con gái tên Tu
Ma Đề, nhan sắc đẹp đẽ, đoan chính, thùy mị, lễ phép, hiếm có trên đời; bấy giờ
có Trưởng giả Mãn Tài tại thành Mãn Phú là bạn với Trưởng giả Cấp Cô Độc, có
chút việc đến thăm Trưởng giả Cấp Cô Độc. Sau khi trông thấy Tu Ma Đề, ông hỏi
Trưởng giả Cấp Cô Độc:
- Có phải cô gái vừa rồi là con
gái ông không?
Trưởng giả Cấp Cô Độc trả lời:
- Phải, đó là con gái tôi đấy.
- Cháu đã có nơi nào hỏi chưa?
Tôi có con trai tới tuổi trưởng thành chưa có vợ, tôi có thể làm thông gia với
ông được không?
- Việc này không nên, mặc dù
dòng họ và tài sản hai bên tương xứng, nhưng việc ông thờ thần và cúng tế thì
khác với tôi.
- Mỗi bên chúng ta sẽ thờ phụng
riêng, con ông sẽ phụng sự riêng, tự do, tôi không thấy có gì trở ngại.
- Nếu con gái tôi làm dâu nhà
ông thì ông tốn tài sản rất nhiều, có thể nói là tới sáu vạn lạng vàng.
Trưởng giả Cấp Cô Độc nói vậy với mục
đích từ chối, không ngờ Trưởng giả Mãn Tài trả lời ngay không cần suy nghĩ:
- Được, tôi hoàn toàn đồng ý như
ông đã nói.
- Tôi còn một điều nữa là cần
đến hỏi Đức Thế Tôn (Đức Phật) hiện ở không xa đây, nếu Ngài có dạy điều gì tôi phải vâng làm và sẽ trả
lời ông lần chót; vậy ông hãy chờ ở đây, không lâu tôi sẽ trở lại ngay.
Trưởng giả Cấp Cô Độc sắp xếp mau chóng,
đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi đứng qua một bên thưa:
- Con gái Tu Ma Đề của con được
Trưởng giả Mãn Tài bên thành Mãn Phú cầu hôn cho con trai, xin Thế Tôn chỉ dạy,
con nên gả hay không?
Đức Phật bảo:
- Nếu gả Tu Ma Đề sang nước đó
sẽ có nhiều lợi ích không thể đo lường.
Nghe Phật nói thế, Trưởng-giả Cấp Cô Độc
vui mừng cúi lạy, nhiễu Phật ba vòng rồi trở về bảo Trưởng giả Mãn Tài:
- Việc gả con gái tôi cho con
trai ông đúng như những gì mà chúng ta đã nói. Vậy đúng 15 ngày ông đưa con
trai với đầy đủ lễ vật để đón con gái tôi tại biên giới giữa hai nước.
1). TU MA ĐỀ VỀ NHÀ CHỒNG:
Hai Trưởng giả đều vui mừng phấn khởi rồi
chia tay. Đúng 15 ngày, mọi việc sửa soạn xong, Trưởng giả Mãn Tài với con trai
cùng sính lễ trên đoàn xe từ Mãn Phú đi qua. Trưởng giả Cấp Cô Độc cũng đã
chuẩn bị cho con gái quần áo, trang điểm diễm lệ cùng hành trang trên đoàn xe
từ Xá Vệ đi tới, hai bên gặp nhau ở biên giới hai nước. Họ gặp nhau làm thủ tục
nghi thức cưới, rồi hai bên chia tay, bên đàng trai rước cô Dâu về thành Mãn
Phú.
Bấy giờ tại thành Mãn Phú có lệ là gả con
gái hay cưới cho con trai người nước khác thì sẽ bị phạt bằng cách phải mời tất
cả Phạm chí (người dòng Bà La Môn xuất gia tu tập mong sinh cõi Trời Phạm
Thiên) ăn một bữa cơm với thịt lợn (heo), canh thịt lợn, và rượu.
Trưởng giả Mãn Tài biết luật lệ này nên
cho sửa soạn cơm thịt rượu, rồi mời hết thảy 6,000 (sáu nghìn) Phạm chí trong
nước đến; khi các Phạm chí đến, họ mặc hoặc áo da trắng hoặc có lông thú, nhưng
khi vào nhà họ đều vắt lệch lên vai phải để lộ nửa người.
Trưởng giả Mãn Tài qùy gối trước cửa nhà
đón tiếp cung kính làm lễ, khi mọi người đã ngồi xong đâu đó, thì Trưởng giả
vào trong bảo Tu Ma Đề ra làm lễ các thầy, Tu Ma Đề từ chối nói:
- Thôi, thôi, thưa cha, con
không thể ngó thấy và làm lễ mấy người khỏa thân được.
Trưởng giả bảo:
- Đây không phải người khỏa
thân, không có gì phải hổ thẹn cả, đó là lối pháp phục của họ từ xưa đến nay là
như thế đấy.
Tu Ma Đề thưa:
- Đây là những người không biết
hổ thẹn nên mới bày thân thể ra ngoài, có dùng pháp phục gì đâu; xin cha nghe
con, Thế Tôn thường nói: “Có hai nhân
duyên mà người đời qúy đó là hổ và thẹn. Nếu không có thì cha mẹ, anh em, dòng
họ, thân tộc tôn ti cao thấp không thể phân biệt giống như loài vật như gà,
chó, lợn, dê, lừa, ngựa”. Thật con không thể lễ bái họ được.
Anh chồng cũng đến bảo:
- Nay cô nên ra làm lễ các thầy,
vì các Ngài đều là Trời mà gia đình tôi phụng sự.
Tu Ma Đề đáp:
- Tôi không thể lễ những người
khỏa thân không biết hổ thẹn giống như loài vật, tôi không thể lễ chó heo lừa
được.
Anh chồng quát lên:
- Ngậm miệng lại, không được nói
bậy; đây chẳng phải dối gạt, cách mặc như thế chỉ là pháp phục.
Bấy giờ Tu Ma Đề khóc òa lên, kể lể:
- Thà cha mẹ, bà con tôi mất
mạng, thân chặt ra năm mảnh, tôi trọn không nghe theo điều tà kiến (sai lầm).
Các Phạm chí đều nghe thấy những lời
tranh cãi như thế, bèn lớn tiếng nói:
- Thôi thôi, Trưởng giả, vì sao
để đứa tiện tỳ này chửi mắng như thế? Nếu thỉnh mời thì dọn thức ăn mau đi.
Trưởng giả, chồng Tu Ma Đề và các người
phục dịch vội mang đầy đủ cơm rượu thịt tiếp đãi cung kính các Phạm chí; họ ăn
uống no say, bàn luận chút đỉnh, rồi
đứng lên đi về.
Chiều hôm ấy, có một Phạm chí bạn thân
trước kia với Trưởng giả tên Tu Bạt từ xa đến thăm. Khi gặp mặt thấy Trưởng-giả
buồn rầu, Phạm Chí hỏi:
- Sao mà sầu lo đến thế, chẳng
lẽ bị quan hạch tội, hay bị trộm cướp bệnh hoạn?
- Chẳng có những việc ấy, nhưng
trong nhà có việc không vừa lòng, đó là tôi cưới con gái Trưởng giả Cấp Cô Độc
bên thành Xá Vệ cho con trai tôi nên phạm luật nước, phải mời các thầy đến đông
đủ dùng cơm; rồi tôi bảo con dâu tôi ra làm lễ các thầy, nhưng nó không vâng
lời còn nói lời vô lễ đối với các thầy, nên tôi buồn khổ; rồi ông kể hết sự việc
đã xảy ra cho Phạm chí nghe.
Phạm chí Tu Đạt nghe xong nói:
- Trưởng giả, thật lạ lùng, cô
gái này còn có thể sống mà không cắn lưỡi tự sát hay nhảy từ lầu xuống tự tử
thì thật là may mắn lắm đó, vì các Thầy mà cô gái này phụng sự đều là những người
phạm hạnh (tu hành giữ giới
đầy đủ, nhất là diệt dâm dục, để đạt thanh tịnh) chưa từng có.
Trưởng giả nói:
- Nghe ông nói tức cười, ông là
Phạm chí dị học, sao lại khen ngợi Sa môn (Tu sĩ); họ có oai đức thần biến gì
hơn ông và 6,000 Phạm chí ở thành này?
Phạm chí nói:
- Trưởng giả, muốn nghe thần đức
của các Sa môn, thầy của con dâu ông, tôi kể sơ để ông rõ. Có một lần tôi đến
phía Bắc núi tuyết sơn đi khất thực trong nhân gian xong, bay đến suối A Nậu
Đạt. Ở đó, Trời, Qủy, Thần từ xa thấy tôi đến, đều cầm khí giới đến bảo tôi: “Ông Tiên Tu Đạt, chớ đến suối này, đừng làm
dơ bẩn suối; nếu không nghe lời thì tính mạng ông sẽ bị cắt đứt”, tôi nghe
họ nói thế, bèn bỏ đi khỏi suối đó đến chỗ không xa mà ngồi ăn. Khi tôi còn
đang ăn, có một Sa di (người mới tu chưa tới 5 năm) bay đến
suối A Nậu Đạt tay cầm bát, tay cầm áo dơ bẩn. Khi ấy tôi thấy Trời, Qủy, Thần
cho đến đại Thần suối A Nậu Đạt đều cung kính nghênh đón và nói: “Kính chào
thầy của loài người, xin mời ngài đến đây ngồi”. Bấy giờ Sa di ấy đem cái áo
ngâm trong nước, rửa tay, sau đó mới ngồi ăn ngay giữa suối nước trên cái bàn
bằng vàng. Sau khi ăn xong Sa di rửa bát rồi ngồi kiết già trên bàn ấy mà nhập
định. Sau khi xuất định, Sa di ấy giặt áo dơ, tôi thấy Trời, Qủy, Thần hoặc kỳ
cọ chỗ bẩn, hoặc lấy nước giội vào áo cho sạch; giặt xong, vị ấy phơi áo trên
hư không và lại ngồi thiền định. Một giờ sau, vị ấy lấy áo, rồi đi ngang qua
chỗ tôi ngồi thiền, tôi bèn chào hỏi mới biết là Sa Di Quân Đề là đệ tử nhỏ nhất. Trưởng giả nên biết, thầy của
con dâu ông, vị nhỏ nhất cũng có thần lực như thế, huống nữa là các đệ tử lớn
hơn, có ai bì kịp; huống chi là vị thầy của tất cả, đó là Sa môn Cù Đàm, Đức
Như Lai.
2). ĐỨC PHẬT THỊ HIỆN THẦN LỰC:
(Còn tiếp)
TU MA ĐỀ
LẤY CHỒNG
Toan Khong
(Tiep theo)
2). ĐỨC PHẬT THỊ HIỆN THẦN LỰC:
Nghe câu
chuyện trên, Trưởng giả hỏi Phạm chí:
- Chúng ta có thể thấy thầy của con
dâu tôi không?
Phạm
chí đáp:
- Hãy hỏi con dâu ông.
Trưởng
giả liền cho gọi con dâu đến và nói:
- Nay cha muốn được gặp thầy của
con, con có thể thỉnh
mời được không?
Tu Ma
Đề nghe nói, vui mừng thưa:
- Xin cha cho sửa soạn cơm chay cho
đủ 1250 vị, ngày mai Như Lai (Đức Phật) sẽ đến đây, có các đệ tử Tỳ kheo
đi theo Ngài, con trách nhiệm trong việc mời thỉnh.
Tu Ma
Đề tay bưng lò hương lên lầu, chắp tay hướng về phiá Tịnh xá Kỳ Hoàn nước
Xá Vệ, nơi có Phật mà khấn nói:
- Cúi mong Thế Tôn khéo quán sát,
không việc gì chẳng biết, không việc gì chẳng xét. Nay con là Tu Ma Đề,
con gái Trưởng giả Cấp Cô Độc, lấy chồng về nước Mãn Phú. Nay con
đang ở chỗ nguy khốn, cúi mong Thế tôn đoái tưởng mà đến đây vào sáng
ngày mai.
Rồi Tu Ma Đề nói kệ tán thán Phật đã
từng hàng phục Qủy Thần, hàng phục kẻ sát nhân, hàng phục voi dữ,
v.v... và xin Như Lai đoái tưởng.
Bấy
giờ Tôn giả A Nan thấy hương khói bay trong Tịnh xá, liền bạch Phật:
- Hương khói ở đâu mà lan đến Tịnh
xá này? Xin Thế Tôn chỉ dạy.
Đức
Phật bảo:
- Khói hương này là do Tu Ma Đề, con
gái Trưởng giả Cấp Cô Độc thỉnh Ta từ thành Mãn Phú; Thầy hãy tập
trung các Tỳ kheo lại, phát thẻ cho các Tỳ kheo A La Hán để ngày mai
đến thành Mãn Phú thọ thỉnh của Tu
Ma Đề.
Khi
các đệ tử tề tựu đông đủ, Tôn giả A Nan phát thẻ rồi Thế Tôn bảo một
số Thánh Tăng ngày hôm sau đi trước và Ngài sẽ đến sau.
Sáng
sớm hôm sau, người cận sự của chúng Tăng tên Càn Trà vác một cái chảo to
lớn, bay lên hư không đến thành kia, đi ba vòng, rồi xuống nhà Trưởng giả,
nhiều người trong
thành trông thấy, Trưởng giả hỏi Tu
Ma Đề:
- Đây có phải là thầy con không?
Tu Ma
Đề đáp:
- Đây là Cư sĩ giúp chúng Tăng trong
việc cơm nước, vị này có đủ ngũ thông.
Sau
đó lại có Sa di Quân đề Tu Bạt là đệ tử của Tôn giả Xá Lợi Phất, hóa hiện
ra rất nhiều loại cây bông hoa, bay trên không, tới thành Mãn Phú bay ba
vòng quanh thành, rồi hạ xuống nhà Trưởng giả. Trưởng giả thấy thế hỏi:
- Đây có phải là thầy con không?
- Không phải, người đó là đệ tử của
đệ tử của Phật.
Rồi
Tôn giả Bàn Đặc mặc áo xanh, hóa hiện ra năm trăm Trâu xanh, ngồi
kiết già trên mình trâu đi trên hư không đến nhà thì đàn trâu biến mất,
Trưởng giả liền hỏi:
- Đây có phải thầy con không?
Con
dâu trả lời:
- Không phải, đây là đệ tử Phật.
Tiếp
đến, Tôn giả La Vân hóa hiện ra năm trăm chim Khổng tước, đủ màu sắc sặc
sỡ đẹp đẽ, ngồi kiết già trên lưng chim bay đến nhà. Trưởng giả trông thấy
hỏi:
- Đây chắc là thầy con?
Con
dâu thưa:
- Không phải, đây chính là con ruột
của Phật.
Tiếp
đến, Tôn giả Ca Thất Na hóa hiện năm trăm chim Cánh vàng dũng mãnh, ngồi
kiết già trên mình chim bay rợp trời đến nhà. Từ xa thấy, Trưởng giả hỏi:
- Đây có phải là thầy con không?
- Không phải, đây là đệ tử của Phật.
Sau nữa,
Tôn giả Ưu tỳ Ca Diếp hóa hiện 500 Rồng đều có bảy đầu, ngồi kiết già trên
mình Rồng cuốn vút như gió đến nhà, Trưởng giả lại hỏi:
- Đây hẳn là thầy con?
Tu Ma
Đề thưa:
- Chẳng phải, Tôn giả này cũng là đệ
tử của Phật và có hàng nghìn đệ tử.
Tiếp
theo là Tôn giả Tu Bồ Đề, hóa hiện núi Tu Di Lưu ly trong vắt, ngồi kiết
già trong hang, núi bay lơ lửng đến trên thành. Trưởng giả thấy thế hỏi:
- Đây phải thầy con không?
Con
dâu đáp:
- Không phải, đây là Tôn giả Tu Bồ Đề,
đệ tử của Phật.
Lại đến
Tôn giả Ca Chiên Diên hóa hiện năm trăm Ngỗng trắng, ngồi kiết già trên
lưng ngỗng bay rợp trời đến.
Trưởng giả thấy hỏi:
- Đây là thầy con chăng?
Con
dâu đáp:
- Chẳng phải thầy con, đó là Tôn giả
Đại Ca Chiên Diên.
Rồi
Tôn-giả Việt Ly hóa hiện ra năm trăm con mãnh Hổ (Cọp), cưỡi trên lưng hổ
trên hư không chạy đến, Trưởng giả trông thấy lại hỏi:
- Đây có phải là thầy con không?
Tu Ma
Đề đáp:
- Không phải, đấy là Tôn giả Việt
Ly, là đệ tử của Phật.
Kế đến Tôn
giả A Na Luật hóa hiện năm trăm Sư tử rống vang, cưỡi trên mình Sư tử chạy
như bay trên không đến.
Trưởng giả hỏi:
- Đây chẳng phải thầy con sao?
Tu Ma
Đề đáp:
- Đó là Tôn giả A Na Luật là đệ tử
Phật, vị này không thấy đường mà có Thiên nhãn thông nhìn thấy cả nghìn
thế giới.
Tiếp đến
Tôn giả Đại Ca Diếp hóa hiện ra năm trăm con Ngựa vàng, cổ đeo nhạc, hý
vang, có lông đuôi đỏ chói, ngồi trên mình ngựa, chạy trên không như bay,
có hoa trời rải khắp mà đến. Trưởng giả thấy thế hỏi:
- Chắc đây là thầy con?
Tu Ma
Đề thưa:
- Cũng không phải, đây là Tôn giả
Đại Ca Diếp, đệ tử nối pháp của Phật.
Rồi đến
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên hóa hiện ra năm trăm Voi trắng lớn có sáu ngà
trang sức vàng bạc, ngồi trên mình voi, phóng ánh sáng chói lòa cùng khắp,
đi trong hư không, có âm nhạc trời với phướn lọng trong hư không rất kỳ
diệu mà đến. Thấy thế, Trưởng giả lại hỏi:
- Chắc hẳn đây là thầy con?
Tu Ma
Đề đáp:
(Con Tiep)
Toàn Không
(Tiếp theo)
Tu Ma
Đề đáp:- Không phải là Thế Tôn, đây là đệ tử của Phật, thần
túc bậc nhất, tên là Đại Mục Kiền Liên.
Mỗi vị
vừa kể đều đi 3 vòng trên thành Mãn Phú, rồi xả thần biến khi xuống nhà
Trưởng giả; lúc này, Thế Tôn biết đã đến giờ, Ngài khoác áo Tăng già lê,
đi trên hư không cách bảy nhẫn (một nhẫn bằng 8 thước ta, mỗi thước
ta bằng khoảng 2 gang tay) Tôn giả A Nhã Câu Lân hóa hiện làm Nguyệt
Thiên (mặt trăng) ở bên trái, Tôn giả Xá Lợi Phất hoá hiện làm Nhật Thiên
(mặt trời) ở bên phải, Tôn giả A Nan nương oai thần của Phật đứng
phiá sau tay cầm Phất trần.
Hơn 1,200 đệ tử vừa Thánh vừa
phàm nương oai thần của Phật vây quanh trên hư không vùng Tịnh xá Kỳ Hoàn
như thế; lúc ấy cũng có Vua Trời Phạm Thiên Vương tới đứng phiá bên phải
của Phật, Vua Trời Đế Thích tay cầm Phất tử đứng phiá bên trái, Lực
sĩ Kim Cang Mật Tích ở phiá sau tay cầm Chày Kim cang, Tỳ Sa môn Thiên
Vương tay cầm Lọng bảy báu lớn che cho Phật.
Bàn giá Tuần và các Thiên Thần,
kẻ hoà nhạc, kẻ xướng ca công đức vô biên của Phật. Chư Thiên rải
muôn hoa muôn màu trên Phật và chúng Tỳ kheo.
Bấy giờ Trưởng giả
Cấp Cô Độc, Vua Ba Tư Nặc, và nhân dân thành Xá Vệ đều thấy cảnh ấy tán
thán không ngớt, trong khi đó, Phật đem các Tỳ kheo cùng chư Thiên
Thần vô số kể đi như chim Phượng hoàng trong hư không đến thành Mãn
Phú.
Dân chúng cả thành đều thấy những
cảnh tượng thù thắng như thế suốt từ sáng cho đến giờ phút ấy.
Bấy giờ Trưởng giả Mãn Tài nói kệ để
hỏi con dâu: Đây là ánh trời chăng?
Chưa hề thấy vẻ này,Mấy nghìn vạn ức
tia,Không dám nhìn chăm chú.
Tu Ma
Đề gật đầu, rồi qùy xuống, chắp tay hướng về Phật nói kệ đáp:
Chẳng
trời, không chẳng trời,Thường phóng nghìn thứ sáng,
Vì
tất cả chúng sanh,Đây đúng thật Thầy con,Trời Người khen Như Lai,Qủy Thần sợ
oai Phật,Nay sẽ được qủa lớn,Cần siêng cúng dường Ngài.
Trưởng giả Mãn Tài liền qùy gối phải, chắp tay ngước lên, dùng kệ tán thán
Phật là bậc tối thắng đẹp hơn Thiên Đế, sáng hơn mặt trời, tôn qúy bậc
nhất trong trời đất, không có loài hữu hình vô hình nào sánh cùng Phật,
và xin được tự quy y mạng với bậc chí tôn.
Lúc
ấy Phật đưa các đệ tử xuống khoảng đất trống, rồi bỏ thần túc, bình thường
đi vào nhà Trưởng giả; khi Ngài vừa bước tới cửa thì trời đất rung động
mạnh, nhân dân hoảng sợ, Ngài bảo: “Đừng sợ, trời đất chấn động
là do Như Lai đây thị hiện thần lực mà ra”.
Mọi người
thấy dung mạo Ngài các căn tịch tĩnh, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp trang
nghiêm, nên đều tự nói: “Tại sao chúng ta lại không biết vị thượng
tôn cực diệu như thế này, mà đi thờ những Phạm chí kém cỏi không
thể sánh được như thế ấy?”
Thế là họ nói từ người này qua
người kia, họ cùng tới để chiêm ngưỡng Phật và chúng Tỳ kheo. Số người đến
mỗi phút mỗi đông hơn, thấy vậy, Thế Tôn hóa hiện nhà Trưởng giả
thành lưu ly trong suốt, trong ngoài đều thấy hết, để cho nhân dân
được lợi lạc chiêm ngưỡng.
Khi ấy Tu
Ma Đề đến trước Phật qùy lạy và nói điều cảm tạ Phật đã đáp lời khấn của
cô mà đến, nhưng không hiểu vì ác duyên nào mà cô chịu khổ ở nơi đây, xin
Phật dứt nghi cho. Phật trả lời là do lời thệ nguyện cứu chúng sanh
trước kia mà Tu Ma Đề đến nơi này, và cũng vì vậy mà được trí tuệ
sáng suốt và khiến Trời, Người thấy được Tu Ma Đề như một hạt châu sáng,
không có gì phải buồn lo cả; Tu Ma Đề nghe Phật nói vô cùng mừng rỡ.
Lúc ấy
Trưởng giả thấy Phật và chư Tỳ kheo đã an tọa xong, ông cùng các người hầu
bưng thức ăn đủ món dâng lên cúng dàng đầy đủ. Khi ông thấy Thế Tôn và
chư Tăng đã thọ trai xong, ông cho dọn dẹp sạch sẽ, rồi cùng Tu Ma Đề
và thân quyến ngồi ngay trước măt Thế Tôn.
Lúc ấy cũng có vô số kể nhân dân
ngồi chung quanh xa gần mà nghe. Thế Tôn nói giới luận, thí luận, luận
sinh Thiên, dục là bất tịnh, lậu là dơ xấu, xuất gia là cần yếu; Thế
Tôn thấy Trưởng giả, Tu Ma Đề, và 84,000 (vô số) nhân dân tâm ý khai mở,
Ngài liền thuyết các pháp khổ, nguyên nhân gây ra khổ, cách diệt khổ, và
con đường tiến tới đạo.
Khi ấy, mọi người đều sạch hết trần
cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, không còn hồ nghi, được sự không sợ
hãi, mọi người đều xin quy y Tam Bảo, thụ trì ngũ giới (không sát sinh,
không trộm cướp, không nói dối, không tà dâm, không uống rượu); Phật chấp
thuận hết thảy.
Trước Phật, Tu Ma Đề nói kệ: Như Lai
tai trong suốt,Nghe con gặp nạn này,Giáng thần đến đây xong,Mọi người được pháp
nhãn.
Thế Tôn
thuyết pháp xong, liền từ chỗ ngồi đứng lên cùng các Tỳ kheo dùng thần
thông y như lúc tới để trở về Tịnh xá Kỳ Hoàn; mọi người đều qùy gối,
ngước lên trời mà vái Phật và chúng Tăng đang xa dần bầu trời thành Mãn Phú.
Bấy giờ
các Phạm chí bảo nhau: “Chúng ta không thể sánh kịp với Sa môn Cù Đàm,
nhân dân trong nước này đã bị Sa môn Cù Đàm hàng phục rồi, chúng ta không
nên ở đây nữa, mà nên đi đến nước khác”, thế rồi họ lần lượt bỏ nước
Mãn Phú mà đi.
Ví như Sư tử chúa của các loài thú, có
oai thần, khi rống lên các loài thú đều sợ hãi bay chạy mất hoặc nép phục
ẩn núp, hoặc bỏ đi; các Phạm chí đối với Thế Tôn có đại oai lực cũng
như vậy.
Hôm sau,
khi các Tỳ kheo tụ tập ở giảng đường, có một Tỳ kheo bạch Phật:
- Xưa cô Tu Ma Đề tạo nhân gì mà là
con Trưởng giả Cấp Cô Độc và lại đọa vào nhà tà kiến?
Và vì lý do gì cô được pháp
nhãn (có con mắt nhận ra các pháp một cách tường tận) và lại tạo cho
vô số nhân dân cũng được pháp nhãn như thế, xin Thế Tôn giải thích cho
chúng con.
Đức Phật bảo:-
Trong quá khứ của Hiền kiếp này, lúc đó có Phật Ca Diếp, Ngài ở tại nước
Ba La Nại, du hóa cùng 20,000 đại chúng Tỳ-kheo. Bấy giờ vua Ái Mẫn có con
gái tên Tu Ma Na, cô này có tâm cung kính Phật, vâng giữ giới cấm, hằng ưa
bố thí, ái Kinh, lợi người và đồng lợi.
Cô
thường ở trước Phật tụng pháp cú (những lời Phật nói) và phát nguyện
rộng lớn rằng: “Con hằng có pháp tứ ái và ở trước Như Lai tụng
pháp cú, nếu con có chút phúc nào, con cầu khi sinh ra không rơi vào ba
đường ác (Địa ngục, Súc sinh, Ngạ qủy), cũng không vào nhà nghèo,
đời vị lai cũng gặp Phật ra đời, cho con chẳng chuyển sang thân Nam mà
được pháp nhãn thanh tịnh”.
Nhân dân
trong nước nghe được Vương nữ thệ nguyện sâu rộng như thế, vô số người đến
gặp, ca tụng công đức Vương nữ đã phát nguyện, nhân dân cũng muốn được
đồng lợi như thế.
Bấy giờ Vương nữ bảo:- Tôi đem công
đức này cùng thí hết thảy nhân dân các người, nếu về sau gặp được Như Lai
thuyết pháp, tất cả đều đồng được độ.
Các thầy
chớ có nghi, vua Ai Mẫn lúc ấy, nay là Trưởng giả Cấp Cô Độc, Vương
nữ lúc ấy nay là Tu Ma Đề, nhân dân lúc ấy, nay là nhân dân nước Mãn Phú.
Do lời thệ nguyện trước kia nay gặp Ta,
nghe pháp được độ, và được pháp nhãn thanh tịnh, là vì nhân duyên
ấy.,.
__._,_.___
Posted
by: Tien Do