===---------------
TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
VÀ TRƯỞNG GIẢ
CẤP CÔ ĐỘC
Toàn Không
Khi Đức Phật trở lại du hóa tại nước Xá Vệ trong rừng Đồng Tử Thắng, đạo
tràng Kỳ Hoàn, thì Trưởng giả Cấp cô Độc mang bệnh hiểm nghèo; hôm ấy,
Trưởng giả Cấp cô Độc bảo một người làm sứ-giả đi đến đảnh lễ và thăm
hỏi Đức Phật, rồi sau đó đến đảnh lễ Tôn giả Xá lợi Phất.
Người này nói ý nguyện của Trưởng giả
muốn được gặp Tôn-giả Xá lợi Phất, nhưng vì Trưởng giả bị bệnh trầm
trọng nên không thể đến được, và xin Tôn giả vì lòng từ mẫn mà đến nhà
Trưởng giả.
1). CÁCH CHỮA BỆNH KỲ LẠ:
Vào sáng hôm sau, Tôn giả Xá lợi Phất đi đến nhà Trưởng giả Cấp cô Độc.
Trưởng giả vừa trông thấy Tôn giả đến cửa, liền từ giường nằm muốn
đứng dậy, nhưng Tôn giả cản lại mà bảo:
- Trưởng giả cứ nằm, đừng đứng dậy vì
còn đang bệnh, bệnh trạng của Trưởng giả hôm nay thế nào, có thuyên giảm
không, ăn uống được không?
Trưởng giả
trả lời:
- Bệnh trạng của con rất nguy hiểm, ăn
uống chẳng được, sự đau đớn chỉ tăng thêm mà chẳng giảm bớt chút
nào! Không chừng vì vậy mà con có thể chết bất cứ lúc nào.
Tôn giả Xá
lợi Phất bảo:
- Này Trưởng giả, Ông đừng ngại,
chớ nên sợ, vì nếu là kẻ phàm phu ngu si bất tín (không tin Phật Pháp
Tăng) thì khi chết sẽ sinh vào cõi xấu; còn Trưởng giả không hề có sự bất
tín mà chỉ có chính tín. Nhờ vậy nên sẽ diệt được đau nhức, sinh
ra khoái lạc vô cùng; hoặc do lòng tin ấy nên sẽ chứng qủa Tư đà Hàm
(Thiền thứ hai), hay chứng qủa A na Hàm (Thiền thứ ba), vì Trưởng giả
đã chứng qủa Tu đà Hoàn (Thiền thứ nhất).
Nên biết,
ông chớ nên ngại, đừng sợ, vì kẻ ngu si có đủ thứ tham lam, có đủ thứ sân
hận giận thù, nên khi chết sinh thẳng vào cõi ác; còn ông không hề có
tham, sân, mà chỉ có huệ thí (bố thí, cúng dường không vụ lợi). Nhân
có huệ thí nên: sẽ tiêu diệt đau đớn thống khổ, và sinh ra thoải mái
vô cùng; hoặc nhân có huệ thí ấy mà chứng qủa thứ hai Tư đà Hàm hay
qủa thứ ba A na Hàm, vì ông vốn đã chứng quả thứ nhất Tu đà Hoàn.
Ông không nên sợ, chớ lo, vì nếu là kẻ phàm phu ngu si không
có đa văn, khi chết sinh vào chỗ không tốt, còn ông có đa văn (học rộng
hiểu nhiều, ghi nhớ không quên), nhờ vậy nên sẽ diệt trừ đau đớn phiền hà,
và sinh ra vui vẻ vô cùng; hoặc nhân có đa văn nên sẽ chứng quả
Tư đà Hàm hay A na Hàm, vì ông vốn đã chứng quả Tu đà Hoàn.
Điểm nữa:
ông đừng ngại, chớ sợ, vì kẻ làm ác có ác giới (làm các việc ác), nên khi
chết liền sinh thẳng vào Địa ngục; còn ông không hề làm các điều ác, mà
chỉ có thiện giới (làm các việc lành). Ông có thiện giới nên sẽ tiêu
diệt sự đau đớn bệnh tật, và sinh ra vui vẻ sung sướng.
Hoặc nhân có thiện giới ấy nên sẽ chứng
qủa thứ nhì hay quả thứ ba, vì ông đã chứng qủa thứ nhất rồi. Trưởng
giả nên nhớ, không nên sợ, đừng sợ, vì sao?
Tại vì nếu là người phàm phu ngu si có
ác ngữ (nói dối, nói đâm thọc, nói lời độc ác, và nói lời thô bỉ nhảm
nhí), nên khi chết đi sẽ sinh vào đường ác; còn Trưởng giả không hề
có ác ngữ mà chỉ có chính ngữ, có chính ngữ nên sẽ diệt tận sự đau đớn
trong thân thể, sinh ra thoải mái nhẹ nhàng. Hoặc nhân có chính ngữ
mà chứng qủa Tư đà Hàm hay A na Hàm, vì Trưởng giả đã chứng Tu đà
Hoàn. Ông cũng chẳng phải lo, chẳng phải sợ, tại sao vậy?
Vì nếu là kẻ có tà nghiệp (hành động
nơi thân không chân chính như sát sanh, trộm cướp, tà dâm), nên khi chết
sinh vào Địa ngục; còn ông không hề có tà nghiệp, mà chỉ làm các thiện
nghiệp, chính nghiệp, nên sẽ tiêu diệt mọi buồn phiền, và sinh ra an ổn
nhẹ nhàng.
Hoặc nhân có chính nghiệp mà chứng qủa
Tư đà Hàm hay A na Hàm, vì ông vốn đã chứng qủa Tu đà Hoàn.
Lại nữa, ông đừng sợ, chớ sợ, vì sao thế?
Vì nếu là kẻ phàm phu ngu si làm
tà mạng (sống bằng nghề nghiệp không chính đáng như nghề trộm cắp cướp,
nghề giết súc vật, nghề dùng bùa chú v.v. để sinh sống) nên khi chết
sẽ sinh vào ba cõi ác; còn ông chỉ có chính mạng, nhân có chính mạng nên
sẽ chấm dứt sự thống khổ, sinh ra thoải mái. Hoặc nhân có chính mạng nên
sẽ chứng qủa thứ hai hay thứ ba, vì ông đã chứng qủa thứ nhất rồi..
Trưởng giả,
không sợ, đừng lo, vì sao vậy? Vì kẻ ngu-si có tà kiến, nên khi chết đi
sinh vào chỗ xấu; còn Trưởng giả chỉ có chính kiến (hiểu biết có
thiện nghiệp, ác nghiệp, thiện báo ác báo, có đời này đời khác, có luân
hồi nhân quả v.v), nhân có chính kiến nên sẽ tiêu diệt hết đau đớn lo
buồn. Hoặc nhân có chính kiến nên sẽ chứng qủa Tư đà Hàm hay A na Hàm, vì
Trưởng giả đã chứng qủa Tu đà Hoàn. Sau nữa, ông lại càng không nên
sợ, chớ sợ, vì sao?
Vì kẻ ngu si có tà giải (tà giải có nghĩa
là ý thức, kiến giải, hiểu một cách tà vạy), nên khi chết sẽ sinh vào chỗ
dữ; còn ông chỉ có chính giải nên sẽ tiêu diệt được sự thống khổ,
sinh ra khoái lạc vô cùng; hoặc nhân có chính giải nên sẽ chứng qủa thứ
nhì hay thứ ba, vì ông đã chứng qủa thứ nhất.
Sau chót, ông
đừng sợ, cũng chẳng phải lo tí nào, tại sao vậy?
Tại vì nếu là kẻ phàm phu ngu si có tà
trí (hiểu biết sai) nên khi chết đi thẳng đến chỗ không tốt; còn ông không
có tà trí mà chỉ có chính trí, nhân có chính trí nên sẽ chấm dứt mọi
bệnh tật đau khổ, sinh ra khoan khoái nhẹ nhàng; hoặc nhân có chính trí
nên sẽ chứng qủa thứ hai Tư đà Hàm hay qủa thứ ba A na Hàm, vì ông vốn
đã chứng qủa thứ nhất Tu đà Hoàn.
Sau khi nghe
Tôn giả Xá lợi Phất thuyết giảng một hồi như thế, tự nhiên bệnh trạng của
Trưởng giả Cấp cô Độc biến mất; đang nằm, ông ngồi dậy nhẹ nhàng và khen:
- Hay thay! Hay thay! Tôn giả thuyết
pháp cho bệnh nhân thật là kỳ diệu, rất lạ, như có một điểm gì huyền bí;
thưa Tôn giả, khi con nghe bài pháp giáo hóa cho bệnh nhân vừa xong, liền chấm
dứt bệnh khổ, sinh ra thoải mái vô cùng. Bây giờ bệnh của con dứt hẳn,
không còn đau đớn mệt mỏi nữa, và bình phục khỏe mạnh rõ ràng.
(Còn tiếp)
TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
VÀ TRƯỞNG GIẢ
CẤP CÔ ĐỘC
Toàn Không
(Tiếp theo)
2). NHÂN DUYÊN TRƯỞNG GIẢ CẤP CÔ ĐỘC ĐỐI VỚI ĐỨC PHẬT:
Thưa Tôn
giả, nhân tiện đây con xin kể về nhân duyên của con đối với Đức Thế Tôn và đối
với Tôn giả như sau:
Một
hôm, nhân có chút việc cần làm, con đi đến thành Vương Xá, và tạm trú ngụ tại
nhà Trưởng giả, một người bà con.. Con thấy vị Trưởng giả sai bảo con cháu và
người giúp việc dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, sắp xếp bàn ghế; vị Trưởng giả ấy
đích thân sắp đặt một chỗ ngồi cao, trông trang nghiêm vô cùng.
Thưa
Tôn giả, sau khi thấy vậy, con liền hỏi vị ấy rằng: “Ông vì việc hôn
nhân cưới hỏi, hay thỉnh Quốc Vương, hay mời Đại thần mà sửa soạn lớn lao như
thế này?”
Lúc ấy,
vị ấy trả lời con rằng: “Tôi không phải vì việc hôn nhân, cũng chẳng
phải thỉnh Quốc Vương hay mời Đại thần; nhưng tôi sửa soạn bữa cơm tiệc chay,
vì trưa ngày mai tôi sẽ cúng dường Đức Phật và đại chúng Tỳ kheo”.
Từ thuở
nhỏ cho đến lúc ấy, con chưa từng được nghe đến danh hiệu Đức Phật, nên khi
nghe rồi, rất là ngạc nhiên, toàn thân con lông dựng ngược, con liền hỏi
rằng: “Ông nói Phật, vậy thế nào là Phật?”
Vị Trưởng giả
trả lời con rằng: “Ông chưa được nghe sao? Có một vị dòng dõi họ Thích,
từ giã vua cha giàu sang quyền quý, bỏ hết cung vàng điện ngọc, thể tần mỹ nữ.
Vị ấy xa lià vợ đẹp con khôn và đại gia đình Hoàng tộc, cắt bỏ râu tóc, khoác
áo Cà Sa, với lòng sắt đá sống nơi rừng hoang để tìm đạo; vị ấy đã chứng quả vô
thượng Chính Đẳng Chính Giác, vị ấy gọi là Phật”.
Con lại
hỏi rằng: “Ông đã nói: “Đức Phật và đại chúng Tỳ kheo”, nay tôi đã
hiểu Phật, nhưng còn thế nào là đại chúng Tỳ kheo?”.
Vị ấy
trả lời con: “Ông nên biết, còn có rất nhiều vị có dòng họ và danh hiệu
khác nhau, cũng cạo bỏ râu tóc, mặc áo Cà Sa, những vị này cũng rời bỏ gia đình
sống không nhà, với lòng chí thiết đi theo Đức Phật để học đạo, những vị đó gọi
là đại chúng Tỳ kheo (Ngày nay gọi là chư Tăng). Đức Phật và đại chúng
Tỳ kheo ấy là những bậc tôi sẽ thỉnh đến vào trưa ngày mai, hiện nay Đức Phật
và đại chúng Tỳ kheo đang trú ngụ tại vườn Ca lan Đà, trong rừng Trúc, thuộc
thành Vương Xá này. Nếu ông muốn có thể đến đó hay ở lại đây đến ngày mai cũng
có thể gặp được, tuỳ ý”.
Thưa
Tôn giả, nghe vị ấy nói xong, lòng con háo hức mong mỏi muốn được gặp Đức Phật;
nhưng con tự nhủ rằng hôm sau sẽ được cơ hội gặp Phật, nên con lấy làm vui mừng
và yên tâm đi ngủ. Con đi ngủ, chẳng biết đã ngủ được bao lâu, khi thức tỉnh,
trong lòng con lại nhớ ngay đến việc gặp Phật và không còn ngủ lại được nữa.
Con ngồi dậy nhìn ra ngoài cửa sổ, thấy trời sáng, vì lòng chí thành của con
mong muốn được yết kiến Đức Phật, nên lúc đang đêm ấy mà con tưởng đã gần sáng
rồi.
Con liền từ
nhà vị Trưởng giả ấy đi ra, đến trạm kiểm soát nơi cổng thành, trời vẫn còn
chưa sáng hẳn. Con vượt cổng thành để đi ra bên ngoài, chẳng bao lâu con đi
ngang qua một nghĩa địa, tự nhiên trời tối hẳn lại, ánh sáng biến mất, con cảm
thấy sợ hãi, toàn thân nổi gai ốc. Lúc ấy con nghĩ: “Mong sao đừng có
người hay ma quỷ đến xúc nhiễu (xúc phạm quấy nhiễu)”.
Đột
nhiên, con thấy có ánh sáng tỏa chiếu khắp và có tiếng nói: “Này Trưởng
giả đừng sợ, này Trưởng giả chớ sợ, vì sao vậy? Vì kiếp trước tôi vốn là bạn
của ông tên là Mật Khí, vào lúc còn trẻ chúng ta rất qúy mến nhau; này Trưởng
giả, thuở xa xưa ấy, tôi đến chỗ Mục kiền Liên được Ngài thuyết pháp cho tôi và
khuyến khích tôi, ban cho tôi tam tự quy y Phật, Pháp, Tăng, và trao cho tôi
năm giới (Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, và
không uống rượu). Này Trưởng giả, vì tôi đã thọ trì năm giới một cách kiên
cố, nên sau khi chết tôi được sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, và ở trong trạm
dừng tại cổng thành Vương Xá; Trưởng giả hãy đi mau lên, hãy đi nhanh lên, đi
tốt hơn là đừng lại”.
Rồi vị
Trời ấy nói bài tụng khuyên con như sau:
Được trăm ngựa, tỳ nữ,
Trăm xe đầy châu báu,
Không bằng phần mười sáu,
Một bước đi đến Phật.
Trăm voi trắng tối thượng,
Với yên cương bằng vàng,
Không bằng phần mười sáu,
Một bước đi đến Phật.
Trăm nữ nhân tuyệt đẹp,
Đeo chuỗi ngọc, tràng hoa,
Không bằng phần mười sáu,
Một bước đi đến Phật.
Chuyển luân Vương đệ nhất,
Ngọc nữ báu yêu mến,
Không bằng phần mười sáu,
Một bước đi đến Phật.
Vị
Trời tụng xong, tiếp tục khuyên con rằng: “Này Trưởng giả đi mau lên,
này Trưởng giả đi nhanh lên, qủa thật, đi tốt hơn là dừng lại”.
Bấy
giờ con nghĩ: “Đức Phật có ân đức rộng lớn che chở bao trùm, đại chúng
Tỳ kheo cũng có ân đức che chở bao trùm, vì vị Trời cũng muốn khiến ta đi đến
yết kiến”. Thưa Tôn giả, con do ánh sáng của vị Trời ấy hướng dẫn mà đi đến
Trúc lâm, vườn Ca lan Đà, thì ánh sáng ấy biến mất.
Lúc ấy,
trời còn chưa sáng tỏ, con thấy …
(Còn tiếp)
TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
VÀ TRƯỞNG GIẢ
CẤP CÔ ĐỘC
Toàn Không
(Tiếp theo)
Lúc ấy, trời còn chưa sáng tỏ, con thấy Đức Thế Tôn từ thiền thất đi
ra kinh hành ở khu đất trống. Từ xa con trông thấy Đức Phật có ánh hào
quang rực rỡ tỏa ra chung quanh, đi gần hơn nữa, con thấy Ngài đẹp đẽ
trang nghiêm, như mặt trăng giữa các vì tinh tú. Con thấy rồi, liền hân
hoan đi đến trước Phật, đảnh lễ rồi đứng lên theo Ngài kinh hành.
Bấy giờ Đức Phật vừa đi đến cuối đường kinh hành, Ngài trải Ni sư Đàn (tọa
cụ của Phật) rồi ngồi kiết già; lúc ấy con lại đảnh lễ dưới chân Phật, rồi
ngồi sang một bên. Đức Thế Tôn bắt đầu thuyết pháp cho con nghe, Ngài
dùng đủ thứ phương tiện thuyết pháp làm cho con được vui thích; rồi
Ngài theo thông lệ của chư Phật, trước hết nói về pháp đoan chính để người
nghe vui vẻ, đó là nói về bố thí, trì giới và về pháp sinh lên cõi Trời;
sau Ngài nói về tai họa của tham dục, sân hận, tà kiến v.v...
Khi Đức Thế Tôn biết con đã có tâm kham nhiễm nhu nhuyễn, có tâm hoan hỷ
vươn lên, và có tâm tín chuyên nhất, Ngài liền nói về Khổ, Tập (nguyên
nhân gây ra khổ), Diệt (cách diệt trừ khổ), Đạo (con đường dẫn đến đạo)
cho con nghe. Ngay khi ấy, con đã thấy bốn Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt,
Đạo) thật rõ ràng, giống như tấm vải trắng nhuộm thành màu sắc, con
cũng như vậy.
Thưa Tôn giả, con đã thấy Pháp, đắc Pháp; con đã đoạn nghi trừ hoặc,
không còn tôn sùng ai, cũng chẳng tin theo người khác. Con không còn
một chút do dự, đã trụ nơi qủa chứng, và được sự không sợ hãi đối với giáo
pháp của Đức Thế Tôn, lúc ấy con liền đứng dậy đảnh lễ Đức Phật và nói: “Thưa
Đức Thế Tôn, con hôm nay tự quy y Phật, Pháp, và chúng Tỳ kheo; cúi mong
Đức Thế Tôn chấp nhận cho con làm Ưu bà Tắc (Nam Cư sĩ) bắt đầu từ
giờ này cho đến trọn đời con”.
Thưa Tôn giả, con chắp tay thưa tiếp rằng: “Thưa Thế Tôn, ngưỡng
mong Ngài nhận lời mời của con, cùng đại chúng Tỳ kheo đến thành Xá Vệ (về
phương Bắc) thuộc nước Xá Vệ để an cư mùa mưa”.
Lúc ấy Đức Thế Tôn hỏi con: “Ông tên là gì, người dân nước Xá Vệ gọi
ông bằng gì?” Con liền
thưa: “Con tên là Tu đạt Đa, vì con thường cung cấp cho người
nghèo cô độc nên người dân trong nước Xá Vệ gọi con là Cấp cô Độc”.
Đức Thế Tôn lại hỏi: “Tại nước Xá Vệ ông có phòng ốc gì chưa, nếu
có phòng ốc thì các thầy Tỳ kheo mới có thể vãng lai, mới có thể trú ngụ
được”.
Con trả lời
rằng: “Thưa Thế Tôn, tại nước Xá Vệ, con chưa có phòng ốc, nhưng
con có thể cho xây cất, để các thầy Tỳ kheo vãng lai cư ngụ. Mong Đức
Thế Tôn cử một vị Tỳ kheo đến nước Xá Vệ giúp con trong việc kiến lập
phòng ốc”.
Bấy
giờ Đức Thế Tôn liền cử Tôn giả (Xá lợi Phất) đi giúp đỡ con, khi
công việc tại thành Vương Xá xong xuôi, con cùng Tôn giả đi đến nước Xá
Vệ; nhưng không vào thành ngay, cũng chẳng về nhà, mà lập tức đi dạo khắp
nơi bên ngoài thành. Quan sát xem chỗ nào có thể đi lại tiện lợi, ban ngày
không ồn ào, và ban đêm tịch tĩnh; chỗ không có muỗi mòng, cũng chẳng ruồi
bọ, không nóng cũng chẳng lạnh, có thể xây cất phòng ốc cúng dàng Đức
Phật và đại chúng Tỳ kheo.
Thưa
Tôn giả, khi ấy con chỉ thấy vườn của hoàng thân Đồng Tử Thắng là đủ tiêu
chuẩn đã định, con quan sát kỹ rồi liền nghĩ: “Chỉ có chỗ này là thích
hợp nhất, là tốt nhất, không còn chỗ nào khác tốt hơn”.
Nghĩ
như vậy, con liền đi thẳng đến nhà Đồng Tử Thắng mà nói rằng: “Thưa
Hoàng thân, Ngài có thể bán khu vườn kia lại cho tôi được không?”
Đồng Tử
liền bảo con: “Trưởng giả nên biết, tôi không bán vườn đâu”.
Cứ như
vậy, lần thứ hai, rồi lần thứ ba con nói như thế; Đồng Tử cũng lần
thứ hai từ chối, rồi lần thứ ba bảo con rằng: “Này Trưởng giả, tôi
đã nói tôi không bán vườn. Ông cứ hỏi lôi thôi mãi, ngoại trừ chỉ khi nào
tiền ức triệu ông trải đầy mặt đất”.
Lúc ấy
con liền nói: “Này Hoàng thân, Ngài đã quyết định giá cả, chỉ còn
việc trao tiền nữa thôi”.
Thưa
Tôn giả, con và Đồng Tử Thắng, người thì nói đã quyết định giá cả rồi,
người thì nói chưa có quyết định giá cả. Cùng nhau tranh cãi lớn, rồi dắt
nhau đến vị Phán Quan xử án của nước Xá Vệ để xin phán quyết về việc ấy.
Bấy giờ vị Phán Quan sau khi nghe đôi bên trình bày, liền bảo Đồng Tử
Thắng rằng: “Này Đồng Tử Thắng, thế là ông đã tự quyết định
giá cả rồi, chỉ còn việc nhận tiền của Trưởng giả mà thôi, không
còn tranh cãi gì nữa”.
Thế là
con liền trở về nhà lấy tiền, và dùng voi, xe ngựa để chuyên chở các kho
bạc đem đến. Con đã xuất ra tới ức triệu tiền bạc để trải khắp mặt đất,
nhưng còn một chỗ chưa khắp đến. Con còn đang suy nghĩ nên lấy bạc ở kho
nào để trải chỗ đất còn dư ấy để cho đủ; bấy giờ Đồng Tử Thắng bảo
con rằng: “Này Trưởng giả, nếu có ăn năn về số tiền ấy thì hãy
mang trở về, trả lại khu vườn cho tôi”.
Con bảo
Đồng Tử Thắng: “Tôi không có ăn năn, tôi chỉ suy nghĩ xem nên lấy
tiền ở kho nào để mang đến trải chỗ đất còn lại cho vừa đủ, không thừa
cũng không thiếu”.
Bấy giờ
Đồng Tử Thắng tự nghĩ: “Đức Phật hẳn là một người cao cả, vĩ
đại, và có oai đức lớn; đại chúng Tỳ kheo hẳn cũng rất cao cả, và cũng có
oai đức lớn. Do đó mới làm cho Trưởng giả này thiết bày sự cúng dàng vĩ
đại, coi của cải rẻ đến như thế; có lẽ ta nên xây cổng ngõ tại miếng đất
còn lại để cúng dàng”, rồi Đồng Tử Thắng bảo con: “Này
Trưởng giả, hãy thôi đi, đừng xuất tiền để trải chỗ đất còn lại nữa,
vì ngay chỗ đất ấy tôi sẽ xây cổng ngõ để cúng dàng Phật và đại chúng
Tỳ kheo”.
Thưa Tôn giả, vì lòng từ mẫn, nên con đồng ý để chỗ đất ấy lại cho Đồng Tử
Thắng xây cổng ngõ.
3). NGOẠI ĐẠO QUY
PHỤC TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT:
(Con tiep)
TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
VÀ TRƯỞNG GIẢ
CẤP CÔ ĐỘC
Toàn Không
(Tiếp theo)
3). NGOẠI ĐẠO QUY PHỤC TÔN GIẢ XÁ LỢI
PHẤT:
Khi vừa khởi công xây cất, lại xảy ra việc ngoại đạo ngăn cản, nhiều nhóm
Bà la môn (Ấn Độ Giáo) đến gặp con yêu cầu hủy bỏ xây cất Tịnh xá, nhưng
tín tâm đối với Đức Phật của con rất kiên cố nên họ không thể nào lay
chuyển nổi; họ bèn xoay qua việc đòi tranh luận với đệ tử Phật là Tôn giả
để đánh bại lý thuyết Phật giáo, hầu dẹp trừ sự phát triển của Phật giáo
tại vùng Bắc (Ấn Độ) này.
Thưa Tôn giả, con nghe tin như thế thì đâm ra hoang mang lo sợ, vì
họ huy động một lực lượng hùng hậu gồm 10 Luận Biện Sư nổi tiếng nhất
xứ (Ấn Độ) đến, trong khi đó chỉ có một mình Tôn giả. Con rất lo ngại
báo tin ấy với Tôn giả, nhưng Tôn giả trái lại không hề lo lắng, mà tỏ
ra hoan hỷ, vì Tôn giả cho rằng đây là cơ hội tốt để thể hiện và tuyên
dương lý thuyết của Phật giáo tại miền Bắc này, rồi họ hẹn ngày và địa
điểm tranh biện.
Ngày
tranh luận, dù họ đông, dương oai thế lực, nhưng từ nhỏ Tôn giả đã thừa
hưởng một kiến thức siêu quần về Bà la môn của cha ông, và đặc biệt hơn là
Tôn giả đã đắc qủa A La Hán (qủa Thánh) với giáo lý của Phật. Kết qủa cuối
cùng là Tôn giả thắng lợi, khiến một số ngoại đạo tiếp thu chân lý và
xin Tôn-giả hướng dẫn quy y Phật Pháp. Từ đó đến nay vô số người tại miền
Bắc này trở thành con Phật.
Việc xây cất
Tịnh xá chủng viện bởi thế trở nên rất thuận lợi và nhanh chóng, rồi suốt
trong mùa hè ấy, con đã cấp tốc cho xây cất hoàn tất mười sáu dãy nhà làm
các giảng đường và đại giảng đường, và mười nhà lớn biệt lập, mỗi nhà
đều có ngăn nhiều phòng riêng biệt làm nơi trú ngụ. Lại có nhà
tắm, nơi chứa nước, ao hồ, suối, đường để đi kinh hành v.v...
Con còn nhớ
rõ, lúc Tịnh xá sắp hoàn tất, hôm ấy đang khi đi thăm công việc xây cất,
Tôn giả bỗng nhiên nói với con: “Này Trưởng giả, ông hãy nhìn lên Trời
xem có gì lạ kià.” Con vội nhìn lên nhưng chẳng thấy gì cả nên đã
trả lời rằng: “Con chẳng thấy gì trên Trời cả”. Tôn giả
nói: “À phải rồi, mắt thường của con người không thấy được, Trưởng
giả hãy đến gần tôi và nương theo Thiên nhãn của tôi mà nhìn lại xem sao”.
Con liền đến đứng sát Tôn giả mà nương nhìn liền thấy rất nhiều cung điện
trang nghiêm đẹp đẽ vô cùng. Tôn giả giải thích rằng: “Những cung
điện ấy dành cho Trưởng giả vì ông đã phát đại tâm xây cất Tịnh xá cúng
dường Phật.”
Thưa Tôn giả,
lúc ấy con đâm ra hoang mang, và nói: “Sao nhiều cung điên quá, con
biết ở cung điên nào?” Tôn giả bảo: “Trưởng giả nên chọn cung
điên ở cung Trời Đao Lợi, có thọ mạng khá lâu dài, lại biết tu hành, và
khó đọa lạc”. Con ưng ý ngay và buột miệng nói: “Con ước mong
sau này được sinh đến cõi Trời Đao Lợi”, con vừa nghĩ vừa nói
xong, lạ thay các cung điện đều biến mất, chỉ còn một cung điện mà thôi,
khi ấy Tôn giả bảo: “Chỉ còn cung điện của cõi Trời Đao Lợi theo
ý nguyện của Trưởng giả đó”. Lúc ấy con vui mừng biết mấy.
Thời
ấy Tôn giả đã giúp đỡ con rất nhiều trong việc dựng lập Tịnh xá chủng viện,
hôm nay Tôn giả thuyết pháp để giáo hóa người bệnh rất là kỳ lạ. Con nghe
bài giáo hóa người bệnh vừa rồi, bệnh khổ nặng nề liền biến mất, lại sinh
ra vui vẻ nhẹ nhàng vô cùng.
Thưa Tôn
giả, bây giờ con không còn bệnh nữa, và được yên ổn hoàn toàn, kính mong
Tôn giả ở lại thọ trai; Tôn giả Xá lợi Phất im lặng nhận lời mời, sau
khi thọ trai xong, Tôn giả thuyết pháp cho Trưởng giả nghe, xong Tôn giả
ra về.
Khi ấy Đức
Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng nghe, từ đằng xa, Đức Thế Tôn thấy
Tôn giả Xá lợi Phất đi lại, Ngài bảo đại chúng: “Tỳ kheo Xá lợi
Phất là bậc thông tuệ, tốc huệ, tiệp huệ, quảng huệ, xuất yếu huệ, minh
đạt huệ, và biện tài huệ; Tỳ kheo Xá lợi Phất đã thành tựu thật huệ, vì
sao vậy? Vì về bốn hạng Tu đà Hoàn mà Ta đã nói sơ lược, thì Tỳ kheo Xá
lợi Phất triển khai thành mười hạng để nói cho Trưởng giả Cấp cô Độc nghe
và khỏi bệnh”.
4). TRƯỞNG GIẢ CẤP CÔ ĐỘC
SINH LÊN CÕI TRỜI.
Về sau, lúc đã lớn
tuổi già yếu bệnh hoạn nhiều, và cảm thấy không còn sống được bao lâu nữa;
Trưởng giả Cấp cô Độc sai sứ giả đến đảnh lễ, thăm hỏi Đức Thế Tôn và
thưa rằng bệnh tình của Trưởng giả đã đến hồi trầm trọng, nhưng ông
vẫn từ giường bệnh kính cẩn đảnh lễ Đức Thế Tôn. Sau đó sứ giả cũng
đến thăm hỏi Tôn giả Xá lợi Phất, và nói ý nguyện của Trưởng giả là
muốn được gặp Tôn giả trước khi nhắm mắt qua đời.
Theo lời
thỉnh, Tôn giả Xá lợi Phất đi cùng với Tôn giả A nan Đà đến nhà Trưởng giả
Cấp cô Độc và thăm hỏi bệnh tình; Trưởng giả Cấp cô Độc thưa rằng bệnh của
ông không có dấu hiệu giảm bớt, mà chỉ có tăng thêm, càng ngày càng
trầm trọng hơn, và có thể chết bất cứ lúc nào.
Tôn giả Xá
lợi Phất liền thuyết cho ông một bài pháp rất chi tiết mạch lạc, Tôn giả
bảo ông ráng thực hành. Khi hai vị Tôn giả đệ
tử Phật ra về Trưởng giả Cấp Cô Độc tiếp tục quán niệm giáo pháp vi diệu
ấy, mấy ngày sau Trưởng giả thở hơi cuối cùng, qua đời, và tức khắc, sinh
lên cõi trời Đao Lợi.
Sau đó ít
lâu, một đêm, vị Trời Cấp cô Độc từ cung trời Đao Lợi trở về Tịnh xá, hào
quang sáng ngời, chiếu cả một khu rộng lớn. Vị Trời Cấp cô Độc đến đảnh lễ
Đức Thế Tôn, Thiên tử Cấp cô Độc bày tỏ niềm hân hoan được gặp lại Đức Thế
Tôn và chư vị đệ tử của Ngài trong Tịnh xá do ông đã kiến tạo. Vị Trời
Cấp cô Độc cũng hết mực ca tụng phẩm hạnh và tài đức của Tôn giả Xá
lợi Phất. Sau khi ngỏ lời từ giã, vị Trời Cấp cô độc đảnh lễ Đức Thế Tôn,
rồi biến mất chỉ trong chớp mắt.
5). QỦY GIÀ LA ĐẤM TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT.
(Còn tiếp)
TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
VÀ TRƯỞNG GIẢ
CẤP CÔ ĐỘC
Toàn Không
(Tiếp theo)
5). QỦY GIÀ LA ĐẤM TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT.
Một lần, Tôn giả Xá Lợi Phất nhập Kim Cang Định ở bên một gốc cây ngay
chân núi Kỳ Xà Quật, trên núi có hai con Quỷ một con Quỷ thiện tên Ưu
Bà Ca La, một con Quỷ ác tên Già La, chúng nhìn thấy Tôn giả đang ngồi thiền
dưới một lùm cây cổ thụ, Quỷ ác liền nói:
- Ta sẽ đánh bể cái đầu trọc của lão Sa
môn kia.
Quỷ thiện nói cản lại:- Đừng làm thế,
vị ấy có thần lực, nguy hiểm lắm..- Ngươi sợ lão Sa môn này sao? Ta chỉ đấm một
cái là cái đầu trọc kia bể nát ra cho mà xem.
Nói vừa dứt, nhanh như chớp, liền vung tay đánh xuống đầu Tôn giả như sấm
nổ, trong lúc ấy Quỷ thiện sợ qúa biến mất. Quỷ ác đánh tới mà Tôn giả chỉ cảm
thấy như có một chiếc lá rơi trên đầu, rồi Tôn giả thấy một con Quỷ máu từ miệng,
mũi, tai, mắt chảy ra, và đang sa vào Địa ngục. Khi Tôn
giả đến vườn Ca lan Đà, Đức Phật hỏi:
- Xá Lợi Phất, hôm nay ông có sao
không?- Thưa Thế Tôn, con không sao, chỉ hơi ê đầu một chút thôi.
- Xá Lợi Phất, hôm nay ông nhập Kim
Cang Định rất tốt, quỷ Già La mà đấm núi Tu Di cũng phải vỡ nát. Sức mạnh
của Định Kim Cang vững mạnh đến như thế đó, ngay khi đánh, quỷ Già La
bị sức phản lại của Kim Cang Định nên thất khiếu bị chảy máu mà chết và bị
đọa địa ngục vì làm ác, các ông cần phải tu trì như thế.
6). XÁ LỢI PHẤT RỐNG TIẾNG RỐNG
SƯ TỬ:
Sau này, khi Tôn giả Xá lợi Phất muốn đi giáo hóa trong
nhân gian, Ngài đi đến chỗ Đức Phật đảnh lễ và thưa:- Bạch Thế Tôn, con an cư
ba tháng ở tại nước Xá Vệ này vừa xong, bây giờ con muốn đi du hành trong
nhân gian.
Đức Phật bảo:- Ông hãy đến đâu tùy ý, người nào chưa được hóa độ hãy khiến
họ được hóa độ, những người nào chưa được giải thoát hãy khiến họ
được giải thoát. Sau khi nghe Đức Phật dạy xong, Tôn-giả đảnh lễ, đi
quanh Phật ba vòng, rồi lui ra về phòng riêng lấy y bát, rồi ra đi; Tôn
giả vừa ra đi, có một vị Tỳ Kheo đến thưa với Phật rằng:
- Thưa Thế Tôn, hôm nay Tỳ kheo Xá lợi
Phất sau khi khinh mạn con rồi đi du hành trong nhân gian.
Khi nghe lời ấy, Đức Thế Tôn liền bảo
một Tỳ Kheo khác đi gọi Tôn giả Xá lợi Phất trở lại; lúc ấy, Tôn-giả
A Nan Đà đang đứng phiá sau Đức Phật nghe những lời ấy, liền cầm chùm
chià khóa đi đến khắp các phòng, mời các Tỳ Kheo đến đại giảng đường để
nghe Tôn giả Xá lợi Phất sẽ ở trước Phật mà rống tiếng rống Sư-tử.
Tôn giả A Nan Đà còn căn dặn: “Nếu Tôn giả Xá lợi Phất nói ra
những điều sâu xa, tịch tịnh, vi diệu, mọi người phải khéo ghi nhớ và thọ
trì”.
Khi Tôn
giả Xá lợi Phất được vị Tỳ Kheo đi kịp nói lại sự việc xẩy ra và lời Đức
Phật bảo, Tôn-giả liền quay trở lại chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi
ngồi qua một bên. Đức Phật bảo:- Xá lợi Phất, sau khi ông rời khỏi đây, có
một Tỳ Kheo đến đây nói: “Thưa Thế Tôn, hôm nay Tỳ kheo Xá
Lợi Phất sau khi khinh mạn con rồi đi du hành trong nhân gian”, có
thật sau khi khinh mạn một Tỳ Kheo phạm hạnh rồi ông đi du hành trong
nhân gian chăng?
Tôn giả
Xá Lợi Phất thưa:- Bạch Thế Tôn, nếu người nào không thực hành niệm thân
trên thân, thì người ấy mới khinh mạn một vị Tỳ Kheo phạm hạnh; còn con
luôn luôn không quên thực hành niệm thân trên thân, thì sao con lại có thể
khinh mạn một vị phạm hạnh?
Thưa
Thế Tôn, Cũng như một con trâu gãy cả hai sừng, rất nhường nhịn,
hiền lành, dễ chế ngự, không gây gỗ; nó từ xóm thôn này đến xóm làng khác,
những nơi nó đi qua không gì bị nó xâm phạm. Con cũng như vậy, tâm con như
trâu gãy cả hai sừng, không não hại, con đã tu tập thuần thục như
thế.
Như con
của người trọng tội, nên nó phải bị chặt hai tay, tâm ý nó rất thấp kém,
nó từ xóm này đếm xóm khác, những nơi nó đi ngang qua, không có gì bị
xâm phạm. Tâm con cũng giống như con của người trọng tội kia, không nhìn
ngó người khác, không sân hận, con khéo tu tập tâm ý như thế.
Lại như mặt đất …
Còn tiếp
TÔN GIẢ XÁ LỢI PHẤT
VÀ TRƯỞNG GIẢ
CẤP CÔ ĐỘC
Toàn Không
(Tiếp theo)
Lại như mặt đất dung nạp tất cả thứ sạch, đồ dơ, nước mũi, nước miếng, nước
tiểu, cho đến đủ thứ phân người và phân các loài súc vật v.v.. Mặt đất không
phải vì thế mà có sự thương ghét giận hờn, không lấy thế làm xấu xa, cũng chẳng
thẹn thùng; tâm con cũng như mặt đất, không phân biệt dơ sạch, không oán kết,
khéo hành trì, biến mãn tất cả thế gian.
Cũng
lại như ngọn lửa đốt cháy tất cả, không phân biệt thứ sạch đồ dơ, ngọn lửa
không có sự yêu ghét, không kiêu hãnh, cũng chẳng hổ thẹn. Tâm con cũng như
ngọn lửa, khéo điều phục, rộng lớn vô biên, thành tựu an trụ đầy đủ.
Lại
nữa, như gió thổi bay những thứ nhẹ, không phân biệt là thứ gì, không phân biệt
là sạch sẽ hay dơ bẩn, gió không vì thế mà có sự yêu thương hay ghét bỏ; gió
thổi đến mọi chỗ, từ đồng bằng đến biển cả cho tới đồi hoang, chỗ nào cũng có
gió, không e lệ, không kiêu căng, cũng chẳng thẹn thùng. Tâm con cũng vậy, luôn
luôn bình đẳng như gió, khắp tất cả thế gian.
Cũng
như cây chổi, quét khắp tất cả bụi, rác, nước miếng, nước mũi, không phân biệt
sạch dơ; cây chổi không vì thế mà có yêu ghét, không lấy làm xấu xa, không xấu
hổ, cũng chẳng ngại ngùng. Tâm con cũng như cây chổi, không oán không kết, khéo
tu tập đầy đủ.
Như cái chậu
đựng nước lau sàn nhà, khăn lau chùi tất cả chỗ sạch chỗ dơ, rồi khăn lau được
giặt vào cái chậu nước ấy; cái chậu không vì thế mà có sự thích hay không
thích, cũng không lấy làm xấu xa hổ thẹn; con cũng như vậy, tâm con như cái
chậu nước lau sàn nhà kia, không chọn lựa, không chê bai, cũng chẳng giận hờn.
Sau
nữa, cũng như bình mỡ nứt nẻ đựng đầy mỡ rồi để dưới ánh nắng mặt trời, mỡ chảy
rỉ thấm ướt khắp cả; con cũng thế, con thường quán sát thân này có chín lỗ
thường chảy ra, thoát ra, rỉ ra, thấm khắp cả những đồ bất tịnh, dơ bẩn, khó
coi, khó ngửi, ghê tởm, nên con không coi trọng, không qúi, không ham, không đề
cao thân này.
Sau
chót, cũng như con một Trưởng-giả ưa thích tuổi niên thiếu của mình, thường tắm
gội sạch sẽ, xông thân thể bằng hương thơm, mặc áo trắng thêu hoa đeo vòng
ngọc, đầu đội tràng hoa.
Nếu đem ba xác chết: Rắn chết, chó chết
và người chết, máu ứ bầm xanh, sình trương to lớn, rữa ra, rất khó chịu vì mùi
hôi thối, nước dơ rỉ chảy ra dính khắp. Người niên thiếu ấy thấy thế sẽ rất sợ
hãi, rất khủng khiếp, ghét vô cùng cảnh ô uế đó; con cũng như thế, thường quán
sát những chỗ thối tha dơ bẩn của thân này giống như các xác chết ấy, tâm ôm
lòng sợ hãi, và rất chán ghét thân này.
Thưa Thế Tôn, nếu ai không thực hành niệm thân trên thân, có thể sẽ khinh mạn
một vị phạm hạnh. Còn con không oán không kết, không sân hận, không não hại,
rộng lớn vô biên, đã khéo thực hành, tu tập, hành trì niệm thân trên thân, biến
mãn khắp cả thế gian, thành tựu an trụ, tại sao con lại khinh mạn một vị phạm
hạnh, rồi đi du hành trong nhân gian?
Bỗng nhiên
lúc ấy Tỳ Kheo kia liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật và nói:
- Thưa Thế Tôn, con xin sám hối, con
xin sám hối, con thành thật xin hối lỗi; con như người ngu si, con như người
bất định, con như người bất thiện, con như người mù quáng; con đã đem lời dối
trá để vu khống cho Tỳ kheo Xá lợi Phất, là bậc phạm hạnh thanh tịnh. Thưa Thế
Tôn, con nay xin sám hối tội lỗi đã tạo ra, mong Ngài chấp nhận cho con; sau
khi sám hối, con quyết sẽ không còn tạo tội nữa, xin Ngài chấp nhận lời sám hối
của con.
Đức Phật
dạy:
- Này Tỳ Kheo, ông qủa thật là người
ngu si, như người bất định, như người bất thiện, như người vô trí; Ông đã đem
lời dối trá hoàn toàn không chân thật để vu báng Tỳ kheo Xá lợi Phất là bậc
phạm hạnh thanh tịnh. Ông có thể sám hối tội lỗi, đã sám hối rồi sau này sẽ
không còn tạo tội nữa; nếu có người nào sám hối tội lỗi đã phát lồ rồi, sau này
không còn tạo tội nữa, như thế sẽ được trưởng thành trong Thánh pháp luật mà
chẳng suy giảm.
Nói rồi, Đức Phật bảo:- Tỳ kheo Xá lợi
Phất, ông nên sớm nhận lời sám hối của người ngu si kia, chớ để Tỳ Kheo kia lập
tức ở trước ông mà đầu bị vỡ tung ra. Bấy giờ
Tôn giả Xá lợi Phất vì thương xót Tỳ Kheo kia nên liền nói:
- Tôi nhận lời sám hối tội lỗi của ông,
từ nay về sau ông không còn phạm tội tương tự như thế nữa đối với tất cả mọi
người.
Nhận
sự sám hối của Tỳ kheo kia xong, Tôn giả Xá lợi Phất đứng dậy đảnh lễ Phật, đi
quanh ba vòng, lui bước ra khỏi đại giảng đường rồi đi du hành trong nhân
gian..,.
__._,_.___
Posted by: Tien Do
=======
No comments:
Post a Comment