Đã 13 lần dân Việt đại thắng giặc phương Bắc xâm lăng
Nguyễn
Thanh Đức 2013
Trong
mấy ngàn năm qua, đặc biệt từ khi tộc Hoa du mục hiếu chiến thành hình ở phương
Bắc, từ năm 1046 ttl, người Tộc Việt chuyên trồng lúa nước, hiếu hòa, ở phương
Nam, luôn bị giặc Hoa cướp bóc, xâm lăng.
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần
phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất
cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân
Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
LẦN THỨ 1 : NĂM 1218 TTL, ĐẠI THẮNG
GIẶC ÂN, ĐỨC PHÙ ĐỔNG.
Theo sách vở Trung Hoa, năm 1218 ttl, Ân Cao
Tôn đã đánh Quỷ Phương, vùng Đồng Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, phía
tả ngạn Dương Tử. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn không thắng. [Ngày nay, Nhà Ân còn được
gọi là Nhà Hậu Thương].
Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao
Tôn đã xâm lấn nước ta ba năm và đã bị đánh bại.
* Như thế, theo Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia
vững mạnh. Nước nầy đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng
tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre… đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có
tinh thần dân tộc cao độ… và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân
vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng.
[Vào thời kỳ nầy, tộc Hoa chưa thành hình. Phải
hơn 100 năm sau, bộ lạc Chu mới gom góp các bộ lạc du mục khác ở vùng Thiểm
Tây, và thành lập Nhà Chu. Từ đó, tộc Hoa mới thành hình và phát triển].
[Đọc thêm Lược Sử Tộc Việt, do Nguyễn
Thanh Đức, nxb Tinh Hoa Tộc Việt, 2013, tr 121, đoạn 4.2; và tr 141, phần 1].
LẦN THỨ 2 : NĂM 214 TTL, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA TẦN, AN
DƯƠNG VƯƠNG.
Năm 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên
của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay
thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp
Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa.
Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh
bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết.
[Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, do Trần
Trọng Kim, nxb Trung Tâm Học Liệu, Sàigòn 1971, q1, tr 18. - Lược Sử Tộc
Việt, tr 169, đoạn 6.2].
LẦN THỨ 3 : NĂM 181 TTL, ĐẠI THẮNG
GIẶC TRUNG HOA TÂY HÁN.
Năm 181 ttl, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân
sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không
chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua
chạy về bắc. Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa
(!).
[Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 30; Việt
Sử Toàn Thư, do Phạm văn Sơn, nxb Thư Lâm, Sgn 1960, tr 89].
LẦN THỨ 4 : NĂM 40 DL, ĐẠI THẮNG GIẶC
TRUNG HOA ĐÔNG HÁN VÀ TÁI CHIẾM TOÀN THỂ ĐẤT VIỆT LẠC, ĐỨC TRƯNG NỮ VƯƠNG.
Năm 30 dl, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị
trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Đức
Trưng Trắc là Thủ Lãnh. Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra
khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.
Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã cố ý giảm
thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ
xác định vị trí, tình hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm
lại 65 thành, và đánh bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán. [Đọc
Lược Sử Tộc Việt, tr 327 tt. Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 39-40].
LẦN THỨ 5 : NĂM 541 DL, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA LƯƠNG, ĐỨC
LÝ NAM ĐẾ.
Năm 541 Đức Lý Nam Đế đánh đuổi quân trú đóng
Trung Hoa, giành độc lập. Xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc
hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.
Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại
quốc hiệu và niên hiệu của dân ta.
Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl.
[Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 53-56].
LẦN THỨ 6 : NĂM 938, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA NAM HÁN, ĐỨC
NGÔ QUYỀN.
Từ năm 906 dl Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự
trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.
Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là
Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức
Ngô Quyền đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán
là Lưu Cung cũng kéo quân tiếp ứng theo đường bộ. Nghe tin, ông khóc và rút về.
[Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 66-68].
LẦN THỨ 7 : NĂM 981, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA TỐNG, ĐỨC LÊ
ĐẠI HÀNH
Năm 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm
lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân
sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đức Lê Đại Hành. Với một trận Chi Lăng,
quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường
biển vội vàng rút lui. [Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 89-90].
LẦN THỨ 8 : NĂM 1076, ĐẠI THẮNG GIẶC TRUNG HOA TỐNG LẦN 2,
ĐỨC LÝ NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG LÝ THƯỜNG KIỆT.
”Danh tướng Lý Thường Kiệt qua nét vẽ theo phong cách huyền sử.
(Có tài liệu nói rằng, Lý Thường Kiệt là thái giám nên không để râu,
tuy nhiên, để giữ hình ảnh võ tướng, ông thường đeo râu giả)Năm 1072 dl, vua Lý nhân Tôn lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt.” Năm 1075, Lý thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc rộng lớn], nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây.
(Có tài liệu nói rằng, Lý Thường Kiệt là thái giám nên không để râu,
tuy nhiên, để giữ hình ảnh võ tướng, ông thường đeo râu giả)Năm 1072 dl, vua Lý nhân Tôn lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt.” Năm 1075, Lý thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc rộng lớn], nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết
kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như
Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về ! [Đọc thêm Lược
Sử Tộc Việt, tr 372-375; Vân Đài Loại Ngữ, do Lê Quý Đôn, (viết năm
1773 dl), nxb Tự Lực, Sgn 1974, tr 174-175, dẫn Nhị Trình Di Thư, do
Trình Di, và Uyên Giám, do Hoàng đình Kiên].
LẦN THỨ 9 : NĂM 1258, ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG CỔ LẦN 1, ĐỨC
TRẦN THÁI TÔN.
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý,
ở vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế
giới, chìếm đóng từ Á sang Âu.
Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai
(Uriyangqatai) đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại
Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết mọi người trong thành. [Ngột Lương Hợp
Thai là công thần thứ 3 của Nhà Nguyên, từng tham gia các trận đánh chiếm nước
Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt nước Đại Lý].
Vua Trần thái Tôn lo sợ, hỏi ý kiến Trần Thủ
Độ. Trần thủ Độ khẳng khái : “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”.
Chỉ mấy ngày sau, vua Trần thái Tôn dẫn quân
phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui,
quân Mông Cổ còn bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa. [Đọc thêm Việt
Nam Sử Lược, q1, tr 126-128].
LẦN THỨ 10 : NĂM 1284, ĐẠI THẮNG GIẶC
TRUNG HOA MÔNG NGUYÊN LẦN 2, ĐỨC TRẦN NHÂN TÔN,
Năm 1271 Hốt Tất Liệt (Khubilai) trở thành Đại Hãn của đế
quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 1279, quân Nguyên chiếm trọn đất
Trung Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 quốc gia từ Á sang Âu.
Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan
(Toghan), cùng với các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm
lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó,
toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.
Trước tình hình nguy biến, nhiều người muốn
hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư
cương quyết xin đem quân trấn giữ.
Vua Trần Nhân Tôn liền triệu tập các bô lão
trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin Đánh !
Trước thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút về
Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm Thành cũng đã chiếm Nghệ An.
Vua Nhân Tôn lại lo sợ, ‘muốn hàng để cứu muôn
dân’. Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời
nhân đức. Nhưng Quê hương Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu
tôi trước đã !”
Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được
Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa.
Khi đó tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan
dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không ?” Trần Bình Trọng quát to : “Ta thà
làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !”
Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá được
quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử.
Sau đó, tướng Trần Quang Khải đưa quân đi
thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, rồi dùng phục
binh chiếm lại Thăng Long.
Đức Hưng Đạo Vương thì đem quân đánh ở Tây Kết,
và giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền,
khí giới.
Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường
quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát
Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa. Thoát
Hoan trốn thoát về Tàu.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm
1697 dl, quân Nguyên kéo qua 50 vạn và sáu tháng sau, chỉ còn 5 vạn rút về.
[Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 137-150; Việt Sử Toàn Thư, tr
246-248].
LẦN THỨ 11 : NĂM 1287, ĐẠI THẮNG GIẶC
TRUNG HOA MÔNG NGUYÊN LẦN 3, ĐỨC TRẦN NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG.
Cuối tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan lại theo hai đường thủy bộ, kéo
thêm 50 vạn quân xâm lấn, với hơn 800 chiến thuyền, cùng với đoàn tàu 100 chiếc
chở lương thực. [Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư]. Phía Đại Việt có khoảng
từ 20 tới 30 vạn quân.
Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị
cắt đường liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp. Bộ chỉ huy của Đại Việt rút về
vùng Đồ Sơn, Hải Phòng.
Tướng Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn
và phá tan đoàn thuyền lương.
Tháng 3 năm 1288, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô
mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt
sắt xuống sông Bạch Đằng (như Đức Ngô Quyền năm 938 dl).
Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn
thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về
qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành.
[Đọc thêm Việt Nam Sử Lược, q1, tr 151-161].
LẦN THỨ 12 : NĂM 1428, ĐẠI THẮNG GIẶC
TRUNG HOA MINH, ĐỨC LÊ THÁI TỔ.
Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc
Minh, với Trương Phụ, bắt đầu chính sách đồng hóa dân ta với dân Tàu…
No comments:
Post a Comment