Những bóng hồng trong
thơ nhạc:
Bà Phạm Thị Nhu, vợ Hữu Loan kể :” Chúng tôi nuôi 10 đứa con thật
vô cùng vất vả, ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm
bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi
cứ xào một xoong to toàn các thứ rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay
cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 chuyến xe cải
tiến từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số bán cho các thuyền, rồi mới ăn vội bát
cơm độn, để chạy bộ 7 cây số đi học .”
Các con của Hữu Loan gần như không có ai vào được đại học, vì lý
lịch của 1 kẻ “nhân văn”. Một người con đủ điểm đi học nước ngoài cũng không
được đi học. Ông đã bị biết bao người thân trách cứ. Nhưng, khi quyết định rời
bỏ Hà Nội, Hữu Loan đã nói với vợ :
- Thôi thì bà và các con chịu khổ, để cho tôi được sông lương
thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu, xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không
làm được .
Ông giải thích : Làm nhà
văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi, viết vừa lòng dân thì đi tù
như chơi. Thôi tôi về đi cày .
1956, Hữu Loan tham gia Nhân Văn Giai
Phẩm. Trong thời kỳ này, bài thơ nổi tiếng xác định phong cách Hữu Loan là
bài Cũng những thằng nịnh hót đăng trên Giai Phẩm Mùa thu, tập
I:
Cũng những thằng nịnh hót
Dưới thời kỳ Pháp thuộc
Những thằng nịnh hót
nghênh ngang
Lưng rạp trước quan
Tây
Bắc vợ như thang
Chân trèo lên danh
vọng
Đuôi vợ chúng đi
Lọt theo đầu chúng
Bao nhiêu nhục nhằn;
Nhục mất nước muôn
phần
Nhục cùng đất nước
với những thằng nịnh
hót
Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ dân chủ
cộng hoà
Những thằng nịnh còn
thênh thang
đất sống
Không quần chùng, áo
thụng
Không thang đàn bà
Nhưng còn
thang lưng
thang lưỡi
Những mồm
không tanh tưởi
Ngậm vòi đu đủ
Trợn mắt
Phùng mang
Thổi vào rốn cấp trên
“Dạ, dạ, thưa anh…
Dạ, dạ, em, em…”
Gãi cổ
Gãi tai:
… anh quên ngủ
quên ăn
nhiều quá!
Anh vì nước vì dân hơn tất cả từ trước đến nay
Chân xoa và xoa tay,
Hít thượng cấp
vú thơm như mùi mít
Gọi như thế là
phê bình cấp trên kịch liệt
Gặp cấp trên chủ quan
Mũi như chim vỗ cánh
Bụng phềnh như trống
làng:
Thấy mình đạo đức tài năng hơn tất.
Như thế là chết rồi:
Quân nịnh tha hồ lên cấp
Như con gì nhà gác
lên thang
Còn muốn lên thủ
trưởng cơ quan
Còn đi đây đi đó
Lưỡi và lung
Lắm chằng gian khổ
Chúng nó ở đâu:
Thối thóc thuế
Mục kho hàng
Phong trào suy sụp
Nhân dân mất cắp
đang giữa ban ngày
To cánh và to vây
Những ai không
nịnh hót
Đi, mang cao liêm sỉ con người
Chúng gieo hoạ gieo tai
Kiểm thảo hạ tằng
Còn quy là phản động!
Có người đã chết oan vì chúng
Vẫn thiết tha yêu chế
độ đến hơi thở cuối cùng
Nguy hiểm thay,Thật khó mà trông:
Chúng nó nguỵ trang
Bằng tổ chức bằng quan điểm nhân
dân bằng lập trường chính sách
Chúng nó còn thằng nào
Là chế độ ta chưa sạch
Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng
Những người đã đánh bại xâm lăng
Đỏ bừng mặt vì những tên quốc xỉ
Ngay giữa những thời
nô lệ
Là người chúng ta không ai biết cúi đầu.
(9-1956) Sau cuộc thanh trừng năm 1958, Hữu Loan
không bị đi cải tạo, có lẽ vì ông không ở trong danh sách được coi là "đầu
sỏ". Hữu Loan tự ý bỏ về Thanh Hoá, ông đi thồ đá, bà làm ruộng và làm
bánh, nuôi 10 người con. Không còn liên hệ gì với chính quyền nữa. Khi bị công
an phiền nhiễu, ông đánh cả công an.
Hữu Loan là một trong những khuôn mặt trực
tính và bất khuất nhất trong Phong Trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Những bóng hồng trong
thơ nhạc:
Bài thơ Màu tím hoa sim của Hữu Loan được vinh danh
là “một trong những bài thơ tình hay nhất thế kỷ XX” và lập những kỷ lục: Bài
thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc nhất (7 ca khúc) và Bài thơ được mua với giá
cao nhất (100 triệu đồng, thời điểm năm 2004).
Nhà thơ Hữu Loan thời thiếu
niên (đầu thập niên 30 thế kỷ trước) thuộc dạng cực kỳ thông minh. Bố ông là
tá điền, nhà nghèo không có điều kiện cắp sách đến trường như các bạn đồng
trang lứa, Hữu Loan chỉ được cha dạy cho “chữ có, chữ không”…
Vậy mà cậu đỗ đầu
kỳ thi cao đẳng tiểu học, rồi rời quê nhà (làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện
Nga Sơn) để lên tỉnh lỵ Thanh Hóa vừa đi dạy kèm, vừa theo học trường Trung
học Đào Duy Từ.
Năm 1941, Hữu Loan ra Hà Nội thi tú tài, thi chỉ để “chứng tỏ
con nhà nghèo cũng có thể đỗ đạt”. Y như rằng, trong hơn 700 thí sinh, nhưng
số người đỗ chỉ “đếm trên đầu ngón tay” ấy lại có tên… Nguyễn Hữu Loan.Dạo ấy
ở Thanh Hóa có cửa hàng vải và sách báo của bà Tham Kỳ (bà này tên thật là
Đái Thị Ngọc Chất, vợ của ông Thanh tra Canh nông Đông Dương Lê Đỗ Kỳ, nên
gọi tắt là bà Tham Kỳ).
Bà là người hiền lành, tốt bụng. Thấy “cậu tú Loan”
là người hay chữ có tiếng lại thường đến cửa hàng của mình đọc sách, nên đã
bàn cùng chồng mời “cậu tú” làm gia sư cho các con của mình, gồm: Lê Đỗ Khôi,
Lê Đỗ Nguyên, Lê Đỗ An và cô con gái Lê Đỗ Thị Ninh… Trong hồi ký, nhà thơ
Hữu Loan viết: “Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái
- lúc đó 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước lên khoanh tay, miệng lí nhí: “Em
chào thầy ạ!”.
Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi
mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo
tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em học, dạy viết… Em thật thông minh,
dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như “bà cụ non”.
Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo… những buổi trưa hè, nhằm
lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng
giặt…”.
Có một buổi chiều, anh giáo trẻ đưa cô học trò nhỏ lên chơi ở ngọn đồi
gần nhà. “Leo đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi bên em. Chúng tôi
ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi rồi ngước mắt nhìn
ra tận chân trời… “Thầy có thích ăn sim không?”. Tôi nhìn xuống sườn đồi tím
ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm
thiếp đi trên thảm cỏ… Khi tôi tỉnh dậy, em ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp
sim. Những quả sim đen láy, chín mọng… “Thầy ăn đi!”.
Quả sim đối với tôi
chẳng lạ lẫm gì nhưng thú thật chưa bao giờ tôi ăn những quả sim ngọt đến
thế! Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai
hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu
sim.
Tôi cười phá lên, em cũng cười theo. Cuối mùa đông năm ấy, tôi lên đường
theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng
nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé
và mong manh. Em đưa bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi.
Tôi vẫy trả
và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… Em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn
lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa… Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Hôm
gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều nhưng em không nói gì, chỉ bẽn
lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa
rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Một tuần sau đó, chúng tôi
kết hôn, việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm soạn
kịch bản.
Tôi bàn chuyện may áo cưới thì em gạt đi, bảo là “yêu nhau cốt là ở
cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả!”. Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay
lại… đẹp trai nên em thường gọi đùa là “anh chồng độc đáo”.
Đám cưới được tổ
chức tại ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa (nơi gia đình ông Lê Đỗ
Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng) - rất đơn sơ nhưng hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao
giờ hết! Hai tuần nghỉ phép của tôi trôi qua thật nhanh. Hôm tiễn tôi lên
đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng.
Chỉ có điều giờ
em không còn là cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước
đi rồi quay đầu nhìn lại… Nếu như chín năm trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi
buồn man mác thì lần này… đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống!Ba tháng sau, tôi
nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời!
Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948.
Em ra giặt quần áo ngoài sông Chuồn, vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn
trôi nên trượt chân chết đuối… Khi ấy, chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An,
tôi ngồi lặng đi, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra…
Chẳng cần phải suy
nghĩ gì, những câu, những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nàng có ba người anh đi bộ
đội/Những em nàng/Có em chưa biết nói… Tóc nàng xanh xanh/ngắn chưa đầy
búi/Em ơi giây phút cuối/không được nghe nhau nói/không được trông nhau một
lần/Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím/áo nàng màu tím hoa sim…”.
Về viếng mộ
nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương. Viết lại bài thơ vào
chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và
chuyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu tím hoa
sim…”.
Sau năm 1975, nhà thơ Hữu Loan có dịp vào Sài Gòn. Một hôm đang đi
trên phố ông bắt gặp một người đàn ông cụt chân ôm cây guitar cũ kỹ hát xin
tiền. Lời bài hát nghe quen quá: “Những đồi hoa sim ơi những đồi hoa sim tím
chiều hoang biền biệt. Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc
búi vai. Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về. Rồi một chiều
mưa bay, từ nơi chiến trường Đông Bắc đó, lần ghé về thăm xóm hoàng hôn tắt
sau đồi…”. Hỏi, mới biết đó là bài Những đồi hoa sim mà lần đầu tiên Hữu Loan
được nghe.
Ông đề nghị người hành khất hát lại một lần nữa, rồi vét sạch tiền
trong túi bỏ vào chiếc ca nhựa và nói: “Tôi là tác giả bài thơ được phổ
nhạc”, rồi bước đi với đôi mắt ngấn lệ… Hà Đình Nguyên Thúy đã đi rồi,
nhiều bạn đọc đã quan tâm đến nữ ca sĩ tài sắc một thời Thanh Thúy và yêu cầu
cho biết rõ hơn về nhân vật này.
Xin cung cấp thêm nhiều chi tiết thú
vị…Thanh Thúy tên thật là Nguyễn Thị Thanh Thúy, sinh năm 1943 tại Huế trong
một gia đình có 5 người con. Do bà mẹ mắc bệnh nan y nên gia đình Thanh Thúy
phải rời đất Thần kinh đưa mẹ vào Sài Gòn chữa trị. Gia đình họ thuê một căn
nhà nhỏ trong con hẻm trên đường Cao Thắng.
Để mưu sinh và để kiếm thêm tiền
phụ vào việc thuốc thang cho mẹ, Thanh Thúy đã đến với nghiệp ca hát khi mới
16 tuổi. Thân gái dặm trường nơi đất khách quê người, điều khiến cho Thanh
Thúy “dám” tự tin xuất hiện dưới ánh đèn sân khấu chính là giọng hát của mình
vốn từng được nhiều lời khen ngợi.Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn Lần đầu tiên tiếng
hát Thanh Thúy đến với công chúng Sài Gòn là ở phòng trà Việt Long của Đức
Quỳnh vào cuối năm 1959.
Với chất giọng trầm ấm, hơi khàn và lối phát âm, nhả
chữ rất riêng, giọng ca của Thanh Thúy mang nỗi buồn man mác, nghẹn ngào nức
nở. Dáng dấp mảnh mai và mái tóc dài buông lơi trên đôi vai gầy trong tà áo
dài màu trắng hoặc lam nhạt... tạo cho nàng ca sĩ xứ Huế này một phong thái
thật đặc biệt… Những bản nhạc Thanh Thúy thường hát là Giọt mưa thu (Đặng Thế
Phong), Tiếng xưa (Dương Thiệu Tước), Kiếp nghèo (Lam Phương), Tàu đêm năm
cũ, Nửa đêm ngoài phố (Trúc Phương)…
Tháng 6.1960, thân mẫu của Thanh Thúy qua
đời, điều đó càng làm cho giọng hát của chị thêm não nùng để những ai “lỡ
nghe” đều có cảm xúc lâng lâng… Và, như đã nói ở bài trước, có cả một thế hệ
văn nghệ sĩ ở Sài Gòn đâm ra…mê mệt với Thanh Thúy, trong đó có một chàng thư
sinh mới tò te bước vào làng nhạc, nhưng sau này rất nổi tiếng: Trịnh Công
Sơn!Trong tác phẩm Về một quãng đời Trịnh Công Sơn (của Nguyễn Thanh Ty),
nhạc sĩ tâm sự: “Năm đó tôi 17 tuổi, trọ học ở Sài Gòn, đêm nào tôi cũng lò
dò đến các phòng trà để nghe Thanh Thúy hát.
Dần dần hình bóng Thanh Thúy đã
ăn sâu vào trong tôi lúc nào không biết. Nói yêu Thanh Thúy thì cũng chưa hẳn
bởi tôi mặc cảm nghèo và vô danh, trong khi Thanh Thúy là một ca sĩ đang lên,
kẻ đón người đưa tấp nập. Biết vậy, nhưng tôi không thể không đêm nào thiếu
hình ảnh và tiếng hát của nàng.
Có đêm tôi chỉ đủ tiền để mua một ly nước
chanh. Đêm đêm tôi thao thức với những khát khao, mơ ước phải làm một cái gì
đó để tỏ cho Thanh Thúy biết là tôi đang rất ngưỡng mộ nàng. Cái khát vọng đó
đã giúp tôi viết nên bản nhạc Ướt mi đầu tiên trong đời...”.
Đó là lần ngồi ở
nhà hàng Mỹ Cảnh, chàng trai trẻ Trịnh Công Sơn đã viết vào một mảnh giấy
nhỏ, đề nghị ca sĩ Thanh Thúy hát bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong. Điều
chàng bất ngờ là Thanh Thúy đã hát bài này với một cảm xúc thật mãnh liệt,
khi hát “...vài con chim non chiêm chiếp kêu trên cành, như nhủ trời xanh:
Gió ngừng đi, mưa buồn chi, cho cõi lòng lâm ly... Ai nức nở thương đời châu
buông mau, dương thế bao la sầu...” - nhớ đến người mẹ bị lao phổi nặng, đang
mỏi mòn chờ con trong căn nhà nhỏ ở con hẻm sâu - nàng đã bật khóc.
Những
giọt nước mắt đọng trên vành mi của người ca sĩ tuổi mới tròn trăng đã gieo
vào lòng Trịnh Công Sơn nỗi xúc cảm tràn ngập để chàng viết thành ca khúc Ướt
mi.“Khi hoàn thành, tôi nắn nót chép lại thật kỹ càng và luôn mang theo bên
mình chờ có dịp tặng nàng. Với sự nhút nhát của tuổi trẻ, tôi không dám đưa
tặng ngay mà phải chờ khá lâu mới có cơ hội.
Một hôm tôi đánh bạo, tìm một chỗ
sát sân khấu, dự định khi nàng vừa dứt tiếng hát là tôi sẽ đứng lên đưa luôn.
Đã mấy lần định làm vẫn không kịp. Nàng vừa cúi đầu chào khán giả là đã có
người chực sẵn rước đi ngay. Cái đêm định mệnh mà tôi quyết tâm an bài đã
thành công.
Khi cầm bản nhạc trong tay, nghe mấy lời lí nhí của tôi, nàng chỉ
thoáng nhìn tôi một chút rồi quay vào hậu trường. Đêm đó, tôi nôn nao không
ngủ được... Mãi đến hai tuần sau, khi tôi sắp tuyệt vọng vì mỏi mòn chờ đợi
thì một đêm kia, khi bước lên bục diễn, dàn nhạc dạo khúc mở đầu thì nàng ra
dấu cho dàn nhạc tạm im tiếng để nàng nói vài lời: “Thưa quý vị ! Đêm nay
Thúy sẽ trình bày một tác phẩm rất mới của một nhạc sĩ rất lạ tặng cho Thúy.
Đó là nhạc phẩm Ướt mi của tác giả Trịnh Công Sơn. Hy vọng đêm nay sẽ có sự hiện
diện của tác giả để Thúy được nói vài lời cám ơn”. Nói xong, nàng quay sang
ban nhạc, đưa bản nhạc của tôi cho họ dạo nhạc bắt đầu. Nàng cất tiếng hát:
“Ngoài hiên mưa rơi rơi, lòng ai như chơi vơi.
Người ơi nước mắt hoen mi rồi.
Đừng khóc trong đêm mưa, đừng than trong câu ca... Buồn ơi trong đêm thâu, ôm
ấp giùm ta nhé: người em thương mưa ngâu, hay khóc sầu nhân thế…Trời sao chưa
thôi mưa, ôi mắt người em ấy.
Từ đây thôi mờ, nước mắt buồn mi em thơ
ngây...”. Tôi run lên trong lòng vì sung sướng và xúc động…Khi dứt tiếng hát,
nàng dừng lại khá lâu, có ý chờ người tặng nhạc.
Tôi thu hết can đảm, bước
lên và nói: “Xin cám ơn Thanh Thúy đã hát bài nhạc của tôi”. Nàng “A” lên một
tiếng ra vẻ bất ngờ rồi nói tiếp: “Thúy rất cám ơn anh đã tặng cho bản nhạc. Thúy
muốn nói chuyện riêng với anh được không ?”.
Tôi luống cuống gật đầu…Tôi cùng
nàng đón taxi về nhà nàng. Nhà nàng ở sâu trong một ngõ hẻm... Cũng chính từ
ngõ hẻm nhà nàng mà Trịnh Công Sơn làm tiếp bài Thương một người: “Thương ai
về ngõ tối, sương rơi ướt đôi môi... Thương nụ cười và mái tóc buông lơi. Mùa
thu úa trên môi, từng đêm qua ngõ tối, bàn chân âm thầm nói. Lặng nghe gió
đêm nay, ngại buốt quá đôi vai.
Bờ vai như giấy mới, sợ nghiêng hết tình
tôi…”. Đó là hai bản nhạc trong “thuở vào đời” của Trịnh Công Sơn và những kỷ
niệm thật đẹp với nữ ca sĩ Thanh Thúy.
Hà Đình Nguyên Trong lịch sử âm
nhạc Việt Nam, Đặng Thế Phong là một trường hợp đặc biệt. Ông là một trong
rất ít nhạc sĩ tiên phong của thời kỳ tân nhạc còn phôi thai, chết rất trẻ nhưng
kịp để lại cho đời 3 ca khúc bất hủ.
Người viết có may mắn được gặp gỡ hai
người biết khá rõ về cuộc đời Đặng Thế Phong. Đó là nhạc sĩ Lê Hoàng Long,
tác giả ca khúc Gợi giấc mơ xưa (hiện sống tại TP.Saigon) và nhà văn Phạm Cao
Củng (gặp cách đây khoảng 10 năm, khi ông từ Mỹ về thăm quê hương, qua sự
giới thiệu của họa sĩ Mạc Chánh Hòa).
Theo nhà văn Phạm Cao Củng thì Đặng Thế
Phong là một chàng trai rất đẹp, đàn hay hát giỏi, thích hóa trang thành
thiếu nữ trong những vở kịch ngắn. Anh diễn rất đạt nên ai cũng yêu thích,
nhất là phái nữ. Nhạc sĩ Lê Hoàng Long thì khẳng định người yêu của Đặng Thế
Phong tên Tuyết. Tuyết không đẹp nhưng có duyên.
Cô là con gái một chủ tiệm
buôn bán “gối màn chăn drap” ở chợ Sắt (Nam Định). Vốn tính nhút nhát, Đặng
Thế Phong nghĩ mãi cũng không biết làm cách nào để “tiếp cận” người đẹp. Cuối
cùng, anh vờ làm khách hàng vô hỏi giá rồi... nhét vội vào tay nàng một lá
thư.
Chẳng biết nội dung bức thư đầu tiên này mùi mẫn như thế nào mà sau đó
cô Tuyết đã cự tuyệt một anh thông phán trẻ làm việc ở Tòa Đốc lý Nam Định,
khi anh này dạm hỏi.
Thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng Trước khi quen và yêu
Tuyết, Đặng Thế Phong đã sáng tác ca khúc đầu tay Đêm thu trong một đêm cắm
trại của Hướng đạo sinh (1940). Ca từ của bản nhạc rất trong trẻo, lạc quan...
Còn bản Con thuyền không bến thì được sáng tác ở Phủ Lạng Thương (Bắc Giang)
khi tình yêu giữa nhạc sĩ và cô Tuyết đang độ chín mùi.
Một hôm, ông
cùng một nhóm bạn văn nghệ sĩ lên Bắc Giang chơi, nhân đó họ tổ chức một đêm
đi thuyền trên sông Thương. Cùng lúc đó, chàng nhận được tin Tuyết ngã bệnh
nơi quê nhà. Lòng dạ bồn chồn, xót xa, Đặng Thế Phong ôm đàn bước vào khoang
thuyền, bỏ mặc các bạn đang đùa vui. Khi đêm sắp tàn thì bản nhạc hoàn tất
với những lời ai oán não nùng gửi về... chân mây: “Đêm nay thu sang cùng heo
may.
Đêm nay sương lam mờ chân mây... như nhớ thương ai chùng tơ lòng...”,
rồi “... Nhớ khi chiều sương cùng ai trắc ẩn tấm lòng. Biết bao buồn thương,
thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng...”. Sớm hôm sau, Đặng Thế Phong tức tốc trở về
Hà Nội, người đầu tiên được nghe chính tác giả hát ca khúc này là người yêu
của ông.
Cô Tuyết hết sức cảm động. Chưa hết, chỉ ít lâu sau, Con thuyền
không bến ra mắt khán giả thủ đô tại Nhà hát Lớn Hà Nội qua tiếng hát của nữ
ca sĩ Vũ Thị Hiển. Từ Nam Định, cô Tuyết đã bỏ hẳn một ngày chợ để lên Hà
Nội, ngồi cạnh Đặng Thế Phong, ngay ở hàng ghế đầu để nghe bài hát “người ấy
làm riêng cho mình”.
Hạnh phúc còn nhân đôi bởi chỉ khoảng một tuần sau, tại
rạp Olympia (phố Hàng Da, Hà Nội), cô Tuyết còn được chứng kiến người mình
yêu tự đệm đàn, tự hát ca khúc này mà ánh mắt luôn trìu mến hướng về chỗ cô
ngồi, trong tiếng hoan hô nhiệt liệt của khán giả. Trời thu gieo buồn lây Sau
khi từ Bắc Giang về, Đặng Thế Phong đã nhuốm bệnh.
Thời đó, bệnh lao là một
bệnh nan y và luôn bị những người chung quanh xa lánh.Bệnh tình ngày càng
trầm trọng, ở tỉnh không đủ điều kiện chữa trị, Đặng Thế Phong phải chuyển
lên Hà Nội, sống chung với ông chú họ Nguyễn Trường Thọ trong một căn gác ở
làng hoa Ngọc Hà (ngoại ô Hà Nội).
Tuy vậy, tình trạng vẫn không khá hơn chút
nào. Gia cảnh nghèo nàn, tiền bạc phải vay mượn để chữa trị, cuộc sống kham
khổ làm cho tình cảnh của nhạc sĩ càng thêm nghiệt ngã... Cô Tuyết vì phải
phụ giúp gia đình chuyện buôn bán ở thành Nam nên vài hôm mới lên Hà Nội chăm
sóc người yêu rồi lại tất tả quay về. Tháng 7 mưa ngâu.
Cảnh buồn tê tái.
Đặng Thế Phong nhớ Tuyết quay quắt... Nhạc hứng tuôn trào, chàng gượng ngồi
dậy, ôm đàn và viết nên khúc nhạc buồn da diết: “Ngoài hiên giọt mưa thu
thánh thót rơi. Trời lắng u buồn, mây hắt hiu ngừng trôi. Nghe gió thoảng mơ
hồ trong hơi thu, ai khóc ai than hờ... Trời thu đến nơi đây gieo buồn lây.
Lộng vắng bốn bề không liếp che gió về. Ai nức nở quên đời châu buông mau,
dương thế bao la sầu...”. Bản nhạc được chàng đặt tên là Vạn cổ sầu. Bạn bè
góp ý nhạc thì hay nhưng cái tựa bi thảm quá. Cuối cùng, tên bản nhạc được
đổi thành Giọt mưa thu.
Cuối năm 1941, biết mình khó qua khỏi, Đặng Thế Phong
nhờ ông Thọ đưa về Nam Định. Từ đấy cho đến lúc Đặng Thế Phong lìa đời, cô Tuyết
lúc nào cũng túc trực bên giường bệnh để chăm sóc ông, khiến những người quen
biết đều xót xa thương cảm cho một mối tình vô vọng lẫn nể phục tính cách cao
thượng chung thủy của Tuyết.
Tang lễ của chàng nhạc sĩ 24 tuổi ấy được rất
nhiều thanh niên nam nữ của thành Nam tham dự. Ngoài việc đưa tiễn một người
con tài hoa nổi tiếng của quê hương, họ còn muốn chia sẻ và tỏ lòng trân
trọng đến với cô thiếu nữ mặc áo đại tang đi sau linh cữu của chàng (việc này
được phép của cả hai gia đình). Đặng Thế Phong sinh năm 1918 tại TP.Nam
Định.
Cha là Đặng Hiển Thế - thông phán Sở Trước bạ Nam Định. Thân phụ Đặng
Thế Phong mất sớm, hoàn cảnh gia đình quá túng thiếu, Đặng Thế Phong phải bỏ
dở việc học (đang học năm thứ hai bậc thành chung - tương đương lớp 7 bây
giờ) để lên Hà Nội tìm kế sinh nhai. Với chất nghệ sĩ thiên phú và tư chất
cực kỳ thông minh, Đặng Thế Phong đã “len” vào được Trường cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương (học dự thính). Ở Hà Nội, Đặng Thế Phong vừa học vẽ vừa thực hành
để nuôi thân.
Ông chuyên vẽ minh họa cho tờ báo Học sinh do nhà văn chuyên
viết truyện trinh thám Phạm Cao Củng làm chủ nhiệm. Hà Đình Nguyên Nhạc
sĩ Dương Thiệu Tước được ghi nhận là một trong những người đặt nền móng cho
nền tân nhạc Việt, còn người bạn đời của ông - ca sĩ Minh Trang - cũng được
cho là một trong những ca sĩ tiên phong của làng ca nhạc Việt. Tiếng hát “lá
ngọc cành vàng” Trước khi gặp nhau, Dương Thiệu Tước và Minh Trang đều xuất
thân từ những gia đình “danh gia vọng tộc”.
Dương Thiệu Tước sinh năm
1915 tại làng Vân Đình, huyện Sơn Lãng, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông. Ông là
cháu nội của cụ nghè Dương Khuê. Ở giai đoạn phôi thai của nền tân nhạc Việt,
trong khi nhiều người mượn những bài hát phương Tây rồi đặt lời Việt cho dễ
hát thì ông lại cả gan viết “lời Tây theo điệu ta”.
Dương Thiệu Tước đánh đàn
guitar hawaienne rất giỏi, ông còn là chủ nhân của một cửa tiệm bán đàn ở phố
Hàng Gai, Hà Nội và có mở cả lớp dạy đàn. Trong sinh hoạt hằng tuần với các
bạn nhạc sĩ tài tử của mình, ông đã sáng tác mấy bài mang những đầu đề bằng
tiếng Pháp, như Joie d'aimer (Thú yêu đương), Souvenance (Hồi niệm), Ton Doux
Sourire (Nụ cười êm ái của em)... Lời ca của những bài này do Thẩm Bích (anh
ruột của Thẩm Oánh) soạn bằng Pháp ngữ.
Ông từng tuyên bố: "Nếu đã có
nhà văn Việt Nam viết văn bằng tiếng Pháp, thì nhà soạn nhạc Việt Nam cũng có
thể viết được những bản nhạc có âm điệu Tây phương'' (Báo Việt Nhạc số 5,
ngày 16.10.1948)... Còn cô Nguyễn Thị Ngọc Trâm (tên thật của Minh Trang) là
con gái của quan Tổng đốc Bình Định Nguyễn Hy (sau này ông còn làm Tổng đốc Thanh
Hóa, rồi Thượng thư Bộ Hình). Ngọc Trâm còn là cháu ngoại của công chúa Mỹ
Luông (còn gọi là Bà Chúa Nhất) - em ruột vua Thành Thái...
Ngọc Trâm chào
đời năm 1921 trong một nhà hộ sinh nằm ngay trên Bến Ngự (Huế). Như một định
mệnh, 25 năm sau, một bài hát bất hủ mang tên Đêm tàn Bến Ngự của một nhạc sĩ
tài hoa ra đời mà tên tuổi của ông sẽ gắn liền với cuộc đời của cô bé Ngọc
Trâm sau này.
Thời thiếu nữ, ngoài sắc đẹp trời cho, Ngọc Trâm còn sở hữu một
giọng hát thiên phú. Những năm học tiểu học ở trường dòng Jeanne d’Arc, rồi
trung học ở Lycée Khải Định (Huế) thập niên 1930, tiếng hát của cô làm cho
biết bao thầy cô, bạn bè cùng trường ngây ngất. Dĩ nhiên, đó là những bài hát
Pháp, bởi lúc đó chưa có bài hát nào mà bây giờ chúng ta gọi là “nhạc tiền
chiến”…
Năm 1942, sau khi tốt nghiệp tú tài toàn phần (nên nhớ vào lúc đó rất
hiếm phụ nữ đỗ đạt như thế), Ngọc Trâm kết hôn với một giáo sư nổi tiếng của
đất thần kinh: giáo sư Ưng Quả (cháu nội của Tuy Lý vương Miên Trinh)… Nhưng
chỉ mấy năm hương lửa mặn nồng, giáo sư Ưng Quả qua đời trong giai đoạn
chuyển mình của đất nước, chế độ phong kiến cáo chung.
Lúc này, giai cấp quan
lại, thượng lưu không còn được ưu đãi, cuộc sống của họ trở nên khó khăn…
Năm
1948, Ngọc Trâm đưa 2 người con vào Sài Gòn dự thi và trúng tuyển vai trò
xướng ngôn viên cho Đài phát thanh Pháp Á.
Công việc của cô là dịch những bản
tin từ tiếng Pháp sang tiếng Việt và đọc những bản tin đó trên làn sóng.
Trong những lần dịch tin, Ngọc Trâm thường nghêu ngao những bài hát Việt mới
thịnh hành gần đây như Giọt mưa thu, Con thuyền không bến (Đặng Thế Phong,
sáng tác năm 1939), Tiếng xưa (1940),
Đêm tàn Bến Ngự (1946) của Dương Thiệu
Tước... Hát chơi vớ vẩn thế thôi, vậy mà tiếng hát ấy đã làm cả đài phát
thanh ngẩn ngơ.
Một hôm, ông Hoàng Cao Tăng - chủ sự Phòng Văn nghệ chợt đề
nghị Ngọc Trâm thử hát trên sóng phát thanh một bài. Sau những đắn đo và cả
những lời động viên, khuyến khích, tiếng hát của… nữ ca sĩ Minh Trang lần đầu
tiên gửi đến quý thính giả Đài Pháp Á qua ca khúc Giọt mưa thu của Đặng Thế
Phong. Minh Trang hát hay đến nỗi đài phát thanh quyết định trả “cát sê”
ngay, không kể tiền lương... Cũng cần nói thêm, do ngại ngùng nên Ngọc Trâm
không dám hát với tên thật mà ghép tên của hai người con (Bửu Minh và Công Tằng
Tôn Nữ Đoan Trang) thành nghệ danh (Đoan Trang sau này trở thành nữ ca sĩ
Quỳnh Giao ở hải ngoại).
Từ đó, tiếng hát của nữ ca sĩ Minh Trang theo sóng
phát thanh của Đài Pháp Á lan tỏa khắp nơi. Năm 1949, chính Thủ hiến Bắc kỳ
Nguyễn Hữu Trí gửi công văn mời đích danh ca sĩ Minh Trang tham dự Hội chợ
đấu xảo tại Hà Nội.
Đây là dịp để các nhạc sĩ hào hoa xứ Bắc kéo nhau đến
chiêm ngưỡng nhan sắc của “giọng hát vàng phương Nam”. Và định mệnh đã xuống
tay khi trong số những tài tử ấy có mặt Dương Thiệu Tước. Tuy đã có hai mặt
con nhưng Minh Trang lúc ấy vẫn giữ được một vẻ đẹp quý phái “chim sa, cá
lặn”.
Duyên nợ ba sinh Đúng 60 năm sau (2009), ở tuổi chín mươi, bà
Minh Trang kể lại với nhà thơ Du Tử Lê rằng: “Mặc cho các bạn Thẩm Oánh,
Nguyễn Thiện Tơ, Dzoãn Mẫn… lăng xăng, líu lo, rối rít, ông ấy (Dương Thiệu
Tước) im lặng từ đầu đến cuối. Chỉ nhìn thôi. Lâu lâu mới mỉm cười.
Sự xa
cách, lặng lẽ này khiến tôi càng thêm chú ý. Trước khi gặp gỡ, tôi đã từng
hát nhạc của ông ấy nên tôi cũng rất ao ước được gặp mặt con người tài hoa
này”.
Thế rồi “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”...Khi Minh Trang trở lại
Sài Gòn, chỉ ít ngày sau nàng nhận được thư tỏ tình của tác giả Tiếng xưa. Có
lẽ vẻ lạnh lùng, ít nói của ông khi cùng các bạn vây quanh Minh Trang là do ông
tự mặc cảm mình đã có vợ (19 tuổi, ông lập gia đình với bà Lương Thị Thuần,
cũng xuất thân từ một dòng họ khoa bảng. Thời đó việc kết hôn thường được các
cụ dàn xếp theo truyền thống “môn đăng hộ đối”.
Ông bà đã có 3 con gái và 2
con trai). Thế nhưng khi Minh Trang như cánh chim vút bay xa thì ông không
thể dối lòng được nữa, ông thật sự bị “hớp hồn” bởi vẻ đẹp và giọng hát của
nàng. Những cánh thư liên tiếp qua lại giữa hai miền. Những ca khúc ông sáng
tác trong giai đoạn này do Nhà xuất bản Tinh Hoa (Huế) xuất bản, ông không
còn đứng tên đơn lẻ nữa, mà ghi “Nhạc và lời:
Dương Thiệu Tước - Minh Trang”.
Đó là những ca khúc bất hủ, tiêu biểu như Bóng chiều xưa, Buồn xa vắng, Khúc
nhạc dưới trăng, Ôi quê xưa, Vui xuân... Nữ ca sĩ Minh Trang cũng kể lại rằng,
trước khi nhận lời cầu hôn của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, chính bà đã bay ra Hà
Nội để gặp người vợ trước của ông này và thông báo quyết định của hai người.
“Có thể không có một người phụ nữ thứ hai, nhất là ở thời đó, hành xử như
tôi. Nhưng đó là tôi, cách của tôi: tự tin và tự trọng!” - bà nói.
Khi
hai người chính thức chung sống ở Sài Gòn, ông làm tặng vợ mình ca khúc Ngọc
Lan. “Ngọc Lan” là do tên Ngọc Trâm của bà. Nếu ai có bản gốc của Nhà xuất
bản Tinh Hoa (1953) sẽ thấy tất cả những chữ Ngọc Lan trong bài hát đều được
viết hoa, để phân biệt đây là tên người chứ không phải là tên loài hoa: “Ngọc
Lan, dòng suối tơ vương, mắt thu hồ dịu ánh vàng. Ngọc Lan, nhành liễu
nghiêng nghiêng, tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song... Ngọc Lan, giọng
ướp men thơ, mát êm làn lụa bông là. Ngọc Lan, trầm ngát thu hương, bờ xanh
bóng dương phút giây chìm sương... (Ngọc Lan). Sau 25 năm chung sống, đôi tài
tử giai nhân có thêm 5 người con (1 trai, 4 gái).
Cùng với Bửu Minh và Đoan
Trang, tất cả đều được “bố Tước” đào tạo bài bản ở Trường quốc gia Âm nhạc và
Kịch nghệ Sài Gòn. Sau năm 1975, bà Minh Trang và các con sang định cư ở Mỹ.
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước ở lại và qua đời vào ngày 1.8.1995 tại TP.Saigon,
thọ 80 tuổi. Bà Minh Trang mất ngày 17.8.2010 tại California (Mỹ), thọ 90
tuổi.
Hà Đình Nguyên
|