PHÉP LẠ LAVANG :
Câu chuyện NS Lê Tín
Hương viết kể lại và trao cho Linh Mục Ngô Van Trọng để nhờ truyền đi
khắp nơi . NS LTH cho biết LM Trọng là một trong ba LM dạy giáo lý CG và rửa
tội cho tất cả chín người trong gia đình bà .
Như vậy thì chuyện có
thể đáng tin vì ít nhất có LM Trọng là nhân chứng thật trong phép lạ La Vang
này . Hơn nữa khi viết kể phép lạ LV này thì cả cha mẹ của bà còn sống ở Nam
Cali , người ta có thể kiếm chứng dễ dàng . Ngoài ra con trai của bà là ca sỹ
Lê Tâm ( TT Asia) là chứng nhân rõ thêm nữa .
Một xe chở năm
người rớt chìm sâu dưới cầu sông Quảng Trị . Bốn người chết
đã vớt xác lên trước đó . Riêng ba của NS LTH nằm sâu dưới
lòng sông gần một ngày . Như vậy không thể nào sống được ,
ngoại trừ phép lạ.
Trong các Video do
Thượng Tọa Thích Thông Lai kể chuyện ghe vượt biên , Thầy đi theo một
nhóm người trong xo'm đạo CG . Khi sóng gió nổi lên sắp chìm , mọi người
ai nấy đọc kinh cầu nguyện DM LV . Thây cho biêt có thể nhờ vậy mà Thâ`y thoát
chết .
Hiện nay TT Thích Thông
Lai có cho đặt một tượng DM La Vang thật lớn trong chùa
A Di Đà .
On Thursday, October 29, 2015 5:32 AM, "Ts Hồng Lĩnh [Btgvqhvn-3]"
<>
wrote:
Sau
khi tôi sinh ra được tám ngày, mẹ tôi mang tôi tới nhà thờ và đặt tôi
trên bàn thờ
có ảnh
tượng Đức Mẹ và khẩn cầu: " Con xin giao phó cho Mẹ thằng con trai
nầy của
con và xin mẹ che chở nó suốt trọn đời nó".
Và thật lạ, trong những
giây phút lâm nguy, tôi cảm thấy có một che chở lạ thường.
Nên cứ mỗi năm, vào tháng năm, tôi bất kể trường hợp nào, cố mang
một bó hoa kính
Mẹ tại một thánh đường vào sáng thư bảy và xây một tượng đài
kính Mẹ tại vườn.
Nếu không, tôi đã tiêu tùng từ bé.
Xin cám ơn Mẹ.
Hồng Lĩnh
2015-10-29 9:50
GMT+01:00 <vneagle_1
Sent: Wednesday, October 28,
2015 1:14 PM
Subject: Fw: Câu chuyện về phép lạ của Đức Mẹ La Vang
Subject: Fw: Câu chuyện về phép lạ của Đức Mẹ La Vang
Mặc dù tôi bất xứng nhưng tôi tin, Đời tôi luôn tin rằng có Đức Mẹ
cứu giúp phù hộ tôi.
Lần thứ nhất Mẹ cứu thoát tôi khỏi nhà tù VC vì tội phản động
Phục
Quốc.
Lần thứ hai Mẹ đã cứu gia đình tôi khỏi chết chìm trong cơn
bão
dữ cấp 6-7 khi gđ tôi vượt biển năm 1980.
Còn biết bao lần biến cố nhỏ trong đời Mẹ đã che chở tôi.
Tôi nguyện muôn đời nhớ ơn Mẹ.
VHT
On Wednesday, October 28, 2015 10:16 AM, hucky dang <md20876@yahoo.com> wrote:
-2] Fw: CÓ NÊN TIN LỜI NHẠC SĨ LÊ TÍN HƯƠNG KHÔNG?
Chuyển đọc. Ai muốn tin hay không là tùy mỗi người. Điều quan trọng là đừng chụp mũ cho cô Lê Tín Hương như đã từng chụp mũ cho Nguyễn Chí Thiện, Tạ Phong Tần, Huỳnh Thục Vy, Lê Thị Công Nhân, GSVũ Quốc Thúc... và nhiều nhiều nhà tranh đấu trong nước trở thành tín hữu Công giáo sau khi họ được ra khỏi tù hoặc trước khi giã từ thế giới nầy. Rất cảm ơn.
Chuyển đọc. Ai muốn tin hay không là tùy mỗi người. Điều quan trọng là đừng chụp mũ cho cô Lê Tín Hương như đã từng chụp mũ cho Nguyễn Chí Thiện, Tạ Phong Tần, Huỳnh Thục Vy, Lê Thị Công Nhân, GSVũ Quốc Thúc... và nhiều nhiều nhà tranh đấu trong nước trở thành tín hữu Công giáo sau khi họ được ra khỏi tù hoặc trước khi giã từ thế giới nầy. Rất cảm ơn.
HS
Ba tôi
tỉnh lại hẳn. Ông nói bằng một giọng nói thật yếu ớt, câu nói đầu tiên mà tôi
không bao giờ quên được: "Hãy xin cha rửa tội, rửa tội cho cả nhà, Ðức Mẹ Lavang đã cứu
ba."
-------------
Câu chuyện về
phép lạ của Đức Mẹ La Vang!
Bốn Mươi Năm - Một Dòng Lệ
LTS: Bà Lê Tín Hương hiện ở
California, là một nhạc sĩ, cũng là một nhà văn, qua cha cố Trọng đang nghỉ hưu
tại Orange County, California, gởi cho chúng tôi câu chuyện về Ơn Lạ của Mẹ
Lavang ban cho gia đình bà cách đây 40 năm. Xin mời bạn đọc theo dõi. "Về
bên Mẹ Lavang" chân thành cám ơn tác giả.
Tôi rời nhà lúc sáu giờ sáng Chủ Nhật. Lái xe trong cơn mưa tầm tã, trên con đường dài vẫn còn mù mờ tối của một buổi sáng mùa đông lạnh, đối với tôi là một việc làm gần như rất hiếm hoi.
Ngày cuối tuần, nhất là
những sáng trời mưa, tôi vẫn có cái thú rúc trong chăn và nằm nướng. Cây đàn
Tây Ban Cầm được gác sẵn bên góc đường để tôi có thể với tay kéo lên bất cứ lúc
nào, và ngồi dậy tựa lưng vào thành giường nhã hứng... Những dòng nhạc về mưa,
về thân phận lúc đó lại có cơ hội tiếng thăng tiếng trầm đến với cuộc đời...
Riêng sáng hôm nay, lòng tôi
nao nao mong đợi. Tôi thức dậy sớm. Sau một chút trang điểm nhẹ nhàng, tôi chọn
cho tôi chiếc áo màu trắng, khoác ngoài chiếc áo ấm màu đen và sẵn sàng chờ giờ
ra xe. Trời chưa thấy sáng và giờ đi hãy còn sớm. Tôi bâng khuâng ngồi
nhìn ra khung cửa, mưa vẫn còn nặng hạt, dấu chỉ báo hiệu cho một cơn mưa có
thể kéo dài đến chiều...
Liên tưởng đến buổi Thánh Lễ
Ðại Trào mà tôi sẽ tham dự sáng nay, khai mạc năm
Toàn Xá 200 năm Ðức Mẹ Lavang và kỷ niệm 10 năm phong thánh, 117 vị anh hùng Tử
Ðạo Việtnam. Tôi bỗng thấy lòng lâng lâng xúc động. Ngoài sự cảm phục về
tấm gương sáng ngời tình yêu và tuyên xưng đức tin của các Thánh Tử Ðạo, thì
mỗi khi nhắc đến Mẹ Lavang, là gợi lại trong tôi hồi tưởng về một khung trời
thơ ấu xa xưa với biến cố trọng đại đã đến với gia đình tôi cách đây 40 năm về
trước, vào một ngày mưa gió như hôm nay...
Năm 1958, ba tôi làm
việc tại bệnh viện Trung Ương thành phố Huế. Mỗi tháng ông vẫn cùng các bác sĩ
đi thanh tra các bệnh viện nhỏ ở các vùng lân cận. Hôm ấy, ông sửa soạn đi thăm
bệnh viện Quảng Trị, cách thành phố Huế khoảng 65 cây số về phía Tây Bắc.
Tôi còn nhớ rõ sáng hôm ấy trời mưa lạnh.
Những cơn mưa mà những ai đã từng ở Huế chắc chắn không thể nào quên được. Mưa
tầm tã, rả rích kéo dài từ ngày này sang ngày khác tưởng chừng như vô tận. Ba tôi
chuẩn bị lên đường. Chiếc xe chở ông cùng ba vị bác sĩ và một nhân viên bệnh
viện đã đón ông ở ngoài cổng. Ba tôi mặc vào người chiếc áo jacket bằng da và
dặn dò mẹ tôi một vài điều gì đó rồi vội vàng ra xe.
Bước xuống mấy bậc
thềm ông gặp ngay cha Luận đang bước vào. Cha
Cao Văn Luận cùng quê quán với cha tôi, Ngài rất gần gũi và thương yêu
gia đình tôi. Một trong những mong mỏi của Ngài là được thấy gia đình tôi theo
Ðạo.
Tuy rất kính và quý mến cha nhưng điều đó
với ba mẹ tôi là một trở ngại lớn, không thể nào thực hiện được. Cả hai bên nội
ngoại tôi không ai có Ðạo. Mẹ tôi đồng thời lại là một Phật Tử. Bà đã quy y,
pháp danh Nguyên Khai. Bà cũng đã từng xây chùa cho làng ngoại tôi tại Huế. Mẹ
tôi là một người đàn bà có học. Như đa số những bà mẹ Việtnam khác rất hiền
lành và nhẫn nhục. Cả cuộc đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng con, nhưng trong
vấn đề tín ngưỡng thì lại rất cương quyết, chẳng thể nào lay chuyển được. Ba
tôi biết thế nên ông rất tôn trọng mẹ tôi mặc dầu ông rất kính mến cha Luận.
Cha Luận gặp ba tôi,
Ngài bắt tay rất vui vẻ, Ngài đưa cho ba tôi một tấm ảnh và bảo: "Tôi
mới đi kiệu ngoài Lavang về. Tôi kính cho ông một tượng ảnh của Mẹ Lavang. Ðức
Mẹ đã làm nhiều phép lạ và rất linh thiêng. Ông hãy giữ lấy mà cầu nguyện."
Ba tôi cười cười, nói
cám ơn cha, rồi thuận tay ông nhét tấm ảnh vào túi trong của chiếc áo da. "Con
phải đi ngay cha à, mọi người đang đợi con ở ngoài kia."
Vừa nói ba tôi vừa chào từ giã cha rồi ra xe.
Tôi nhìn theo chiếc xe
chở ba tôi khuất dần, khuất dần sau màn mưa dày đặc...
Buổi chiều trong khi người nhà chuẩn bị
bữa cơm, chúng tôi ngồi nghe mẹ kể chuyện. Mẹ đang kể một đoạn trong câu chuyện
"những kẻ khốn cùng" (les misérables) của văn hào Victor Hugo thì
chúng tôi nhận được hung tin. Chiếc xe chở ba tôi và bốn người nữa đã bị lật
tại cầu Giồng Quảng Trị và chìm xuống sông. Tất cả đều tử nạn. Bệnh viện báo tin
và yêu cầu gia đình ra ngay hiện trường để nhận xác đồng thời để tẩm liệm tại
chỗ cho thân nhân...
Trước biến cố bất ngờ đó, mẹ tôi như người
bị sét đánh. Bà run rẩy rững sờ ôm lấy tôi. Làm sao tôi có thể diễn tả hết nỗi đau
đớn trong lòng mẹ lúc ấy... (giờ đây sau biết bao lần chứng kiến những chia ly,
tử biệt, tôi mới ngậm ngùi thấm thía được niềm đau đớn của những nỗi đợi chờ
tuyệt vọng), chỉ biết là đã nhìn thấy mẹ đầm đìa nước mắt và cả chúng tôi nữa...
Ngoài kia dòng lệ của đất trời vẫn hững hờ
rơi...
Mẹ tôi và chị em tôi
theo chiếc xe của bệnh viện ra Quảng Trị nhận xác cha. Ðến nơi, tại một trạm
gác nhỏ nằm cuối chân cầu, xác của ba vị bác sĩ và nhân viên bệnh viện đã được
vớt lên. Còn thi hài của ba tôi thì chưa tìm thấy. Người ta chưa vớt được ba
tôi nhưng mọi người xác định là ông cũng cùng một số phận với những người đã tử
nạn; nhất là ông đã chìm sâu dưới lòng nước quá lâu. Mẹ tôi mặt mày bạc nhược tái
xanh, mắt đỏ hoe vì khóc, đứng ở một góc phòng chờ đợi...
Thân nhân của các nạn nhân đều đã tới,
tiếng kêu gào khóc kể nghe rất não lòng. Tôi vừa buồn vừa sợ, mơ hồ cảm thấy
một khúc quành nào đó thật ngặt nghèo đang chờ đợi gia đình tôi.
Em tôi vì còn nhỏ, có
lẽ chưa hiểu lắm, nép trong lòng mẹ ngơ ngác nhìn quanh: "Ba
đâu, ba đâu mẹ!"
Mẹ tôi chưa kịp dỗ
dành em thì bỗng có tiếng người la lớn:
"Ðây rồi, vớt
được xác sau cùng rồi!"
Là ba đó, mẹ tôi chạy
nhào tới.
Phải rồi, người ta
đang khiêng ba tôi vào, đặt ba tôi nằm trên chiếc băng ca.
Lại có tiếng người la lên: "Trời
ơi! Ông ta hình như chưa chết. Còn thở. Hơi thở yếu lắm. Làm hô hấp nhân tạo
ngay đi!"
Và ba tôi quả còn sống thật! Mẹ tôi quỳ
xuống lạy trời lạy đất. Cám ơn Trời Phật đã cứu sống ba tôi. Nước mắt một lần
nữa tuôn dầm dề trên má mẹ, nhưng lần này là những giòng nước mắt hạnh phúc
không ngờ...
Chúng tôi quỳ chung
quanh chiếc băng ca nơi ba tôi đang nằm.
Ba tôi tỉnh lại hẳn.
Ông nói bằng một giọng nói thật yếu ớt, câu nói đầu tiên mà tôi không bao giờ
quên được: "Hãy xin cha rửa tội,
rửa tội cho cả nhà, Ðức Mẹ Lavang đã cứu ba."
Nói xong ông đưa tay vào trong túi áo da
lục lọi kiếm tìm, và sau đó ông rút ra tấm ảnh Ðức Mẹ Lavang. Tấm tượng ảnh mà
cha Luận đã cho ông trước chuyến đi định mệnh. Tấm ảnh đã ướt sũng và đậm màu
vì thấm nước, nhưng hình Ðức Mẹ với chiếc áo choàng xanh vẫn còn in rõ nét.
Ba tôi nói tiếp: "Ðây chính Bà này đã cứu ba, Bà đã lôi ba, lúc ấy đang
mắc kẹt trong xe, ra khỏi cửa xe. Bà đẩy ba nổi lên mặt nước và nói Ta là Ðức
Mẹ Lavang, Ta đến cứu con."
Tôi chợt nghĩ lại, nếu ngày hôm đó ba tôi
không vội vàng ra đi, và có thời giờ để tiếp chuyện với cha Luận. Có lẽ bức
tượng ảnh Ðức Mẹ Lavang đã bị quên trong một ngăn kéo nào đó cùng với sự hững
hờ của ba mẹ tôi.
Sau biến cố đó, gia
đình tôi gồm ba mẹ và 7 anh chị em đã rửa tội trong sự tự nguyện rất hoan hỷ
của mẹ tôi. Ba vị linh mục thân thiết của gia đình tôi, cha Cao Văn Luận, cha Ngô Văn Trọng lúc bấy giờ là cha Chánh Xứ
họ đạo Phanxicô, hay còn gọi là Nhà Thờ Nhà Nước, nơi mà gia đình tôi cư ngụ,
và cha Vũ Minh Nghiễm, Dòng Chúa Cứu
Thế, người đã dày công dạy giáo lý cho chúng tôi. Cả ba vị linh mục này đã dâng
thánh lễ và ban Phép Rửa Tội cho chúng tôi.
Theo lời xin của ba
tôi, để cảm tạ ơn thánh của Ðức Mẹ, lễ rửa tội được tổ chức tại Thánh Ðường Ðức
Mẹ Lavang Quảng Trị. Mẹ tôi vô cùng vui mừng hân hoan, và tin tưởng lần Chuỗi
Mân Côi cảm tạ ơn Ðức Mẹ mỗi ngày. Cho đến ngày nhắm mắt bà là một tín đồ sốt
sắng, sùng kính Ðức Mẹ tuyệt đối. Ðây là những hình ảnh cuối đời của mẹ tôi.
Tôi còn nhớ rõ sau
thời gian gia đình chịu phép rửa tội. Mẹ tôi đã chịu đựng nhiều lời ra tiếng
vào của họ hàng và những người quen biết. Họ cho rằng gia đình tôi theo đạo là
để mưu cầu cho một quyền lợi nào đó. Về phần chúng tôi khi đến trường cũng nghe
những lời đàm tiếu của bạn bè. Mỗi lần than vãn với mẹ thì mẹ lại khuyên răn
chúng tôi: "Ba là cột trụ và là
nguồn sống của gia đình chúng ta. Vì thế dầu có chịu bao nhiêu thử thách, khó
khăn cũng phải chấp nhận để cảm tạ ân sủng đó. Tình yêu luôn luôn có cái giá
phải trả, và cái giá đó có nghĩa gì đâu với ân huệ mà Ðức Mẹ đã ban cho gia
đình chúng ta."
Mẹ tôi nói đúng, ơn lạ
mà Mẹ Lavang đã ban là một biến cố lớn trong đời sống tâm linh của gia đình,
cũng là một biến cố trong lịch sử gia tộc. Ba tôi năm nay đã gần 90. Ông vẫn
còn kính tấm tượng ảnh năm xưa đã cứu ông trên bàn thờ. Tấm ảnh Ðức Mẹ ngày nay
đã mờ nhạt theo thời gian, nhưng mỗi ngày ông đều đọc kinh lần hạt cảm tạ Ðức
Mẹ.
Câu chuyện mầu nhiệm
này đã được chúng tôi thường xuyên kể lại cho con cháu nghe, như là một câu chuyện
thần thoại nhưng có thật. Xẩy đến từ một trong những phép lạ của Ðức Mẹ Lavang
đối với gia đình tôi nói riêng và nhiều gia đình khác nói chung.
Ngày đại lễ hôm nay
trời cũng mưa. Tôi lái xe trong cơn mưa như trút nước, Lòng hạnh phúc vô cùng vì
tôi được có Chúa. Có ánh sáng niềm Tin của Ngài chiếu rọi tâm hồn tôi. Có Tình
Yêu bao la rộng mở của Ðức Mẹ đã đến với gia đình tôi từ thuở tôi mới lên
mười...
Tôi lắng nghe những
lời huấn từ của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn
Thuận. Bằng giọng nói rõ ràng trầm ấm, Ngài nhắc lại lịch sử Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam từ những ngày đầu tiên. Qua biết bao nhiêu thăng trầm gian
khổ có máu, có nước mắt và ngày nay đã được thăng hóa với 117 Vị Thánh Tử Ðạo.
Gia đình ngài cũng đã theo
Chúa cách đây 300 năm, với những thử thách cùng với nhiều ân sủng của Chúa, của
Ðức Mẹ, đặc biệt là Mẹ Lavang. Ngài cũng kể lại những phép lạ mà Ðức Mẹ đã ban,
trong đó có phép lạ chữa lành bệnh cho cha cố Trọng, cha Linh Hướng của gia
đình tôi.
Tôi tự cảm thấy gia
đình mình may mắn, đã được hưởng một ân sủng quá đặc biệt đến từ Tình Yêu bao la
không bờ bến của Ðức Mẹ.
Trong cái lạnh của mùa
Ðông, lòng tôi bỗng nhiên ấm cúng. Tôi thấy tâm hồn như nở hoa. Ðóa hoa Yêu
Thương trong vườn hoa rực rỡ của niềm Tin. Tôi hy vọng sẽ mãi mãi là đóa hoa
đầy hương sắc, không bao giờ héo rũ úa tàn. Tôi thầm cám ơn Chúa, cám ơn Mẹ,
cúi đầu để che dấu dòng lệ cảm xúc đang âm thầm rơi. Dòng lệ của hơn bốn mươi
năm trước kể từ khi gia đình tôi được ơn lạ của Ðức Mẹ Lavang, trải qua biết
bao sóng gió bể dâu... Có lúc đã ngưng đọng, có lúc tưởng chừng bị lãng quên,
hôm nay lại từng giọt chảy dài...
Những giọt lệ vui
mừng. Những giọt lệ bồi hồi nhắc nhở tôi niềm hạnh phúc được nương náu trong
Tình Yêu và Ân Sủng của Chúa, của Mẹ Maria.
California, Chúa Nhật
ngày 22 tháng 2 năm 1998
Lê Tín Hương
Lê Tín Hương
Nguồn: http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/lavang/dongle.htm
__._,_.___
No comments:
Post a Comment