Anh Pham Tin An Ninh men !
Nha trang , noi co nhieu ky niem MOT THOI VANG SON ma toi da song ,
da lam viec noi do ....
Doc bai viet cua Anh ve Nha trang , goi nho cho toi nhieu XAO XUYEN
...
Toi da di nhieu noi , TU HUE DEN VUNG TAU - CAO NGUYEN ... nhung co
the noi khong noi nao toi THICH BANG NHA TRANG !
Cai dep HON NHIEN -THO MONG cung voi NGUOI DAN HIEN HOA...
Nhat la NHUNG BUOI TRUA HE NONG CHAY, ngoi tren BAI BIEN GIO THOI
HIU HIU ...nhin xa la HON TRE day HUU TINH .
Vo chong toi da BO LAI DUA CON DAU LONG tai BAI BIEN HON CHONG , vi
MENH NUOC PHAI RA DI .
Noi den day , TOI BUON - TOI NHO THIET THA cho mot que huong xinh
dep , nhung roi day : ROI DAY CO CON LAI CUA VN minh hay khong ???
Vi vay , minh phai lam , LAM NHIEU HON NUA CHO DEN HOI THO CUOI
CUNG DE HY VONG QUE HUONG MINH MAI MAI LA CUA NGUOI VN !
Mong Anh viet , va viet that nhieu DE GOI LAI LONG THUONG NHO VN ,
GOI LAI LONG YEU NUOC THIET THA MA BAO VE & GIU GIN TO QUOC CHUNG TA !!!
Than
ai chao Anh
Trong
Dan - Dinh Chuong Vo
2017-12-14
9:33 GMT+01:00 'Patrick Willay'>:
Nha
Trang – thời tôi mới lớn
Phạm
Tín An Ninh
Nha
Trang lúc nào cũng đẹp, nhưng với tôi Nha Trang đẹp nhất ở vào cái thời tôi mới
lớn. Dường như lúc ấy biển xanh hơn, bầu trời trong và bao la hơn, đã cho tôi
nhiều mộng mơ hơn. Lúc ấy tôi chưa biết yêu để hiểu được cái nghĩa thất tình nó
ra sao, cái cảm giác “chết trong lòng một ít” nó đau đớn đến dường nào; cũng
chưa bước chân lên bến đời để thấy cuộc đời này không phải chỉ toàn màu xanh của
biển và bầu trời trên đầu lại có quá nhiều những đám mây đen.
Ngày ấy,
cũng đã có chiến tranh (quê hương tôi thì lúc nào lại không có chiến tranh),
nhưng dường như còn ở đâu đó, xa lắm. Tôi chỉ biết người lính qua mấy anh
SVSQ Hải Quân, Không Quân oai phong tuấn tú trong những bộ quân phục đẹp,
mới toanh, thẳng nếp, dạo phố với tình nhân vào những ngày cuối tuần. Đâu có biết
người lính gian khổ, hiểm nguy và chết chóc ra sao. Khi ấy, Trịnh Công Sơn cũng
chỉ mới viết được đôi ba bài tình ca, chưa có bản nhạc phản chiến nào, Những bản
nhạc viết về lính lúc ấy cũng dễ thương, hiền lành và lãng mạn lắm, chưa hề
nghe Kỹ Vật Cho Em. Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, Anh Không Chết Đâu Anh, Người
Ở Lại Charlie…, nên cũng chưa biết tiếng khóc não nùng của những người góa phụ.
Những
chuyện xảy ra trong thành phố thời ấy hấp dẫn tôi và đám bạn bè hơn. Chuyện bà
(vợ ông) bác sĩ, một mệnh phụ gốc Hà thành nhan sắc mà mỗi lần trông thấy bà
ngoài phố, chúng tôi đứng lại tròn mắt trầm trồ như đang được chiêm ngưỡng một
pho tượng đẹp trong viện bảo tàng. Chuyện của một bà dược sĩ, có tình nhân là một
ông đại úy phi công rất bô trai. Mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao “trọc mui”
duy nhất ở thành phố biển này, nhưng bọn tôi thường thấy ông phi công đèo bà
sau chiếc Vespa chạy lòng vòng trên đường Duy Tân, Độc Lập. Cuộc tình
lãng mạn ấy rồi cũng đi vào ngõ rẽ. Bà dược sĩ trở thành phu nhân của một ông
tướng nổi danh, còn chàng phi công hào hoa thì rước về dinh một cô ca sĩ chuyên
hát những bản nhạc buồn… vào hồn không tên… nào đó. Và “đình đám” nhất là chuyện
tình của thầy tôi và một cô học trò. Ông thầy mà bọn tôi thường gọi là “thầy của
những ông thầy khác” và rất mê nghe ông đọc những bài thơ tình lãng mạn của mấy
ông Alphonse de Lamartine, Charles Beaudelaire, Jacques Préver trong giờ Văn học
sử Pháp. Còn cô học trò cũng rất tài ba, từng có bài luận văn dài gần 20 trang giấy
được giáo sư nổi danh Thạch Trung Giã cho điểm tối đa và đọc cho cả mấy lớp
cùng nghe. Không biết có phải nhờ vòng tay ông thầy của tôi mà sau này cô trở
thành nhà văn nổi tiếng với tác phẩm cũng bắt đầu bằng hai chữ Vòng Tay… Một
ông thầy khác mê đến si tình cô học trò “hoa khôi” Võ Tánh, đóng vai Trưng Trắc
trong buổi lễ Hai Bà Trưng. Những nữ sinh được chọn đóng vai Trưng Trắc,
Trưng Nhị thời ấy đều là những mỹ nhân “vang bóng một thời”.
Thời ấy
dường như chiến tranh còn ở đâu đó, chưa tới Nha Trang, nhưng Nha Trang lại là
nơi có ba quân trường nổi tiếng.
Trung
Tâm Huấn Luyện Hải Quân đã đào tạo hầu hết những sĩ quan Hải quân ưu tú. Trong
số ấy có rất nhiều đồng môn của bọn tôi ở Trường Võ Tánh, một số đàn anh trở
thành những hạm trưởng: Trần Đức Cử, Phạm Đình San, Võ Quang Thủ, Phan Hữu
Niệm, Võ Văn Bảy…
Trung
Tâm Huấn Luyện Không Quân đào tạo hầu hết những phi công tài hoa của đất nước,
trong số này cũng có rất nhiều cựu học sinh Võ Tánh. Sau này có người lên đến cấp
tướng.
Trường
Đồng Đế, đào tạo hầu hết các hạ sĩ quan cho Quân Lực và những khóa sĩ quan hiện
dịch, mà một người sĩ quan tốt nghiệp Khóa 2 đã trở thành một vị anh hùng trong
lòng bao người dân Việt tha phương: Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. (Xa hơn một chút là Huấn
Khu Dục Mỹ, với các quân trường nổi danh không kém, được thành lập từ năm 1960.
Trường Pháo Binh chuyên đào tạo cá sĩ quan có khả năng toán học, làm “đề lô” và
sau này trở thành các cấp chỉ huy của binh chủng “nòng dài”, tạo sấm sét lam
khiếp vía quân thù. Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân, được những người lính
gọi là “Lò Luyện Thép”. Có người còn gọi đùa là “Trung Tâm Tàn Phá Sắc Đẹp.” Một
nơi huấn luyện cho người lính chịu đựng gian khổ nhất, có khả năng vượt qua mọi
chướng ngại, để có thể chiến đấu trong những điều kiện khó khăn nguy hiểm nhất
để đánh thắng quân thù. Ngoài việc đào tạo các chiến sĩ Mũ Nâu hào hùng, còn có
các Khóa Rừng Núi Sình Lấy, Viễn Thám cho tất cả các quân binh chủng thiện chiến
khác.)
Về văn
chương, ngoài một số nhà văn kỳ cựu như Quách Tấn, Cung Giũ Nguyên, Thạch Trung
Giã, Võ Hồng, lúc ấy có nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng sớm từ đám học trò:
Nguyễn Xuân Hoàng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn), Thanh Nhung (Tôn Nữ Nha
Trang), Duy Năng (Nguyễn Hữu Trí)…Nếu tính cả những người từ các tỉnh lân cận đến
học ở Nha Trang thì còn có Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thị Hoàng, Cao Hoành Nhân,
Từ Thế Mộng, Trần Hoài Thư, Sương Biên Thùy (Lê Mai Lĩnh sau này)…
Thời
đó, Nha Trang có cô ca sĩ Thúy Vân, tuổi khoảng 14, 15, có ông bố phục vụ trong
Lực lượng Bảo An Đoàn, có tay trống Minh Châu số 1 của Ban Văn Nghệ Ty Thông
Tin , sau này cũng gia nhập Bảo An, làm sĩ quan Tâm Lý Chiến. Bọn tôi thường được
tham dự những đêm văn nghệ do Ty Thông Tin tổ chức, nghe ca sĩ Bích Sơn hát
bài Cô Gái Xuân và đóng kịch “Ông Ninh Ông Nang” với anh hề Ngọc Trai. Được
xem phim Chúng Tôi Muốn Sống , mê ông Lê Quỳnh đẹp trai và bà Mai Trâm với má
lúm đồng tiền và hai lọn tóc thắt “con rít” thả xuống bờ vai.
Thời ấy
cũng có rất nhiều cái tên “mỹ nhân” truyền tai nhau trong đám học trò: Cẩm
Vân, Bạch Yến. Như Bá, Bích Tùng, Mỵ Cơ, Xuân Thùy, Hồng Nữ, Xuân Hoa, Bích
Khuê, Như Ý, Hồng Huê, Lệ Son, Mỵ Hảo… Và ngay trong lớp tôi cũng có những giai
nhân đã làm khuấy động trái tim của biết bao ông thầy và cả học trò, mà đến hôm
nay vẫn còn được bàn cãi rất sôi nổi mỗi lần bọn tôi có dịp gặp nhau kể lại
chuyện xưa: Thúy Liệu, Minh Châu, Kim Anh, Kim Thoa, Túy Ngọc, Như Bá… Đám bọn
tôi cũng biết danh ông Lê Bá Chẩn, không phải vì ông là phó tỉnh mà vì ông bà
có mấy cô con gái đẹp, từng đóng vai Trưng Trắc, Trưng Nhị. Và có lẽ không ai
mà không biết hiệu Đông Quang nằm bên tiệm chụp ảnh Mai Ngôn trên đường phố
Phan Bội Châu, bởi mỗi lần đi qua nhìn thấy chị Thuần Hậu, sắc nước hương trời,
ngồi bên một cái giá dựng đủ các thứ gươm đao thời Tam Quốc (?)
Thời
đó Nha Trang có khá nhiều nhà sách, nhưng bọn tôi thường lui tới Nguyễn Lê và
Vĩnh An Thành, nơi nào cũng có cô con gái đẹp. Riêng Nguyễn Lê thỉnh thoảng có
mấy cô bán sách cũng làm điêu đứng đám học trò mới lớn.
Nha
Trang lúc ấy có khá nhiều rạp ciné. Rạp Moderne của ông Bác Ái không hiểu vì
sao đóng cửa sớm. Rạp Tân Tiến thường chiếu phim Ấn Độ. Rạp Minh Châu thì thường
có những đoàn hát cải lương – Dạ Lý Hương, Kim Chung, Thanh Minh Thanh Nga. Rạp
Thạnh Xương thì chuyên hát bội. Chỉ có rạp Tân Tân và Tân Quang thường chiếu những
phim hay: Cuốn Theo Chiều Gió, Gió Đồng Nội, Vũ Điệu Trong Bóng Mờ, Mặt Trời Vẫn
Mọc, Lưới Tình Khó Thoát, Ben- Hur, The Vikings…Thời nổi danh của các cô đào
Vivien Leigh, Marylin Monroe, Brigitte Bardot, Sophia Loren, Audrey Hepburn,
Elizabeth Taylor, Gina Lolobrigida…
Thỉnh
thoảng có các đoàn mô tô bay trình diễn trong Sân Vận Động. Tôi không còn nhớ
là trong số người đẹp biểu diễn ấy có cô Bạch Yến, sau này trở thành ca sĩ, nổi
tiếng với nhạc phẩm Đêm Đông, theo chồng là ông nhạc sĩ Trần Quang Hải sang
Pháp, để cho ông nhạc sĩ Lam Phương sáng tác bài Phút Cuối.
Chỉ
còn gần em một giây phút thôi.
Một
giây nữa thôi là xa nhau rồi.
Người
theo cánh chim về vui với đời
Để lại
thương nhớ cho kiếp đơn côi
Những
giờ nghỉ học, bọn tôi đạp xe thơ thần trên con đường Duy Tân, con đường đẹp nhất
của Nha Trang, ngồi dưới mấy lùm dương, ngắm biển xanh mà nói chuyện trên trời.
Có một đồng bạc đủ để mua một trái cóc khía ngâm đường của mấy người đẩy xe bán
dạo. Có khi trèo rào vào Viện Pasteur để hái trộm mấy trái tra. Nha Trang diễm
phúc có ông bác sĩ Yersin từ Pháp đến lập các viện nghiên cứu y học, lập Viện
Pasteur.Ông đã nằm lại với Nha Trang. Mộ ông ở Suối Dầu và tên ông được đặt cho
một trong những con đường “thế giá” nhất Nha Trang.
Hồi ấy
bọn con trai chúng tôi cũng thường nghe nói đến các “băng”: Băng thằng Liên Xóm
Mới, Băng Thằng Điền, Băng thằng Quách Thanh, Băng Lò Heo…, nhưng không biết
các “băng” này chọc trời khuấy nước ra sao, và những vị yên hùng này có giống
Điền Khắc Kim, Dũng Đa Kao được nhà văn Duyên Anh đem vào truyện hay không? Nha
trang cũng có những lò luyện võ của võ sư Trọng Đãi hay Huỳnh Tiền gì đó, và dưới
bờ biển có Judo Club của anh Hàn Phong Cao, con ông chủ khách sạn Phụng Hoàng nằm
trước ga xe lửa. Sau này anh là thiếu tá Kỵ Binh Thiết Giáp và làm quận trưởng ở
Phan Thiết.
Bọn
tôi thường ghé lại các tiệm chè bên cạnh Rạp Ciné Tân Tiến, một đồng một ly mà
thấy mình sang lắm. Thỉnh thoảng được cha mẹ thưởng cho ít tiền mới dám đến
“kéo ghế” ở phở Hợp Lợi, nem Mỹ Hạnh trên đường Trần Quý Cáp, mì Lợi Ký, sữa đậu
nành và Pate Chaud trên đường Độc Lập.
Ngày ấy
đám con trai bọn tôi rất mê đá banh. Nha Trang có đội Công Chánh với ông bầu
Năm. Có vài lần thi đấu ngang ngửa với các đội Thương Cảng, AJS Sài gòn,
gồm nhiều tuyển thủ quốc gia, có thủ môn Phạm Văn Rạng vang tiếng một thời. Trường
Võ Tánh bọn tôi cũng có những cầu thủ nổi danh; các anh Lư Văn Thành, Nguyễn Văn
Sự, Ngô Lam…tham gia trong đội bóng.
Những
ngày cuối tháng chạp, bọn tôi rủ nhau dạo qua chợ Tết. Các gian hàng được bày
ra ngay giữa lòng đường Phan Bội Châu, từ trước nhà sách Nguyễn Lê cho đến ngã
tư cuối chợ Đầm. Bọn tôi thường đứng tán gẫu với cô bạn cùng lớp trông hàng cho
mẹ. Ở tuổi ấy, chúng tôi không còn nô nức chờ đón Tết như thời tuổi thơ, lúc
còn sống ở quê.
Nha
Trang có chùa Hội Phật Học, nằm trên Mã Vòng đường lên Thành. Cách đó không xa,
bên sườn đồi có chùa Hải Đức. Sau này trên đỉnh núi có xây tượng Phật khá lớn.
Trước ngày khánh thành, mấy ông VC nằm vùng treo sau lưng tượng Phật lá cờ đỏ
sao vàng thật to.Khi cảnh sát đến lấy xuống, bị nổ lựu đạn gài sẵn, hình như có
người chết hay bị thương. Tôi nghiệp, chỉ có bọn người man rợ mới lợi dụng cả
tượng Phật để giết người. Trước đó, tại rạp Tân Tiến, có lần VC ném lựu đạn làm
chết và bị thương khá nhiều người, Đó là hai lần bọn tôi biết được, người CS đã
đem chiến tranh và chết chóc đến trong lòng thành phố đẹp đẽ hiền hòa, khuấy động
cuộc sống hồn nhiên yên ả của bọn tôi.
Nha
Trang có nhà thờ đá, có người gọi là nhà thờ núi, vì nằm trên đỉnh đồi hướng ra
Ngã Sáu, giữa góc đường Gia Long – Phước Hải. Những đêm Giáng Sinh, dù
không phải người Công Giáo, bọn tôi cũng rủ nhau đến đây xem người ta đi lễ, mừng
Chúa ra đời. Sau đó kéo nhau về nhà một thằng nào đó ăn réveillon.Về sau, trong
đám bọn tôi có thằng mê một cô bé có đạo dòng, xinh như mộng, bọn tôi thường
nghe nó hát “lạy Chúa, con là người ngoại đạo, nhưng con tin có Chúa ngự trên cao…”
Cuối cùng nó cũng cưới được cô bé và hai vợ chồng sống rất hạnh phúc cho đến
bây giờ.
Đi về
hướng Đồng Đế, qua khỏi cầu Xóm Bóng, Tháp Bà Ponagar đứng trên đồi cao
nhìn xuống dòng sông Cái chảy lững lờ. Di tích của đế chế Chiêm Thành còn lại.
Giờ là nơi để nhiều người đến xin xăm, cầu nguyện một ân sủng từ bà Thiên Y
Thánh Mẫu Ana hiển linh nào đó. Cũng là nơi hẹn hò, thề non hẹn biển của những
cặp tình nhân vào những ngày vắng khách nhàn du.
Về hướng
biển có Hòn Chồng, với dấu bàn tay in trên tảng đá đã được thêu dệt thành
nhiều huyền thoại, chứng kiến lời hẹn thề của bao cặp tình nhân, và chắc chắn
cũng từng thấm đẫm nhiều nước mắt của những cuộc tình không trọn.
Nhưng
trong tất cả các cái tên để nhớ, bọn tôi nhớ nhất là tên của những ngôi trường;
Lê Quí Đôn, Kim Yến, Tương Lai, Văn Hóa, Đăng Khoa, Bồ Đề, Bá Ninh, Võ Tánh, Nữ
Trung Học, … Ở mỗi ngôi trường, tôi đều có bạn bè những năm đệ nhất cấp.
Sau này hầu hết đều chuyển sang Võ Tánh. Ngôi trường công lập lớn nhất và nổi
tiếng ở vùng duyên hải miền Trung. Nơi ước mơ của đám học trò, đặc biệt từ những
vùng quê như bọn tôi thuở ấy.
Sau bậc
trung học, đám bọn tôi tản mác khắp nơi. Một số vào Sài Gòn, ra Huế hay lên Đà
Lạt tiếp tục học đại học, đa số nhập ngũ, vào các quân trường, rồi ra đi khắp bốn
Vùng Chiến thuật. Chiến tranh ngày càng khốc liệt cuốn chúng tôi theo như cơn lốc
xoáy. Kẻ chết, người bị thương. Những người may mắn còn sống thì miệt mài ở các
chiến trường khói lửa. Năm tháng chỉ còn có súng đạn và mục tiêu trước mặt. Nha
Trang, thành phố đẹp đẽ với những hang động tuổi thơ một thời cũng đành bỏ lại
phía sau lưng. Có còn, chỉ trong vài phút giây hồi tưởng. Rồi ước mơ trở về sống
với Nha Trang sau chiến chinh, khi giã từ vũ khí, lại đến trong đớn đau tức tưởi.
Cuối tháng 3/75, Cộng sản chiếm Nha Trang, phủ lên thành phố này cả một trời
tóc tang buồn thảm. Nha Trang không còn đẹp, thơ mộng. Và không còn là của
chúng tôi. Bọn tôi phải ra đi, đành lòng bỏ lại NhaTrang. Thành phố đẹp đẽ suốt
một thời tôi mới lớn, mãi mãi chỉ còn trong ký ức.
Những
người đặc biệt tôi đã nhắc tên. Một số đã mất, người còn lại thì hầu hết đang sống
tha phương, nhưng có lẽ bây giờ tóc ai cũng bạc. Tôi may mắn được gặp lại vài
người. Ai cũng tiếc nuối một thời đẹp đẽ, dễ thương của chính mình, của bạn bè
và của cả Nha Trang, xót xa cho một quê hương bỏ lại, giờ vẫn còn khốn khổ dưới
bàn tay của những người Cộng sản đang học đòi làm những tên trùm tư bản, trên
máu và nước mắt của dân tôi, của những người Nha trang hiền hòa dễ thương ngày trước.
Phạm
Tín An Ninh
__._,_.___
No comments:
Post a Comment