-->Mời đọc : Thư gửi BBT diễn đàn Ba Cây Trúc của Phạm Tín An Ninh- nhà văn đầy nhân bản tính, hỗ trợ không ngừng nghỉ anh em TPB/VNCH còn sống khốn khổ ở quê nhà- những tác phẩm của ông, đặc biệt tập truyện Ở CUỐI HAI CON ĐƯỜNG rất được độc giả yêu thích và nhiệt tình đón nhận.
Thư gửi BBT diễn
đàn Ba Cây Trúc
Phạm Tín An Ninh
Kính
thưa Ban Biên Tập Ba Cây Trúc,
Cám ơn Ba Cây Trúc đã phổ biến các
bài viết về " Lời Người Lính Gởi Các Chiến Hữu Đổi Màu".
Cá nhân tôi rất tán đồng quan điểm và ca ngợi tấm lòng, khí khái của các tác
giả.
Tuy nhiên trong bài viết của chiến
hữu Đỗ Hữu Xuân (phổ biến trên website TinParis.net), có đề cập vài dòng "không
chính xác" về cá nhân tôi. Tôi nghĩ, có lẽ anh Xuân chưa đọc, chỉ
nghe ai đó nói lại không đầy đủ, hoặc hiểu sai lệch về ý nghĩa và mục đích câu
chuyện "Ở Cuối Hai Con Đường" của tôi, đã được phổ biến khá rộng
rãi và nhận được sự khen ngợi của hầu hết các vị niên trưởng và chiến hữu, được
đánh giá rất tốt về tác dụng " chống Cộng" của bài viết. ( Ngoài ra
Tập Truyện Ở Cuối Hai Con Đường đã được xuất bản tại Mỹ và Úc Châu, với sự hợp
tác của các Hội Đoàn Cựu Quân Nhân và Hội Thương Phế Binh VNCH, để gây quỹ giúp
anh em TPB/VNCH. Nhờ sự ủng hộ của hầu hết các chiến hữu và bà con đồng hương,
đã thu được trên 45.000 Mỹ kim, gởi giúp anh em TPB/VNCH còn sống khốn khổ ở
quê nhà)
Tôi xin được trích 2 trong rất nhiều
nhận định về Tập Truyện này: của nhà văn quân đội Hải Triều, và Tòa Soạn Báo
Thằng Mõ. Kèm theo câu truyện Ở Cuối Hai Con Đường.
Tôi không muốn tranh luận với
những người anh em một nhà, đứng cùng chiến tuyến.
Chỉ mong khi nhận định một điều gì về chiến hữu của mình, cần có sự cân
nhắc và hiểu biết về cá nhân ấy một cách tường tận hơn, hầu tránh gây
thêm chia rẽ, có thể làm lợi cho bọn CS vốn rất mưu mô xảo quyệt.
Viết mấy dòng này trong tình chiến
hữu, chỉ mong làm sáng tỏ đôi điều, tránh sự ngộ nhận đáng tiếc. (Xin Ban Biên
Tập có thể phổ biến lá thư này để rộng đường dư luận)
Xin cám ơn. Chúc BBT cùng gia đình
luôn an mạnh, Ba Cây Trúc ngày càng phát tiển để góp phần trong cuộc đấu tranh
tiêu trừ bọn CS độc ác hèn hạ, sớm có Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền trên quê hương
VN yêu dấu.
Thân kính
Phạm Tín An Ninh
Posted on April 5, 2012 by BBT
Phạm Tín An
Ninh.
(Câu chuyện cảm động có thực nói về
tính nhân bản đầy tình người của người lính miền Nam được thể hiện rõ nét qua
bài viết của tác giả Phạm Tín An Ninh, một sĩ quan QLVNCH và là một trong những
“người tù cải tạo” bị giam ở miền Bắc sau 1975, tình cảm chân thật của Thượng
úy Nguyễn Văn Thà, một sĩ quan thương binh bộ đội miền Bắc. Bài viết này được
chuyển lên các hệ thống internet toàn cầu, được đọc trên các room paltalk với giọng
đọc nghẹn ngào của các em thuộc thế hệ Việt Nam chưa hay không biết chiến tranh
là gì. Chúng tôi xin được chạy đăng bài viết “Ở cuối hai con đường” vì nó phù
hợp với luận điểm và nội dung của tác phẩm “Máu và nước mắt trên lưng Trường
Sơn”: Cuộc chiến đấu tự vệ chính nghĩa và nhân bản của miền Nam Việt Nam so với
cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản Việt Nam từ miền Bắc.
Cám ơn anh Phạm Tín An Ninh đã cho chúng ta một lời nói công
đạo chí tình, một câu chuyện vô cùng xúc tích và cảm động./
Hải Triều.
Hải Triều.
Ở Cuối Hai Con Ðường
LGT: Phạm Tín An Ninh là một nhà văn quân đội, tuy mới xuất
hiện trên văn đàn hải ngoại, nhưng những truyện ông sáng tác đã nhanh chóng ngự
trị trong tâm hồn đông đảo độc giả nhờ ở văn phong giản dị, nội dung trung thực,
và đặc biệt hơn cả, là tấm lòng đôn hậu đầy nhân ái của ông được thấm nhuần qua
từng câu, từng chữ, từng tình tiết, nhân vật, sự kiện... "Ở Cuối Hai Con
Ðường" là tác phẩm đầu tay của ông, trong đó gồm 16 truyện ngắn, mỗi
truyện phản ảnh một góc độ trung thực của cuộc đời, nhưng tất cả đều có giá trị
cảm hóa sâu sắc, để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ, nhiều thao thức,
để rồi cuối cùng, người đọc luôn thầm nguyện với lòng, sẽ cố gắng sống tốt lành
hơn, thuỷ chung hơn, nhân ái hơn.
Ðây là một câu truyện hoàn toàn có thật giữa tác giả, một
người tù cải tạo tại trại 6 Nghĩa Lộ; và người quản giáo tên Thà, từng là bộ
đội thuộc trung đoàn xe tăng của Sư 320, bị cụt tay trong trận đánh ở Trung
Nghĩa, KonTum vào đầu mùa hè 1972, mà chính tác giả cũng tham dự. Sau khi bị thương,
bị bắt làm tù binh, được những người lính VNCH bảo vệ, chăm sóc và chữa trị tử
tế cho đến khi được trao trả tù binh trở về Bắc, quản giáo Thà đã được cảm hóa,
trở nên một người tốt bụng, yêu thương tù cải tạo, luôn tìm mọi cách giúp đỡ
tù. Biết ơn quản giáo Thà, tác giả, sau khi vượt biên thành công, định cư tại
Na Uy, đã tìm mọi cách giúp đỡ quản
giáo Thà và hai người con của ông, khi họ chẳng may khốn đốn tại Ba Lan.
Trên phương diện nghệ thuật, quản giáo Thà không phải là
nhân vật điển hình, đại diện cho hàng trăm ngàn quản giáo VC tàn nhẫn, độc ác,
thủ đoạn, phi nhân tính. Hơn nữa lòng tốt của quản giáo Thà được thể hiện khá
can đảm, bất chấp mạng lưới ăng ten và hệ thống quản giáo, vệ binh dầy đặc trong
các trại tù cải tạo. Hơn thế nữa, lòng tốt cùng niềm thống hận chủ nghĩa CS của
quản giáo Thà không phải chỉ xuất hiện chốc lát, trong giây phút thức tỉnh của
tình người, mà được trải dài theo thời gian, cho đến khi ông nhắm mắt. Tuy
nhiên, giá trị cuả câu chuyện không phải là giá trị điển hình mà chính là giá
trị cá biệt. Nhà văn Phạm Tín An Ninh đã kể lại trường hợp cá biệt quản giáo
Thà vì, thứ nhất, đây là chuyện hoàn toàn có thật mà tác giả đã trải qua; và
thứ hai, qua câu chuyện tình nghĩa giăng mắc xuyên suốt thời gian mấy chục năm,
tác giả đã thành công khi đề cao được giá trị nhân quả của lòng nhân ái, của
tình người. Chính giá trị to lớn này đã cảm hóa được người đọc, ngay cả những
người đang chìm đắm trong u mê lọc lừa của chủ nghĩa cộng sản, miễn sao họ còn
chút ít lương tâm và sự sáng suốt tối thiểu của một con người.
Tất nhiên, một số lái buôn văn nghệ thân cộng, một số trí
thức vô lương tâm nằm vùng... đã vội vã bóp méo giá trị cảm hóa của tác phẩm
nhằm dương lên một bẫy sập, khi họ rêu rao tuyên truyền, lòng nhân ái cá biệt
của quản giáo Thà sẽ trở thành phổ quát cho tất cả những người cộng sản hiện nay,
nếu người Việt hải ngoại biết một lòng một dạ đối xử tử tế, nhân ái chan hoà
với những người cộng sản. Rõ ràng, đây là âm mưu nguy hiểm nhằm hóa giải sức
mạnh đấu tranh của người Việt hải ngoại, nhưng chắc chắn âm mưu đó bất thành.
Vì càng hiểu rõ giá trị nhân đạo cao quý của câu truyện, chúng ta càng nhìn rõ
bản chất phi nhân của chủ nghĩa cộng sản và con người cộng sản. Bằng chứng,
trong số hàng trăm ngàn tù binh VC được quân đội và chính phủ VNCH đối xử một cách
tử tế trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, thử hỏi có mấy người được cảm hóa
như quản giáo Thà? Câu trả lời chắc chắn là hầu như không có, vì cho tới nay,
chúng ta chưa thấy bất cứ tài liệu, sách vở hay chuyện kể nào đề cập đến một quản
giáo có lòng tốt tương tự như quản giáo Thà.
THẰNG MÕ (SAN JOSE)
****************************************************************************************
Ở CUỐI HAI CON ĐƯỜNG
Những năm "cải tạo" ở miền Bắc, tôi được chuyển đi
khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến
Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Ðây là một
vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn
tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.
Sau đó, tôi được chuyển về trại 6 Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần
Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam,
chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi
vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.
Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ
giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái lán lợp bằng nứa, nền đất,
ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.
Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào
lán. Ðiều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một
nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Ðịnh, buông thỏng xuống và phất
phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng
có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: Ðây mới đích thực là
nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?
Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi,
miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng
bớt lo âu.
Bằng một giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh, anh quản giáo giới thiệu
tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" một số nội quy, yêu cầu của
Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người
một tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang".
Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời
với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ
lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc
nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:
- Trong này có anh nào thuộc Sư 23?
Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:
- Thưa cán bộ, có tôi ạ.
- Thưa cán bộ, có tôi ạ.
- Anh ở trung đoàn mấy?
- Trung Ðoàn 44.
- Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa
hè 1972?
- Vâng, có ạ.
Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay
áo đong đưa, lên:
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.
Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía
tôi. Ðể lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?
- Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.
Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.
- Sau đó cán bộ được trao trả? Tôi hỏi.
- Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ.
Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và
được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.
Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời
lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em
nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng
xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình
những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh
em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe
mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:
- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.
Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một
người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp
hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết
lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng
không vững.
Một chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả
thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt
bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang
áo tơi (loại áo mưa kết bắng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho
đến khi trời tối.
Ðêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em
bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
- Tôi để một giỏ cá sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
- Tôi để một giỏ cá sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá
ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động. Biết là anh em tù bị
đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân , quản giáo
Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào
đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn
còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luộc sắn mà không ai phát
hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn
dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác,
nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức khắc giấu
hết "tang vật" xuống một cái hố đã đào sẵn.
Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi
được no - dù chỉ là no sắn. Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao
ban", quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng
tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?
Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo
nhỏ:
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.
Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh
không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy
bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật
nhiều với anh em:
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương.
- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương.
Các
anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi
trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y
tá săn sóc suốt cả đêm. Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm
trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân
y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút
thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay
tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng,
nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người
đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm,
cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh
trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số
đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình
dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng,
không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất
là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.
Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của
anh nghẹn ngào.
- Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? -
Một anh tù hỏi.
- Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và
những thứ các anh cho. Tôi cố giấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng,
nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng
tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của
các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế,
không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằn vặt mãi cho đến hôm
nay.
Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6 Nghĩa
Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.
Một buổi sáng sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng
trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo
theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra
anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn
ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ
còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.
***
Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó
có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế
hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa
của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm
trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác
sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được
chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước
mắt.
Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy
đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống
trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt
lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của
một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải
bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không
cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân
tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.
Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp
xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong
tù. Ðặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi,
nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị
"hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng
chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.
Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng
bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp
còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên
đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một
năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở
chi nhánh bên Ấn Ðộ.
Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm, anh gọi điện thoại báo là
sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì
cùng đến với anh là một người con gái Việt Nam. Anh giới thiệu với vợ chồng
tôi, đó là vị hôn thê của anh.
Cô gái tên Ðoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi
ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên
tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy,
chúng tôi cũng niềm nở, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân
với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở
Ðông Ðức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Ðộ. Chính tại đây cô có dịp
gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai.
Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp
trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Ðộ trở về, cô được
bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài
tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta
hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học
tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Ðông Ðức.
Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Ðức phá sập,
nước CHND Ðức (Ðông Ðức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách
trốn sang Tây Ðức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được
với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một
đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản
trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen, cho
biết, bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô
sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Ðông Âu, ông xót xa nhìn ra
được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản
trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.
Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Ðoan trở về
Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin
mang đứa con trai sang Nauy với cô.
Việc cô Ðoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ dến anh quản giáo
Nguyễn văn Thà thưở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền
khoảng 800 đôla, nhờ cô Ðoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ
chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn
còn giữ sạch được tấm lòng.
Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không
biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "Ông
Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại
tù cải tạo số 6 Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn". Cô Ðoan vui vẻ nhận lời và hứa
sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông
chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.
Một tháng sau, cô Ðoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết
là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan.
Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ
Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ
báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn
cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều
hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.
Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho
con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn
ai nhắc đến chuyện anh Thà.
Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo,
tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn 2 giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ
bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì
phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe, đầu giây bên kia là giọng một
cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp
tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.
- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.
- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.
Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là
mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:
- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?
- Ông Thà? Nguyễn văn Thà! Bác nhớ, nhưng cô là gì của ông
Thà, và sao lại ở Ba-Lan?
- Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai.
Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.
- Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn
tiền.
Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em
trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả
chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn
thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản
Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Ðông Âu, chị em cô cùng hầu hết những
người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở
lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm
chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp
bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này
trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Ðông Âu.
Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố
Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm
được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em
trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia
vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn
cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại
cho tôi.
- Bây giờ cháu đang ở đâu? Tôi hỏi.
- Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám
chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba
cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần
thiết mới gọi cho bác.
- Ba cháu bây giờ làm gì?
- Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não,
liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm
tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.
Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù
mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một
ngày rất gần ở Ba-Lan.
Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng
tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi.
Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân
đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Ðoàn Ðoàn Kết do ông
Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc
trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Ðức. Theo
sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn
chính trị.
Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một
thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm
sau, tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Ðoàn Ðoàn Kết của ông Walesa
lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước
Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ
mọât chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát.
Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến
tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở
của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp
không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ
chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước
Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.
Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất
vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ
chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn
cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với
tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành
cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp.
Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo
Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện
đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi
giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.
Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Ðưa Hà về nhà ở với
gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù
về.
Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình
khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và
chuyển về Việt Nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường,
vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà
và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.
Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: Hai
chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan.
Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm.
Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.
***
"Các Anh thân quí! Khi ngồi viết những dòng này cho các
anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời
gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn
nhớ đến tôi. Ðọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh
gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào.
Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ.
Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: Chỉ có loài súc vật mới quay
lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại. Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác,
những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã
từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục
nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là
một lời vàng ngọc. Ðiều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm
ngược lại lời nói này của Mác. Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình
ra khỏi nước.
Mặc dù tôi biết, một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn
nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên
các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó
của kiếp con người. Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi
bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn
qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần.
Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính
bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia
đình. Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi
tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại
Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về
lại bên này.
Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng
giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.
Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ
được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn
tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là
những đám mây đen bay trên đầu. Ðôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc
đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..."
Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng
tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại,
khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến
tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: Xin hãy chôn chặt hộ tôi
cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa,
tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo
dài cho đến bao giờ?
Phạm
Tín An Ninh
__._,_.___
No comments:
Post a Comment