THỜ
PHẬT LỄ PHẬT
Toàn Không
Trên thế giới,
bất luận dân tộc nào, thời đại nào, hễ người có công đức với xã hội quốc gia
đều được ca ngợi tôn thờ; đối với Tôn giáo cũng tương tự nhưng có tính cách
thiết tha và thường trực hơn, vì các vị giáo chủ là những bậc như gương sáng
cho mọi người noi theo và có công ơn lớn đối với nhân loại. Trong các vị giáo
chủ, Đức Phật là bậc được tín đồ tôn sùng nhất trong sự thờ cúng lễ lạy, chúng
ta sẽ phân tích về sự thờ Phật và lễ Phật.
I). THỜ PHẬT:
1). TẠI
SAO PHẬT ĐÁNG TÔN THỜ?
Phật là bậc hoàn toàn
giác ngộ, trí tuệ sáng suốt biết hết mọi sự trong vũ trụ, và đầy đủ đức hạnh
cao qúy; Ngài là bậc siêu phàm vượt thánh, có đủ Từ Bi Trí Dũng. Ngài dùng tâm
bình đẳng để dẫn dắt chúng sinh ra khỏi biển khổ luân hồi sinh tử, biến người
ác thành người thiện. Đức Phật để lại những giáo thuyết cao siêu không huyền hoặc,
chân thật, thực hành được và kết qủa viên mãn; Ngài đã độ cho người ngu thành
người trí, người không giải thoát được giải thoát, làm mắt cho người mù, làm bậc
đại y vương cho người bệnh hoạn, Trời, Người, Thần, Thiên ma, Qủy Ma đều tôn
kính Đức Phật là bậc tối thắng; Ngài là bậc có một không hai trên thế gian này,
bởi vậy chúng ta thờ Ngài.
2).
THỜ PHẬT NHƯ THẾ NÀO?
Thờ Phật là để tôn kính
Ngài là bậc gương mẫu, là ngọn đèn trí tuệ soi đường chỉ lối Chân Thiện Mỹ cho
chúng ta noi theo. Chúng ta không thờ Ngài với mục đích thấp kém như cầu xin được
cái này hay cái kia một cách bất chính, thí dụ như học sinh lười biếng cầu xin
được thi đậu, người trộm cướp cầu xin không bị bắt, kẻ buôn bán lừa dối cầu xin
giàu có; nếu thờ Ngài với mục đích cầu xin sai lạc như thế chúng ta đã phỉ báng
Ngài. Chúng ta chỉ cầu Ngài gia trì cho chúng ta sự sáng suốt, tính nhẫn nại chịu
đựng, lòng khoan dung độ lượng, và tâm an bình mà thôi.
3).
THỜ ĐỨC PHẬT NÀO?
Đức Phật nào cũng có vô
lượng thọ, cũng có vô lượng quang bao la cùng khắp, công đức phúc trí vô lượng
vô biên; nên thờ một Đức Phật là thờ tất cả các Đức Phật mười phương. Ngày nay
vẫn còn trong thời kỳ giáo hóa của Phật Thích Ca nên thờ Ngài là chính, nếu người
tu Tịnh Độ trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà để cầu vãng sinh, thờ thêm Phật A Di
Đà. Nếu muốn thờ ba đời Chư Phật, thêm đức Di Lặc, gọi là tam thế Phật.
4).
BÀN THỜ TRƯNG BÀY THẾ NÀO?
Nên sắp xếp thờ chung một
bàn thờ, nếu thờ ba vị Phật phải đặt Phật Thích Ca ở giữa, nếu thờ hình phải bằng
nhau không cao thấp, nếu là tượng phải đặt ngang hàng không trước sau trên dưới;
thờ ông bà tổ tiên phải ở hai bên hoặc bên dưới. Chỗ thờ không để tạp vật, chỉ
có bình hoa, lư hương, chân đèn, đĩa qủa, chuông mõ; những vật này thỉnh thoảng
phải lau chùi. Chỗ thờ thường ở gian giữa hoặc chỗ chính của căn nhà, nếu nhà lầu,
nên đặt ở tầng trên.
Lần đầu thỉnh hình hay tượng
Phật về nên làm lễ “An vị Phật”. Chủ nhà phải tắm rửa sạch sẽ
thân, tâm phải vui vẻ không có những tham sân buồn rầu, nếu mời thiện tri thức
đến hộ niệm một thời kinh như Kinh “Bát Đại Nhân Giác” (Kinh tám điều hiểu
biết của người đại trí tuệ)
Bắt đầu từ ngày an vị
Phật, tất cả mọi người trong nhà ra vào qua lại trông thấy Đức Phật nên nhớ
nghĩ đến Đức hạnh của Ngài mà tự chỉnh đốn thân tâm mình, chỉnh đốn lại các
cách cư xử với nhau và với người ngoài đúng với ý nghĩa quy y Tam Bảo, hành trì
Ngũ Giới, bố thí nhẫn nhục, Từ Bi Hỷ Xả để xứng với gia đình có thờ Phật.
II). LỄ PHẬT:
1). LỄ
PHẬT CÓ NGUỒN GỐC RA SAO?
Thời Đức Phật
còn tại thế, các đệ tử của Phật từ vua quan đến dân chúng mỗi lần đến gặp Đức
Phật đang ngồi, đều qùy xuống, hai tay chống đất, đầu cổ cúi, trán sát gần chân
Phật để tỏ sự tôn sùng lòng ngưỡng mộ vô bờ bến đối với bậc tối thượng tôn; cử
chỉ ấy biểu lộ sự khiêm tốn khuất phục đối với đức đại Giác siêu phàm. Ngày nay
mặc dù Đức Phật đã nhập Niết Bàn, nhưng toàn thể tín đồ xem như Ngài vẫn còn tại
thế và hình dung như Ngài ngồi trước mặt chứng giám cho tấm lòng thành kính thiết
tha của mình; khi lễ Phật, hai chân qùy xuống, hai tay chống đất và cúi đầu sát
đất (có sách viết hai bàn tay để ngửa), dĩ nhiên là trước khi lễ phải sửa soạn
thân tâm như đã viết ở trên.
A). VỀ SỰ: (sự việc làm):
Bắt đầu, đốt
hương (một hay ba cây hương tùy ý), đứng thẳng, hai tay chắp lại kẹp hương ở giữa
để ở trước ngực, mắt nhìn Phật, tâm nghĩ tưởng đến các tướng tốt, đức hạnh cao
cả của Ngài và tỏ bày nguyện vọng chân chính của mình bằng cách thầm nghĩ tưởng
trong đầu hay nói thầm hoặc nói thành tiếng, xong vái ba vái (hai tay chắp trước
ngực vái), cắm hương vào lư, đánh ba tiếng chuông chậm rãi không to không nhỏ
(nếu có chuông), rồi lạy ba lạy (cách thức lạy như đã viết ở trên), xong xá ba
xá (hai tay chắp dơ cao tới đầu xá xuống tới ngực).
Lễ như thế: gọi là “chính
lễ” hay “thân tâm cung kính lễ”, thân sạch sẽ tề chỉnh
nghiêm trang, tâm hân hoan thành kính chính đại quang minh; nếu không như thế
mà chỉ để cầu danh ham lợi, gọi là tà lễ.
B). VỀ
LÝ: (nghĩa lý): Có bốn loại nghĩa lý cao
siêu:
1. Trí thanh tịnh lễ:
Cảnh giới
Chư Phật đều tùy tâm hiện, nên lễ một Đức Phật tức là lễ tất cả Chư Phật, lễ một
lễ là lễ cả Pháp giới, vì Pháp thân của Phật dung thông.
2. Nhập Pháp giới lễ:
Người hành
lễ phải tự quán thân tâm mình cùng tất cả các pháp (vạn vật) từ hồi nào tới giờ
đều không rời Pháp giới (bản tính của chúng sinh).
3. Chính quán lễ:
Người hành
lễ lạy Phật tại tâm mình, vì mọi chúng sinh đều có Phật tính chân giác, trí tuệ
bình đẳng.
4. Thật tướng bình đẳng:
Người hành
lễ thấy người và mình là một, thánh phàm nhất như (như nhau), thể dụng không
hai (Nguyên chất hàm ở trong gọi là Thể, công dụng làm ra ngoài gọi là Dụng),
thể tính vắng lặng (Thể tính: nguyên chất bản nguyên về tinh thần); khi lễ Phật
phải phát tâm vui vẻ, nhất tâm hành lễ, ý vắng lặng không nghĩ muôn việc.
2). LỄ VẬT CÚNG PHẬT:
(Còn tiếp)
Posted by: Tien Do
THỜ
PHẬT LỄ PHẬT
Toàn
Không
(Tiếp
theo)
2). LỄ VẬT CÚNG PHẬT:
A). VỀ SỰ:
Lễ
vật chỉ cần hương đèn, hoa qủa, nước trong là đủ. Lễ vật cúng Phật chỉ là tượng
trưng cử chỉ tôn kính của người Phật tử, sự cúng dường này tạo cảm tưởng gần
gũi và kết duyên lành với Phật.
B). VỀ LÝ:
Có năm món diệu hương cúng Phật:
1. Giới hương:
Chúng ta phải giữ giới đầy
đủ để lễ Phật.
2. Định hương:
Chúng ta phải định tĩnh tâm,
không để ý nghĩ suy tưởng làm loạn đông tâm.
3. Huệ hương:
Chúng ta phải lưu tâm ba món
sáng tỏ: “Văn” là tìm nghe lời hay ý đẹp, “Tư” là suy tư những lời
hay ý đẹp xem thế nào là phải trái chân tà, và “Tu” là quyết tâm thực
hành những điều phải, trừ bỏ điều tà sai.
4. Giải thoát hương:
Quyết trừ ngã chấp, trừ
chấp cái ta, quán vô ngã để trừ đau khổ, trừ thức phân biệt cái ta là mình để
thoát khỏi sinh tử luân hồi.
5. Giải thoát tri kiến hương:
Đoạn dứt chấp ngã là giải
thoát, nhưng chưa được vô ngại, phải trừ chấp pháp (chấp mọi vật là có
thực) nữa mới được vô ngại, bằng cách quán Bốn Đại (đất, nước, gió, lửa) không
thật, như nước đối với loài cá là nhà, gỗ đối với loài mọt là nhà và thức ăn
v.v…, những cái ta tưởng thật nhưng không phải thật chỉ là giả dối, đối đãi với
nhau sinh ra mà thôi.
3). CÚNG PHÁP BẢO:
Pháp bảo là giáo pháp do Phật giảng dạy,
cũng gọi là Phật pháp; Phật pháp là phương thuốc hiệu nghiệm thần diệu trừ được
bệnh khổ đau của chúng sinh. Muốn cúng Pháp bảo, phải tìm tòi nghe giảng, học hỏi
nghiên cứu giáo lý Kinh Luật Luận của Phật giáo, khi ấy sẽ có năm công đức là
điều chưa từng biết được biết, biết rồi liền áp dụng, từ bỏ các đều nghi ngờ,
không còn tà kiến suy nghĩ sai lầm, sự hiểu biết được sâu rộng. Lúc có kiến thức
sâu rộng, phải nghĩ tới việc ấn tống Kinh sách, phiên dịch hay sáng tác diễn giảng
để phổ biến Phật pháp đến quảng đại chúng sinh, như thế là cúng Pháp bảo; người
cúng pháp còn phải trừ kiêu mạn, hành chính pháp trừ tham dục, đoạn dứt đường
ác, đến chỗ lành.
4). CÚNG TĂNG BẢO:
Chư Tăng Ni là những người học giáo lý của Phật, là người bạn lành, người thầy
sáng, vì thế chúng ta kính trọng, gần gũi Tăng Ni để học hỏi giáo lý và đường lối
thực hành. Nếu chúng ta đã thành tâm thờ Phật, cũng nên trọng Tăng Ni vì các vị
này đã truyền giáo lý của Phật đến mọi người, lẽ nào ta lại làm ngơ không biết
đến.
Một vài người có bằng cấp cao tỏ ra kiêu căng ngã mạn, coi nhẹ các vị tu hành,
họ cho rằng các vị tu hành không có ăn học bao nhiêu; các người có bằng cấp này
chưa hiểu được Phật pháp cao siêu mà người tu hành học được, có biết bao nhiêu
các nhà Khoa học trí thức trên thế giới ca ngợi cung kính Phật pháp. Hơn nữa,
người xuất gia rời bỏ đời sống nhục dục, ăn chay sống cuộc đời đạm bạc để học
hành Phật pháp, đây là việc làm không phải dễ đâu; vị Tăng Ni nào có đủ giới đức,
chúng ta không phân biệt chùa nào, Tăng Ni xứ nào phái nào, ta đều cung phụng,
vì Tăng Ni là ruộng phúc của tất cả chúng sinh, như thế là cúng dường Tăng bảo.
III).
CÂU CHUYỆN VUA TRỜI LỄ PHẬT:
Trong Tạp A Hàm, quyển 4 Kinh số 1111 trang
85, khi Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, Ngài nói về thời qúa khứ,
Thích Đề Hoàn Nhân là vua Trời Đế Thích (mà dân gian thường gọi là Ngọc Hoàng
Thượng Đế). Một hôm Vua muốn đi thăm vườn, sai người hầu cận sửa soạn xe bánh
nghìn căm. Khi sửa soạn xong, người hầu cận đến tâu Vua: “Thưa Đế Thích Chủ,
xe đã sửa soạn xong, xin Ngài biết thời”. Đế Thích liền bước xuống điện Thường
Thắng, hướng về phương Đông, chắp tay lễ Phật. Bấy giờ người hầu cận thấy thế
liền sợ hãi, thấy người hầu cận kinh hãi, Đế Thích liền hỏi: “Ông thấy gì mà
sợ hãi như thế?” Người hầu cận tâu: “Ngài là Vua Trời Người, hết thảy đều
cung kính lễ bái Đế Thích Chủ, còn chỗ nào hơn mà Thiên Đế phải kính lễ như thế?”
Đế Thích bảo: “Ta là Thiên Đế của tất cả Trời Người, nhưng ở thế gian
lại có đấng Chính Giác xuất hiện, đáng là bậc Thầy của hết thảy Trời Người,
Ngài có trí huệ tối thắng bậc nhất, nên ta cúi đầu lễ”.
Đức Phật bảo: “Trời Đế Thích là Vua tự tại của
Trời còn cung kính Phật, còn khen ngợi sự cung kính Phật, mọi người cũng nên
tôn trọng cung kính Như Lai như thế, nên khen ngợi sự cung kính Phật như thế”.
IV).
LỢI ÍCH CỦA THỜ PHẬT LỄ PHẬT:
Như trên đã viết, chúng ta thờ Phật lễ Phật là
bậc gương mẫu hoàn toàn để học hỏi noi theo, hiện tại gia đình được ảnh hưởng tốt
lành của Phật, trên dưới hòa thuận, sống êm ấm. Khi có bàn thờ Phật, lễ bái
hàng ngày, sống nhu hòa gương mẫu, con cháu được ảnh hưởng tốt của sự sống đạo
vị hiền lương ấy.
Chư Phật có vô lượng công đức, nên người lễ Phật
sẽ được năm công đức sau đây:
1- Được đoan chính, trang nghiêm chính đại, vì khi lễ
nhìn hình Phật rồi phát tâm hoan hỉ, do nhân duyên này sẽ được đẹp đẽ đoan
chính.
2- Được giọng nói tốt, khi lễ Phật ba lần xưng danh hiệu:
“Nam mô Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, do nhân duyên này được giọng
nói trở nên tốt.
3- Được đầy đủ, khi lễ cúng Phật, rồi học hạnh từ
bi của Phật phát tâm bố thí, do nhân duyên này được đầy đủ.
4- Được sống lâu, khi lễ Phật, học lời Phật dạy lià bỏ
nghĩ ác, chú tâm lạy Phật, do nhân này sẽ được khỏe mạnh sống lâu.
5- Được sinh lên cõi Trời, khi lễ Phật khởi lòng tin Tam Bảo,
làm các việc lành, do nhân này sẽ sinh lên cõi Trời.
Trong Tạp A Hàm, quyển 3 Kinh số 835 trang
177, đức Phật dạy bốn chúng tại tịnh xá Kỳ Hoàn trong vườn Cấp Cô Độc thuộc nước
Xá Vệ về “Bốn Bất Hoại Tịnh” (Bốn niềm tin sắt đá) đối với Phật,
Pháp, Tăng, và Giới. Đức Phật nói: “Người có bốn bất hoại tịnh còn hơn Chuyển
Luân Thánh Vương (Đại Vương nhân đức)”, vì khi chết Chuyển Luân Thánh Vương
được sinh cõi Trời, nhưng khi hết tuổi thọ ở cõi Trời rồi, không thoát khỏi ba
đường dữ là Địa ngục, Ngạ qủy, Súc sinh. Còn người có lòng tin thanh tịnh đôi với
Phật, Pháp, Tăng, Giới, được sinh cõi Trời, sau khi hết tuổi thọ ở cõi Trời, được
sinh trở lại nhân gian lại có đời sống thọ và sung sướng.
Trong thế giới này, mặc dù người phàm mắt tục
không thấy được Chư Thiên Thần Hộ Pháp nhưng lúc nào các vị này cũng hộ trì cho
người thờ cúng Phật và tu trì Phật pháp; lại nữa, Ma Qủy khi thấy chúng ta thờ
Phật đều phải tránh xa không dám đến gần quấy phá.
Khi gặp hoạn nạn, gặp nguy khốn, gặp tai biến,
sợ hãi, nhớ nghĩ đến Phật, niệm danh hiệu: “Nam mô Giáo Chủ Bản Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật” xin Phật gia trì cho khỏi sợ hãi, tăng thêm nghị lực và
sức chịu đựng.
Khi lâm chung, chúng ta đã huân tập nghiệp
lành trong suốt thời gian sống như thế, sẽ cảm ứng lòng từ bi của chư Phật
và chư Bồ Tát, nên dễ dàng được siêu thoát về nơi an lạc vĩnh hằng.,.
__._,_.___
__._,_.___
No comments:
Post a Comment