BỐ
THÍ
Toàn Không
I).
THẾ NÀO LÀ BỐ THÍ?
Bố là chia bày ra, thí là trao tặng, cho.
Bố thí là đem năng lực vật chất như của cải
tiền bạc của mình hiến dâng chia tặng cho người, hoặc đem trí tuệ như giảng nói
các điều hay lẽ phải trong đời sống, đem các chân lý do Phật dạy giải thích lại
cho người. Bố thí được xem như phương tiện đối trị tính bỏn sẻn tham lam ích kỉ,
và thể hiện lòng bác ái từ bi. Đây là: những việc làm để nuôi dưỡng công đức
cho người bố thí.
Bố thí được dùng
chung cho mọi người, nó bao gồm sự giúp đỡ những kẻ nghèo đói bệnh tật hoạn nạn,
những người cần sự giúp đỡ về một phương diện nào đó, như hành động bố thí thức
ăn, tiền bạc vật dụng phẩm vật cho các vị Khất sĩ, các tịnh thất, chùa; ngược lại
Tăng Ni giải thích các lời Phật dạy và hướng dẫn tu hành cho các Phật tử tại
gia cũng gọi là bố thí. Đối với người tu hành, vì được kính trọng nên bố thí được
gọi là cúng dường, cúng dàng Phật, cúng Tam Bảo, cúng dường trai Tăng, cúng
chùa v.v…Tất cả các hành động bố thí cúng dàng đều được xem là để nuôi dưỡng
phúc đức.
II).
CÓ MẤY LOẠI BỐ THÍ?
Có ba loại bố
thí: Tài thí, Pháp thí, và Vô úy thí; để hiểu rõ tường tận của việc bố thí,
chúng ta lần lượt phân tích từng loại.
1).
TÀI THÍ:
Gồm tiền bạc của cải vật
dụng cho đến cái qúy nhất là thân mạng, có hai loại:
1. NỘI TÀI:
Là những vật
chí thân qúy báu như thân mạng, các bộ phận của mình đem bố thí cho người khác
như xông vào lửa cứu người sắp chết cháy, nhảy xuống nước cứu người sắp chết đuối,
lấy thân mình che đỡ cho người sắp bị bắn hay bị đâm. Hoặc cho người một bộ phận
của mình mà người đang cần đến như cho người một qủa thận chẳng hạn, nghĩa là
người bố thí sẵn sàng chịu chết, chịu tật nguyền, chịu khổ để cứu người.
Bố thí nội tài
là: một cử chỉ cao đẹp nhất mà chỉ người có “từ tâm” (tâm thương người) mới làm
được, nếu còn xem thân mạng mình là qúy, không thể thực hiện được loại bố thí
này.
2. NGOẠI TÀI:
Là vật thường
dùng của mình như tiền bạc, xe cộ, nhà cửa, ruộng vườn, trân bảo, đồ đạc, quần
áo, đồ ăn, thức uống v.v…, đem một trong những thứ ấy tặng cho người, gọi là bố
thí ngoại tài.
Về ngoại tài, có một
vấn đề được nêu ra, đó là cách tạo dựng nên sản nghiệp. Có người tạo sản nghiệp
bằng những nghề chân chính, nhưng cũng có người tạo nên bởi những nghề không
chân chính như lừa đảo cờ bạc, lợi dụng sức khổ cực của người khác, hay tranh
giành cướp đoạt dối trá, v.v… để làm giàu một cách phi pháp bất chính. Nếu sự
tìm cầu tạo dựng của không quang minh chính đại, mà chỉ là của bất nhân bất
chính do sự làm bất hợp pháp mang lại, sự bố thí không được coi là trọng, mà là
thấp hèn, vô ích. Tiền của mang ra bố thí phải là tiền của do công khó nhọc của
chính mình, làm việc một cách hợp pháp, hợp lý, mới được kể là trọng.
Chúng ta hãy trích một
đoạn bài Tụng của Đức Phật trong Trung A Hàm quyển 3 trang 80:
.
. . Nếu kiếm của hợp pháp,
Đã
lo được tự thân,
Cung
cấp và tự dùng,
Bố
thí và tạo phước,
Cả
hai đều có đức.
2).
PHÁP THÍ:
Pháp là vạn vật, pháp
cũng là các lời dạy của Phật, các Kinh Luật Luận của Phật cũng gọi là pháp. Đem
các lời hay lẽ phải, những chân lý qúy báu ra chỉ cho người, như đem các lời dạy
của Phật ra chỉ lại cho người được hiểu. Hoặc thực hành các lời dạy của Phật để
làm gương cho người khác bắt chước noi theo và cải tà quy chính, đều là bố thí
pháp cả.
Pháp thí có một giá
trị lớn hơn tài thí, vì tài thí chỉ giúp cho người một thời gian hay một đời là
cùng, còn pháp thí ảnh hưởng nhiều đời nhiều kiếp; ngoài ra, pháp thí còn giúp
cho cả kẻ sang người hèn, kẻ nghèo lẫn người giàu, nên bố thí pháp lợi ích rộng
lớn hơn bố thí tài.
3).
VÔ ÚY THÍ:
Vô úy là không sợ, bố
thí vô úy là cho người khác sự không sợ hãi, hết sợ hãi; tại sao phải bố thí vô
úy?
Bởi vì trong đời
sống của con người có đủ thứ sợ hãi. Khi còn bé nhỏ sợ theo bé nhỏ như sợ thua
bạn bè, sợ không làm vừa lòng cha mẹ, v.v… Khi lớn lên sợ không thành danh, sợ
không chọn được người bạn đời như ý v.v… Khi về già sợ bệnh này bệnh kia, sợ chết
v.v…. Mỗi người từ nhỏ tới lớn đều có trăm nghìn lo sợ, do đó, nếu có sự bố thí
vô úy, người được thí vui mừng biết mấy, như trút được gánh nặng nghìn cân vậy.
Tỉ dụ như người đang bị tai nạn, có người đến cứu giúp làm người này hết lo sợ,
bớt lo sợ.
Muốn bố thí vô úy,
trước tiên người bố thí phải không còn sợ một điều gì; muốn được vậy, muốn
không còn sợ bất cứ điều gì trong lòng, người ấy phải tìm đọc để hiểu lý sống của
Phật giáo một cách tường tận và áp dụng thực hành đầy đủ rồi, đâu còn gì để sợ
nữa; như khi biết rõ các vật đều là hư giả không thật, cái ngã tức cái thân ta
cũng không thật không qúy, tham để làm gì? Không tham tức không còn ham muốn nữa,
khi không còn ham muốn sẽ không tìm cách giữ gìn hay chiếm đoạt, như vậy có gì
phải lo sợ? Tiền bạc của cải không ham nên không sợ mất, danh lợi địa vị không
màng nên không sợ thiếu, sinh mạng thân mình xem như giả tạm nên không sợ chết,
do đó sống rất bình tĩnh tự tại trước mọi đổi thay thăng trầm của cuộc đời.
Do vậy, người vô úy sẵn sàng can thiệp vào các việc cứu người khác gặp nguy hiểm
mà người thường không thể làm được.
III).
BỐ THÍ NHƯ THẾ NÀO?
(Còn
tiếp)
Posted by: Tien Do
BỐ
THÍ
Toàn
Không
(Tiếp
theo)
III).
BỐ THÍ NHƯ THẾ NÀO?
Sự bố thí xảy ra rất
nhiều, có người giàu có bỏ ra rất nhiều tiền của để bố thí cho trẻ em xấu số
như tàn tật câm điếc hoặc bệnh nan y. Có người lập nhà thương thí, trường học
miễn phí, nhà dưỡng lão cho người già nghèo, trại cô nhi cho trẻ em không cha
không mẹ. Có người bỏ cúng thật nhiều tiền của giúp Tăng Ni xây chùa, đúc
chuông, tạo tượng, hành đạo v.v…Lại có người lập qũy, gây qũy để giúp cho những
người nghèo khó, có người nhảy xuống nước để cứu người sắp chết đuối, hoặc có
người xông vào lửa cứu người sắp chết cháy v.v… Tất cả những hành động ấy đều
là bố thí cả, nhưng xét về tâm lý và động lực thúc đẩy bên trong, có hai trường
hợp được nêu lên ở đây:
1). BỐ
THÍ CHẤP TƯỚNG:
Nghĩa là bố
thí với dụng tâm bên trong để cầu danh cầu lợi như bố thí để được đăng báo khen
tiếng tốt về mình hay tổ chức của mình. Với dụng tâm ganh đua như mình bố thí
nhiều hơn người kia, hoặc tổ chức của mình bố thí nhiều hơn tổ chức kia. Hoặc
giúp đỡ các em tật nguyền bênh nan y hoạn nạn cô nhi là để sau này lớn lên các
em sẽ biết ơn và là công cụ, người của mình hay thuộc tổ chức, tôn giáo của mình.
Hoặc nhảy xuống sông cứu người để được người “đẹp” ngợi khen cảm phục v.v….
Những hành động đẹp đẽ
ấy được che đậy giấu kín bên trong như thế không còn giá trị nữa, về phúc đức của
những hành động với động lực bên trong mờ ám không sạch như thế, kết qủa như
làn gió mát thổi qua, như mây trôi trong hư không sẽ tan biến mất vào hư vô
không còn gì cả.
Lấy thí dụ của Trưởng
giả Cấp Cô Độc thời Phật tại thế đã mang tiền của ức tỉ ra để xây Đạo tràng Kỳ
Viên cúng Phật với một tâm không chấp trước, khi qua đời Trưởng giả đã được qủa
báo sinh lên cõi Trời Đao Lợi. Còn Vua Lương Vũ Đế bên Trung Hoa, năm 528 Dương
lịch, Tổ thứ 28 là Ngài Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ qua Trung Hoa. Khi gặp, Vua hỏi Tổ
Bồ Đề về việc vua đã cho dựng lập được 72 chùa, đúc chuông, tạo tượng, tu sửa cầu
cống, bồi đắp đường lộ v.v… thì có những công đức gì? Khi nghe Vua hỏi một
cách tự hào khoe khoang chấp tướng như thế, nên Tổ trả lời là “Không có
công đức”; Vua hỏi tiếp “Tại sao lại không có công đức?”, Tổ trả
lời “Công đức đó chỉ được ở qủa vị Trờị Người mà thôi”. Vua lại hỏi “Làm
thế nào mới gọi là chân công đức?” Tổ đáp “Trí thanh tịnh thể vốn vắng lặng,
tròn đầy, trong sáng, nhiệm mầu, công đức như vậy chẳng thể lấy thế gian pháp (của
cải, tiền bạc…) mà cầu được”, Vua lại hỏi “Vậy người trước Trẫm đây là
ai?”, Tổ đáp “Không có ai cả”. Vua nghe câu trả lời chót của Tổ sinh ra
nghi ngờ cho rằng Tổ chẳng phải người hiểu đạo, vì sự học hỏi và tu học của
Lương Vũ Đế còn thấp, không hiểu được câu trả lời của Tổ Bồ Đề. Vì Tổ đã đắc đạo
rồi, biết rõ cái “Vô ngã” nên đã trả lời như thế, nhưng Vua không
hiểu, tự ái, vì cái ngã (cái ta) của Vua qúa to lớn, do đó Vua đã bực (nổi sân
giận). Vì sự giận này, Vua không hỏi nữa, và sau sai người đem thuốc độc trộn
trong thức ăn của Tổ, nhưng Tổ không chết. Sau gần một tháng, Tổ đã rời bỏ Kinh
đô đi đến ngồi quay mặt vào vách 9 năm nhập định tại chùa Thiếu Lâm, như thế
công đức bố thí của Vua Lương Vũ Đế tuy nhiều, nhưng không biết có đủ bù cái
nghiệp đầu độc một bậc Thánh chăng?
2). BỐ
THÍ VÔ TƯỚNG:
Là bố thí với
tâm trong sạch, người bố thí với tâm từ bi quảng đại, bố thí với tâm bình đẳng
không phân biệt người này người kia, nòi giống chủng tộc, tôn giáo v.v…Bố thí
không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì, người bố thí khi cho không cần biết người nhận
là ai, không cần cho người nhận biết mình là ai; khi nào mà người cho không còn
thấy mình cho và kẻ nhận nữa, mới thật sự là bố thí rộng lớn, dù sự bố thí rất
nhỏ nhặt cũng vẫn được gọi là bố thí rộng lớn tức là bố thí “Ba La Mật”.
Chữ “Ba La Mật”
ở đây có nghĩa là rốt ráo, bố thí Ba La mật nghĩa là bố thí đến cùng tận, vô
cùng rộng lớn; nhiều người khi bố thí còn chấp cho rằng ta là người cho, người
làm ơn, kẻ kia là người thọ nhận, người chịu ơn. Vì còn dính mắc nơi tướng, chấp
có ngã (ta) có nhân (người), nên không được gọi là Ba La Mật. Người bố thí
không thấy có ta là người làm ơn, không thấy người kia là kẻ thọ ơn, lại còn
không thấy vật kia là vật cho nữa, mới được gọi là bố thí Ba La Mật, vì không
còn một tí gì dính mắc tới sự tướng nữa; đây mới thực sự là bố thí cao cả trong
sạch sẽ đưa người bố thí được phúc báo vô lậu thanh tịnh và đây cũng là việc
làm của các vị Bồ Tát vậy.
Đối với người tu, phải
quán sát tất cả chúng sinh và mình cùng đồng một bản thể mới không còn thấy ta
có bố thí và người được thọ thí, thí dụ như một người đang làm việc gì, bỗng
tay trái bị thương, tay phải vội vàng lấy bông băng và thuốc bó chỗ vết thương
của tay trái lại, lúc đó tay phải không có một tí nào kiêu hãnh về việc làm ấy,
vì sao thế? Vì tay phải tự nhận biết rằng nó và tay trái cùng đồng một thân thể,
nên nó không thấy mình (tay phải) là người ban ơn giúp đỡ và tay trái là kẻ thọ
ơn; bố thí đến độ không cảm nhận được một tí nào là ơn như thế mới là bố thí Ba
La Mật.
IV).
BỐ THÍ CỦA TRƯỞNG
GIẢ CẤP CÔ ĐỘC:
Trưởng giả Cấp Cô
Độc đã tự bỏ ra tỷ ức tiền bạc để xây cất đạo tràng cúng dường Đức Phật và
chúng Tăng, ông còn làm rất nhiều việc bố thí cúng dường khác trong suốt đời
ông như cung cấp vật thực, quần áo, thuốc men, vật dụng cần thiết cho cả chúng
Tăng và các người nghèo túng bệnh hoạn. Chúng ta đọc một đoạn trích phỏng theo
bộ Tăng Nhất A Hàm, quyển hai, trang 17 như sau:
Khi Đức Phật trở lại
đạo tràng Kỳ Hoàn nước Xá Vệ, một hôm trưởng giả Cấp Cô Độc đến viếng Đức Phật,
sau khi vái chào và hỏi thăm sức khỏe của Phật, Trưởng giả ngồi qua một bên để
nghe pháp.
Lúc ấy Đức Phật hỏi
Trưởng giả: “Trưởng giả, ông có thường bố thí cho người nghèo thiếu không?”
Trưởng giả thưa:
“Đúng vậy, bạch Thế Tôn! Con hằng bố thí cho người nghèo thiếu, bố thí rộng
rãi tại bốn cửa thành, tại chợ, tại nhà, cấp các thứ cần thiếu cho người, con
đã làm như thế rất nhiều lần. Bạch Thế Tôn, có lúc con nghĩ rằng muốn bố thí
cho tất cả loài chim rừng, súc vật trong rừng. Con cũng không nghĩ: “đây nên
cho, kia không nên cho”; cũng không nghĩ: “Đây nên cho nhiều, kia nên cho ít”.
Con hằng nghĩ: “Tất cả chúng sanh đều do ăn mà còn tính mạng, có ăn sẽ sống,
không ăn thì chết”.
Đức Phật bảo: “Lành
thay, lành thay! Trưởng giả! ông đã đem lòng Bồ Tát, chuyên ròng một ý bố thí rộng
rãi; đúng là các chúng sinh đều do ăn mà sống, không ăn liền chết. Này Trưởng
giả, ông sẽ thu hoạch được qủa báo lớn, tiếng đồn mười phương, được pháp vị cam
lộ. Sở dĩ như thế vì Bồ Tát thường đem tâm bình đẳng bố thí, chuyên ròng một
lòng nghĩ tới các loài chúng sinh, họ do ăn mà còn, có ăn liền được cứu tế,
không có ăn sẽ chết”. Đức Phật nói kệ diễn tả lại ý trên:
Hãy
nên bố thí khắp,
Trọn
không tâm luyến tiếc,
Ắt
sẽ gặp điều lành,
Được
đến bờ bên kia
Rồi Đức Phật dạy
tiếp: “Khi bố thí dù nhiều hay ít, dù tốt hay xấu, nên chí thành dụng tâm
vui vẻ, lòng tin nhân quả chẳng dứt. Lúc muốn bố thí: hãy vui vẻ ban cho, không
khởi tưởng dính mắc, tự tay bố thí, chớ sai người khác; phát nguyện bố thí, sau
mới cầu quả báo, sẽ được phúc vô cùng”.
V).
TRƯỞNG GIẢ BẠT ĐỀ
VÀ BÀ
NAN ĐÀ ĐƯỢC ĐỘ:
(Còn
tiếp)
BỐ THÍ
Toàn
Không
(Tiếp
theo)
V).
TRƯỞNG GIẢ BẠT ĐỀ
VÀ BÀ
NAN ĐÀ ĐƯỢC ĐỘ:
Theo quyển 2 Tăng Nhất
A Hàm, từ trang 32 đến 48, có nói trường hợp Đức Phật và các Thánh Tăng độ cho
hai người keo kiết biết mở lòng nhân và gây nghiệp lành như sau:
Khi Đức Phật ngự
tại thành La Duyệt, vườn Ca Lan Đà cùng 500 Tỳ Kheo (Tăng). Lúc ấy có bốn đại đệ
tử của Đức Phật là các Tôn giả Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Na Luật, và Tân Đầu
Lư cùng bàn luận riêng với nhau: “Chúng ta nên xem xét trong thành có ai
không tạo công đức, hãy đến độ cho họ để làm cho họ được lợi ích”.
Sau khi bàn thảo, mọi
người đều đồng ý có hai người giàu có mà phước cũ đã sắp hết, nhưng họ không trồng
cội phúc mới. Hai người này rất giàu có, vàng bạc châu báu, kho chứa của cải vô
số, nhưng họ có tà hiến không tin vào sự làm phước lành tránh ác; họ cho rằng bố
thí chỉ là phí của chẳng được lợi lộc gì, chẳng tin qủa báo thiện ác đời này đời
sau. Họ không tin có nghiệp báo luân hồi, và cho rằng chết là hết chẳng còn gì
mà phải bận tâm bố thí tạo phúc v.v…
Hai người giàu có ấy
lại là hai chị em, mỗi người ở một nơi; cả hai chị em đều có dinh thự qúy giá,
nhà có nhiều lớp hàng rào bao quanh kiên cố, rào cao cổng kín, lại có người
canh giữ cẩn thận. Họ không cho một người hành khất nào được vào bên trong để
xin ăn, lại còn cho làm lướt sắt ở bên trên, chim cũng không chui lọt xuống được,
để phòng người lạ trèo rào vào nhà v.v…
Các Tôn giả bàn: “Chúng
ta nên đến nhà trưởng giả Bạt Đề trước và phân chia ai đến trước ai nên đến sau”.
1).
TRƯỞNG GIẢ BẠT ĐỀ ĐƯỢC ĐỘ:
Sáng hôm sau, trưởng
giả Bạt Đề đang ăn sáng, ăn bánh, tôn giả A Na Luật ôm bình bát từ dưới đất nhà
Trưởng giả đứng lên, chui lên, bước tới gần rồi chìa bát về phiá Trưởng giả.
Trưởng giả thấy người khất thực hết sức buồn không nói lời nào, bỏ một miếng
bánh vào bát, Tôn giả được bánh, bèn ra về; khi ấy Trưởng giả nổi giận, ra cổng
bảo người giữ cổng:
- Ta đã ra lệnh không cho người vào,
sao lại có người vào như thế?
Người canh cổng
thưa:
- Cửa nẻo chắc chắn, canh giữ kỹ
càng, đâu có ai vào được, không hiểu người ấy làm sao vào được, lạ thế?
Trưởng giả im lặng
không nói, đi vào nhà ăn bánh tiếp; Tôn giả Đại Ca Diếp ôm bát đến, cũng từ dưới
đất chui lên, đi vào đưa bát trước mặt Trưởng giả. Trưởng giả hết sức buồn bực,
không nói không rằng, bỏ một miếng bánh vào bát; Ngài Ca Diếp được bố thí liền ra
về, Trưởng giả càng thêm bực tức, ra bảo người canh cổng:
- Trước ta đã ra lệnh không cho bất
cứ ai vào nhà, cớ sao để cho hai Sa Môn (hai Tăng) vào nhà khất thực?
Các người giữ cổng
thưa:
- Chúng tôi không thấy người nào vào
từ cổng này, mà cũng chẳng thấy Sa Môn nào từ cổng này ra, không biết họ đi bằng
ngả nào? Lạ qúa!
Trưởng giả nói la
lớn:
- Các Sa Môn trọc đầu khéo dùng huyển
thuật mê hoặc người, lừa gạt, họ chẳng có hạnh chân chính đâu.
Bà vợ Trưởng giả đã
thấy hai vị Tôn giả, lại nghe chồng nói như thế thì không đồng ý, bà bèn ra bảo
chồng:
- Ông nên giữ mồm miệng, chớ nên nói
Sa Môn dùng huyển thuật mê hoặc người, vì sao? Các Sa Môn có đức độ, có đại oai
thần, họ đến nhà là có lợi cho ông, ông có biết người đến trước và người đến
sau là ai không?
- Tôi không biết.
- Người đến trước là con vua Hộc Tịnh
nước Ca Tì La Vệ, tên A Na Luật, vị này rời Vương gia đi học đạo đắc A La Hán,
là người có Thiên nhãn bậc nhất. Còn vị thứ hai là con của Phạm chí Ca Tỳ La
giàu có nhiều tiền của tính không hết, có 999 con trâu cày, ở trong thành La
Duyệt này ai mà chẳng biết. Phạm chí ấy có con tên Tỳ Ba La Da Đàn Na, cưới vợ
cho con là Bà Đà, người đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Nếu đem vàng chở bằng
xe bốn ngựa đến rước cô ấy cũng bị dẹp ra chỗ khác. Thế mà vị thứ hai này bỏ vợ
ngọc nữ báu ấy để xuất gia học đạo, và đã đắc A La Hán hành hạnh đầu đà đi khất
thực; nay ông được lợi ích lớn mới được các vị ấy đến độ cho ông, ông không nên
nói bậy như thế, chớ nên phỉ báng bậc Thánh hiền.
Trưởng giả sau khi
nghe vợ nói lai lịch của hai Sa Môn và giải thích, nên không còn bực tức nữa trở
vào ăn tiếp. Một lúc lâu sau, tôn giả Mục Kiền Liên ôm bát bay lên không trung
đến nhà Trưởng giả, biến thành nhỏ tí chui qua lưới sắt mà xuống, khi qua rồi
thân hình trở lại như thường, nhưng ngồi kết già lơ lửng trên không ngoài cửa.
Trưởng giả thấy thế, sợ hãi nói:
- Ngài là Trời hay Thần Càn thát Bà?
- Tôi chẳng phải Trời cũng chẳng phải
Thần.
- Ông là Qủy hay là La Sát ăn thịt
người?
- Tôi chẳng phải Qủy cũng chẳng phải
La Sát, tôi là đệ tử Phật, tên là Mục Kiền Liên.
- Ông có điều gì muốn nói với tôi?
- Tôi muốn thuyết pháp cho ông nghe.
Khi ấy Trưởng giả liền
nghĩ: “Các đạo sĩ suốt đời để ý đến ăn uống, nếu nói về ăn ta sẽ không muốn
nghe” Tôn giả Mục Kiền Liên biết tâm ý của Trưởng giả liền nói kệ:
Như
Lai thuyết hai thí,
Pháp
thí và tài thí,
Nay
sẽ thuyết pháp thí,
Chuyên
tâm nhất ý nghe.
Trưởng giả nghe
nói sẽ thuyết pháp thí, vui mừng nói:
- Mong Ngài nói cho, tôi nghe rồi sẽ
được hiểu biết.
- Trưởng giả nên biết, Như Lai thuyết
năm đại thí, nên nhớ thực hành suốt đời.
Trưởng giả lại
nghĩ: “Vừa rồi nói pháp thí, nay lại nói năm đại thí là thế nào?” Tôn giả
biết tâm suy nghĩ của Trưởng giả, nên vội nói tiếp:
- Như Lai: nói hai thí là pháp thí
và tài thí, bây giờ tôi chỉ nói về pháp thí chứ không nói về tài thí.
Trưởng giả nghe vậy
yên tâm hỏi:
- Cái gì là năm đại thí?
- Không được sát sinh, đây gọi là đại
thí, suốt đời không nên làm; không trộm cướp, đây gọi là đại thí, suốt đời nên
tránh phạm. Không tà dâm vợ người, không nói dối, không uống rượu, đây gọi là đại
thí, suốt đời nên gìn giữ vâng làm, đó là năm đại thí; nếu Trưởng giả ưng làm
năm đại thí này sẽ được lợi lộc vô cùng không biết đâu mà nói hết được.
Trưởng giả Bạt Đề
nghe những lời ấy rồi hết sức hân hoan nghĩ: “Ngày nay ta chẳng kham sát
sinh, của cải mình đâu thiếu mà phải trộm cướp lấy của người khác, vợ mình nết
na thông minh lại đẹp đẽ đâu cần lang chạ với đàn bà khác. Ta cũng chẳng ưa nói
láo xưa nay, và ngày nay lớn tuổi ta chẳng nghĩ đến rượu có hại cho sức khỏe huống
là nếm ư? Tất cả năm việc này đều hợp với ta, có thể làm được, chỗ diễn thuyết
lại chẳng cần mất bảo vật mà được lợi lộc như thế; Phật Thích Ca thuyết pháp qủa
là hay, hợp với ta”, nghĩ như thế nên Trưởng giả nói:
- Năm đại thí này tôi có thể vâng nhận
làm được.
Rồi Trưởng giả lại
nghĩ: “Ta nên mời Tôn giả Mục Kiên Liên ăn cơm”, nên liền nói:
- Ngài nên hạ cố xuống đây ngồi.
Tôn giả liền hạ
xuống ngồi, Trưởng giả tự mang các thức ăn thức uống ra mời Tôn giả ăn uống. Ăn
xong, Trưởng giả lại nghĩ: “Ta nên tặng Tôn giả một tấm vải dạ trắng”,
liền đứng lên vào nhà kho muốn lựa tấm xấu lại cầm nhầm tấm tốt, Trưởng giả liền
bỏ xuống lựa tấm khác lên cũng nhầm tấm tốt như thế ba lần. Tôn giả biết tâm niệm
Trưởng giả liền nói kệ vọng vào:
Thí
cùng tâm tranh đấu,
Phúc
này bậc Hiền bỏ,
Lúc
cho không đấu tranh,
Mới
gọi tùy tâm cho.
Trưởng giả nghe
hiểu nghĩ: “Tôn giả biết ý ta”, ông liền thôi lựa chọn, cầm tấm dạ trắng
mang ra dâng Tôn giả. Tôn giả nói kệ chú nguyện cho Trưởng giả:
Quán
sát thí đệ nhất,
Biết
có người Hiền Thánh,
Trong
thí là tối thượng,
Ruộng
lành sinh hoa trái.
Tôn giả Mục Kiền
Liên chú nguyện xong, nhận tấm dạ cho Trưởng giả được phúc vô cùng; Tôn giả
thuyết giảng cho Trưởng giả nghe về thí luận, giới luận, luận sinh cõi Trời, dục
là bất tịnh. Tôn giả nói về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, làm sao diệt khổ, và
con đường Tám đạo phẩm Hiền Thánh: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính
nghiệp, chính mang, chính tinh tấn, chính niệm, và chính định sẽ đưa đến giải
thoát an lạc đời đời.
Trưởng giả
thâu nhận hết không còn nghi ngờ, ông tự quy y Phật, Pháp, Tăng, và xin thọ ngũ
giới. Trưởng giả thưa:
- Từ nay về sau, xin Thế Tôn và bốn
chúng nhận lời thỉnh của con mãi mãi, con sẽ cung cấp y phục, thức ăn, thuốc
men không luyến tiếc.
Tôn giả Mục Kiền
Liên thuyết pháp xong ra về, các Tôn giả nói với Tôn giả Tân Đầu Lư: “Chúng
tôi đã độ cho trưởng giả Bạt Đề xong, bây giờ đến lượt Hiền giả”.
2). BÀ NAN ĐÀ ĐƯỢC ĐỘ:
(Còn
tiếp)
__._,_.___
Posted
by: Tien Do <
__._,_.___
__._,_.___
No comments:
Post a Comment