TRÌ
GIỚI
Toàn Không
I). TRÌ
GIỚI LÀ GÌ?
Trì
là giữ chặt chẽ, Giới là những điều ngăn cấm không được làm, không được
phạm, Trì Giới là thực hành những luật lệ mà Đức Phật đặt ra cho Phật tử
xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc
sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp; nhờ có giữ giới tâm mới
được ổn định, tại sao?
Vì nếu không giữ giới như một người giết người cướp của chẳng hạn, tâm người ấy
tất nhiên là phải dao động mạnh nếu không nói là loạn động, nên không thể định tĩnh
được, do đó người giữ giới tâm dễ được định tĩnh; tâm được định huệ mới sinh,
huệ phát sinh mới dứt trừ được vô minh, và khi hết vô minh sẽ hết sinh tử luân
hồi, tức là minh tâm kiến tánh, đốn ngộ Phật tánh vậy.
Giới luật của
Phật đặt ra không phải để trừng phạt người không thi hành, mà để giúp cho những
người nào thi hành nghiêm chỉnh sẽ hưởng được qủa vị tốt đẹp; những giới luật
chỉ có mục đích làm cho các đệ tử Phật được mau chóng đạt qủa Thánh trong khi
tu hành.
II). CÓ MẤY
LOẠI GIỚI LUẬT? Có
ba loại:
1). GIỚI
LUẬT CHO PHẬT TỬ TẠI GIA (Cư sĩ):
Phật
tử tại gia gồm cư sĩ nam, cư sĩ nữ, những Phật tử tại gia có những giới: Ngũ giới,
Bát quan trai giới, Bồ tát giới cho cả hai loại Phật tử tại gia và xuất gia.
1. NGŨ GIỚI:
Phật tử tại gia có thể giữ từ một tới năm giới là:
1- Không sát sinh,
2- Không trộm cướp,
3- Không tà dâm,
4- Không nói dối,
5- Không uống rượu.
Đã được phân tích kỹ trong bài “Thế nào là một người Phật tử, phần “Ngũ giới”.
2. BÁT
QUAN TRAI GIỚI (tám
cửa ngăn):
Quan là cửa, trai là sau giờ ngọ không được ăn. tám cửa ngăn chặn tám điều tội
lỗi là:
1- Không sát sinh,
2- Không trộm cướp,
3- Không dâm dục,
(trong đó có cả tà dâm),
4- Không nói dối,
5- Không uống rượu,
6- Không trang điểm, ca
hát hay dự cuộc vui,
7- Không nằm ngồi chỗ
êm ấm cao sang (để ngăn ngừa sự qúa sung sướng nảy sinh dục vọng),
8- Ăn chay không qúa giờ
ngọ (1:00 giờ trưa) (để ngừa buồn ngủ, bệnh và dễ nhất tâm khi tu hành).
Tu tám cửa trai giới chỉ trong vòng 24 giờ tức là một ngày tròn mà thôi, hành
giả nên thọ giới tại chùa, khi hiểu rõ chương trình, nghi thức rồi, có thể tự
thọ giới tại nhà; nên sắp xếp để thọ bát quan trai giới mỗi tháng một lần, vào
ngày mồng tám, mười bốn, rằm, v.v…, nếu hoàn cảnh thuận tiện, thọ nhiều lần
càng tốt. Trong khi thọ tám cửa trai giới, thân khẩu ý của hành giả được thanh
tịnh, tuy chỉ có 24 giờ nhưng rất qúy báu, hơn cả một đời của người không tu
hành gì cả; về vấn đề này được phân tích kỹ trong bài “Tám Quan Trai Giới”.
2). GIỚI
LUẬT CHO PHẬT TỬ XUẤT GIA:
Có bốn loại
Phật tử xuất gia là: Sa Di, Sa Di Ni, Tỳ Kheo, và Tỳ Kheo Ni.
1. SA DI
VÀ SA DI NI:
Là những người nam và nữ mới xuất gia phải giữ 10 giới gồm: 1- Không sát sinh,
2- Không trộm cướp, 3- Không dâm dục, 4- Không nói dối, 5- Không uống rượu, 6-
Không trang điểm, 7- Không ca hát hoặc dự các cuộc vui nhộn, 8- Không nằm ngồi
chỗ êm ấm cao sang, 9- Phải ăn chay và không qúa giờ ngọ, 10- Không dùng vàng bạc
châu báu.
2. TỲ
KHEO:
Là Tăng phải
giữ 250 giới, gồm cả những giới cho Sa Di.
3. TỲ
KHEO NI:
Là Ni phải
giữ 348 giới, gồm cả những giới cho Sa Di và Tỳ Kheo.
4. THỨC
XOA MA NA:
Ngoài ra
còn một loại Phật tử xuất gia chưa đủ tuổi, đó là Thức Xoa Ma Na, chưa phải
là Sa Di hay Sa Di Ni, giữ 6 giới và tập 296 hạnh giới.
Những giới
dành cho Tăng Ni rất nhiều và chi tiết, không thể viết ra ở đây; những giới luật
này là những hàng rào cản không cho tu sĩ làm với mục đích giúp cho giới tu sĩ
không vướng mắc vào những việc của thế gian để tâm được ổn định thanh tịnh, sẽ
đưa người tu đến giải thoát. Như tham gia biểu tình ủng hộ phản đối, bàn chuyện
chính trị tranh cãi hơn thua, nuôi con nuôi, buôn bán v.v…; người tu hành chân
chính không bao giờ làm các việc ấy, vì khi làm tâm trí sẽ bận bịu với các việc
ấy không thể yên ổn tu hành được.
3). BỒ
TÁT GIỚI:
Bồ Tát giới chung cho cả Phật tử tại gia và Phật tử xuất gia, những Phật tử
phát tâm tu hạnh Bồ Tát giới là để rộng bề làm Phật sự và hóa độ chúng sinh. Bồ
Tát giới gồm có:
1. Nhiếp
luật nghi giới:
Người thọ trì Bồ Tát giới quyết giữ 12 trọng (nặng) giới và 48 khinh (nhẹ) giới,
nghĩa là quyết không phạm một việc ác nào cả.
2. Nhiếp
thiện pháp giới:
Người thọ
trì Bồ Tát giới quyết làm tất cả các việc lành.
3. Nhiêu
ích hữu tình giới:
Người thọ
trì Bồ Tát giới quyết tu hạnh từ bi hỉ xả, làm tất cả các điều lợi ích cho tất
cả chúng sanh, không một loài nào mà không hóa độ.
III). TRÌ
GIỚI NHƯ THẾ NÀO?
(Còn tiếp)
TRÌ
GIỚI
Toàn Không
(Tiếp theo)
III). TRÌ
GIỚI NHƯ THẾ NÀO? Có
hai cách:
1). TRÌ
GIỚI CHẤP TƯỚNG:
Là trì giới
do vì danh được người ta khen, vì bị người khác ép hay nể người khác mà trì giới,
vì ganh đua hay tự hào mà trì giới; những loại trì giới như thế, chỉ có bề
ngoài, miễn cưỡng, tự cao tự đại, giả dối đánh lừa người khác, trì giới như thế
không có lợi ích gì cả, vì bên trong ô nhiễm xấu xa.
2). TRÌ
GIỚI VÔ TƯỚNG:
Trì giới
không chấp tướng, theo đúng các điều Phật dạy mà thi hành, không vì danh hay bị
ép, không vì nể vì ganh đua mà trì giới. Trong khi giữ giới không hề nghĩ mình
giỏi hơn người hay có ý nghĩ khinh chê người phạm giới, mà chỉ nghĩ trì giới là
bổn phận của mình không thực hành không được; trì giới với tâm như thế mới đúng
là trì giới rộng lớn (Ba La Mật).
Trong Tạp
A Hàm quyển 2 trang 609 và Tăng Nhất A Hàm, quyển 3, trang 551, Đức Phật dạy
người tu: “Chẳng thà ngủ nghỉ chứ không trong lúc tỉnh táo tư tưởng suy
nghĩ điên đảo. Thà dùng sắt nóng nung vào mắt chứ không do nhìn sắc đẹp xấu mà
khởi loạn tưởng, thà dùng dùi nhọn đâm thủng lỗ tai chứ không vì nghe tiếng hay
dở mà khởi loạn tưởng, thà dùng kìm nóng kẹp đứt lỗ mũi chứ không do ngửi mùi
mà khởi yêu ghét, thà dùng dao bén cắt lưỡi chứ không nói lời ác, thà dùng lá đồng
nung đỏ cuốn quanh người, chứ không khởi nghĩ dâm dục”.
Trang 550 Đức Phật dạy: “Nếu người trì giới giảm, người ác nổi lên, khi ấy
chính pháp dần dần suy đồi, phi pháp tăng lên, chúng sanh trong ấy sẽ rơi vào
ba đường ác (Ngạ
qủy, Súc sinh, Địa ngục). Nếu người trì giới đầy đủ, người phạm giới giảm xuống,
chính pháp hưng thịnh, chúng sinh trong đó khi mạng chung đều sinh lên cõi Trời,
cõi Người”.
IV). VẤN
ĐỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI TU:
Giới luật
của Đức Phật đặt ra chỉ có mục đích làm lợi cho người giữ giới thực hành, người
tu mau đạt qủa vị tốt đẹp; giới luật của Đức Phật không đặt kỷ luật trừng phạt người
không tuân theo, có thi hành hay không là tuỳ tâm tự liệu lấy, và cũng tuỳ theo
đó mà được hưởng phúc đức hay phải nhận qủa báo khổ. Như trong thế gian: sống
chừng mực, lương thiện được nhiều người khen ngợi, còn người sống buông thả,
không kỉ cương, gây rối, lừa bịp, bị pháp luật trừng trị, và mọi người chê bai.
Đối với
người tu hành, trì giới đầy đủ, sẽ sáng như mặt trăng trong đêm tối giữa các vì
sao. Còn đối với người không giữ giới, sẽ có rất nhiều tai hại như:
Thứ nhất: Những người khác trông
thấy người ấy phạm giới sẽ chê bai, xa lánh.
Thứ hai: Nếu không ai thấy,
không ai nghe người ấy phạm giới, mà sự thực người ấy có phạm giới, người ấy sẽ
tự hổ thẹn với chính mình.
Thứ ba: Nếu người ấy không tự hổ
thẹn, người ấy sẽ chẳng bao giờ tu tới nơi tới chốn được, rút cục người ấy chỉ
quẩn quanh trong luân hồi sinh tử khổ não mà thôi.
Thí dụ một
tu sĩ nam thường hay cùng một nữ nhân chuyện trò, gặp gỡ, đi lại cùng với nhau
nhiều lần, đây có thể gọi là gần gũi; người ngoài sẽ nghi ngờ, đặt dấu hỏi tại
sao hai người này thường giao tiếp gặp nhau? Dù người đó có chân thật tới đâu
đi nữa, nhưng Đức Phật đã cấm tiếp xúc riêng lẻ giữa nam và nữ; Đức Phật ngăn ngừa
như thế để tránh “lửa gần rơm lâu ngày sẽ bén”, cũng như lửa gần xăng sẽ
dễ bùng cháy. Người tu hành không được tiếp xúc nhiều ngay với cả người cùng
phái, bớt sự này sự nọ, phải gìn giữ sáu căn là mắt, tai, mũi, miệng, thân và
ý, không cho phóng chạy, không cho dính mắc sáu trần là sắc, thanh, hương, vị,
xúc và pháp; có như vậy tâm mới được bình thản, dễ đi đến thanh tịnh, cho nên
người có tâm dính mắc, tu chẳng ích gì.
Có người nói: “Tại
sao có người tu hành làm các việc giao tiếp xấu xa, có người tu hành chỉ lo làm
việc đời không lo tu, mà không thấy ai nói gì, người ấy vẫn cứ tiếp tục ngang
nhiên như thế?” Câu trả lời là Phật giáo không chủ trương trừng phạt một
ai, nếu biết người kia làm sai, phạm giới, thì chê bai, xa lánh, chứ không trừng
phạt. Vì lẽ đó, người ấy vẫn tiếp tục đường lối của họ, tự làm tự lãnh hậu qủa
là sau khi chết sẽ sinh vào cõi ác; tuy nhiên ngay trong hiện tại, người phạm
giới vẫn có một số người tin theo, đây là vấn đề nan giải, vì những người tin
theo này không thấy người ấy là phạm giới, không thấy người ấy làm sai phạm hạnh
(khuôn phép), nên dù có người khác lưu ý họ vẫn không nghe, và vẫn tin theo ủng
hộ người phạm giới ấy.
Chỉ có điều
là nếu một tu sĩ muốn gần người khác phái, muốn hoạt động việc đời, thì Đức Phật
cho phép cởi áo của người tu ra và mặc áo của người đời, để trở thành người
bình thường trong xã hội. Người ấy lập gia đình, hoạt động ngoài đời như mọi
công dân khác, vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng; nhưng khi người ấy cởi bỏ áo
nhà tu ra, làm người thường, không còn giá trị nữa, vì lời nói của người ấy ít
có ảnh hưởng tới người khác. Bởi vậy, người ấy cố bám víu vào chiếc áo tu sĩ để
lợi dụng chiếc áo phục vụ cho bản thân họ; người ấy sống như con mọt, nếu không
mau mau sám hối sửa đổi kịp thời, tới lúc chết ắt sẽ vào cõi ác, lúc ấy có hối
cũng không còn kịp nữa!
V). VÀI
TRƯỜNG HỢP PHẬT DẠY:
(Còn
tiếp)
Posted by: Tien Do
TRÌ
GIỚI
Toàn Không
(Tiếp theo)
V). VÀI
TRƯỜNG HỢP PHẬT DẠY:
1). HAI
MƯƠI MỐT KẾT:
Trong Tăng Nhất A Hàm, quyển 1, trang 168, Đức Phật bảo: “Nếu người nào có
tâm dính mắc 21 kết là: Giận (sân), làm hao tổn (nhuế hại), ngủ nghỉ (thuỳ
miên), chơi bời (điều hý), nghi ngờ, dữ tợn (nộ), sợ hãi (kỵ), buồn (não), ganh
ghét (tật), đắng cay (tắng), không thẹn với mình (vô tàm), không xấu hổ với người
(vô quý), giả vờ (huyển), gian dối, chống đối (ngụy), tranh giành, kiêu
căng, phóng túng (mạn), đố kỵ, tự cao tự đại (tăng thượng mạn), tham; người này
ắt đọa đường ác chẳng thể sinh cõi lành, ví như áo lông cũ nát lâu ngày dính đầy
bụi, nếu muốn nhuộm màu xanh, vàng, chẳng thể thành được.
Ngược lại,
nếu có người không có 21 kết nêu trên dính mắc tâm, người đó ắt sinh lên Trời,
ví như áo dạ trắng mới sạch không bụi, muốn nhuộm màu nào cũng được”.
2). VÍ DỤ
LOÀI VẬT:
Cũng Tăng Nhất A Hàm
quyển 1,
trang 206, lấy thí dụ về các loài vật để ám chỉ so sánh với người tu, Đức Phật
nói:
1. Kià, tại
sao gọi người ví như quạ?
Như có người ở chỗ
yên lặng, hằng tập dâm dục, làm các hạnh ác, lại che đậy các hành động xấu xa ấy;
giống như quạ bị đói khổ, ăn đồ dơ dáy, rồi chùi mỏ sợ chim khác thấy, nói rằng
con quạ này đã ăn đồ dơ bẩn; người ấy bị các người khác chỉ trích, xa lánh, sau
tự hổ thẹn, hối lỗi, người này giống như quạ.
2. Kià
sao gọi là người như lợn heo?
Nếu có người ở chỗ
vắng vẻ, tập mãi dâm dục, làm các hạnh ác, không cần che đậy hành động xấu xa ấy;
người này ví như lợn heo, hằng ăn đồ dơ bẩn, nằm chỗ thối tha nhơ nhớp, lại còn
lăng xăng với các lợn heo khác; người tập dâm dục và làm các hạnh ác bị người
khác chỉ trích không biết xấu hổ, chẳng hối lỗi, đối với người khác còn cống
cáo khen mình là “Ta đây sung sướng”, đây là người giống như lợn heo,
hãy nên lià xa người này.
3. Kià
sao gọi người giống như lừa?
Như có người xuất
gia học đạo, lại có các căn bất tịnh, theo đuổi vạn mối, sinh các loạn tưởng,
điều ác đủ cả, lại tự xưng: “Tôi cũng là người tu”. Người này ví như con
lừa vào trong bầy trâu rồi tự xưng rằng: “Tôi cũng là trâu”, nhưng xem
hai lỗ tai chẳng giống trâu, sừng cũng không giống, đuôi cũng chẳng giống, âm
thanh cũng khác.
Bấy giờ,
bầy trâu hoặc lấy sừng húc, hoặc lấy chân đá, hoặc lấy miệng cắn; người tu này
cũng lại như thế, các căn bất tịnh, nếu mắt thấy sắc, theo khởi tưởng sắc, rong
ruổi muôn mối, sinh các loạn tưởng, điều ác đến đủ, chẳng thể bảo vệ. Tai nghe
tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp (muôn vật), theo
đó khởi thức tưởng rong ruổi muôn mối, sinh các loạn tưởng. Các điều ác sinh khởi
đủ cả, chẳng thể giữ được ý căn thanh tịnh.
Người có phạm hạnh (Chân tu) trông thấy chỉ trích: “Chao ôi! Người ngu này tựa
như người tu, nếu là người tu, đúng ra không nên như thế”; đây là người giống
như lừa, hãy nên xa lià người này.
4. Người
kia tại sao giống như trâu?
Nếu có
người xuất gia học đạo, giữ gìn sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không cho
rong ruổi theo sáu trần sắc thanh hương vị xúc pháp; tâm ý không loạn động được
thanh tịnh, liền được đến chỗ phạm hạnh (khuôn mẫu). Các bậc phạm hạnh thấy người
kia, ai nấy đều kêu lên: “Mừng bạn đồng học Phật”.
Ví như trâu vào trong bầy trâu, có tai, sừng, đuôi, âm thanh đều đúng là trâu;
các con trâu trong đàn thấy rồi, mỗi con đến liếm đầu mặt; đây là người giống
như trâu, nên làm người học như trâu, mà không nên làm người giống như quạ, lợn,
lừa.
VI). TRÌ
GIỚI CÓ LỢI ÍCH GÌ?
Phật tử thọ
trì giới luật nghiêm chỉnh sẽ được an vui tự tại và được mọi người tôn trọng
coi như một tấm gương sáng để soi; hành giả trì giới trang nghiêm sẽ đưa đến
tâm thanh tịnh, rất có lợi cho hành giả trong khi tu hành; nếu kiếp này chưa thấy
dấu đạo, kiếp sau sẽ đắc quả Bồ Đề thoát vòng sinh tử luân hồi.
Trì giới nằm
trong Lục Độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí huệ,
có một công năng hơn hẳn bố thí một bậc; người bố thí mà không trì giới, không
thể tiến được, vì sao? Vì vừa tạo phúc do bố thí, vừa tạo tội do không trì giới,
tức là vừa tạo phúc vừa tạo tội, thiện ác lẫn lộn đủ cả như thế, làm sao bước
lên qủa Thánh được?
Khi Hành
giả trì giới dẫn đến được tâm thanh tịnh, sẽ phát khởi tâm từ bi hỉ xả, nên khi
thấy người bố thí liền sinh tâm vui vẻ tán thán công đức ấy, như vậy là “Tùy
hỉ công đức bố thí”; hành giả khi hành trì giới luật nghiêm trang, người
khác thấy thế bắt chước, như thế là đã dùng “Thân giáo” để bố thí pháp.
Vì vậy,
trì giới rộng lớn (Ba La Mật) là một phương pháp thần diệu có thể bao gồm cả bố
thí lẫn trì giới, chắc chắn sẽ đưa hành giả tới bờ giải thoát vậy.
Tóm lại,
chúng ta thấy rõ sự lợi ích của trì giới lớn lao như thế, giờ đây chỉ còn một
điều là chúng ta phải quyết định dứt khoát phát tâm dũng mãnh trì giới rộng lớn
(Ba La Mật). Khi phát tâm rồi, phải thực hành cho tới nơi tới chốn, vì học thì
phải hành (học hành), khi đã học rồi phải tu, nếu học mà không tu, cũng như cái
đẫy, cái bồ đựng chữ; tu mà không học thì thiếu sót, tu mà không hành (tu hành)
thì vô bổ, ích gì? ., .
__._,_.___
__._,_.___