Subject: [exryu-ww-vannghe]
CHUYỆN HÀ THỊ CẦU & TRẦN ĐỨC THẢO - Tưởng Năng Tiến
Tưởng Năng Tiến - CHUYỆN HÀ THỊ CẦU & TRẦN ĐỨC THẢO
Tưởng Năng Tiến
“Cộng
sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu
nói vừa ghi. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa
hoè ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, cha nội?
Mà chả chỉ riêng hoa, ở nước ta, cái (mẹ) gì mà không thiếu nên mọi thứ vẫn thường phải phân phối theo tiêu chuẩn – ngoại trừ huân chương, huy hiệu, bằng khen, giấy thưởng… thì mới thừa thôi. Bởi vậy, tôi xin được có ý kiến (hơi) khác với T.T. Thích Trí Quang chút xíu: “Cộng sản nó chôn sống mình hôm nay, mai nó mang huân chương hay giải thưởng đến để… làm lễ truy tặng!”
Ông Trần Đức Thảo là một nạn nhân điển hình
cho cái cách chôn sống (rất) bất nhân như thế – theo như lời của một bà cụ bán nước trà ở đầu khu tập thể Kim Liên, nơi mà triết gia
của chúng ta cư ngụ cho đến gần lúc cuối đời:
Trong khu nhà B6 đằng
kia cũng có một ông tên Thảo, nhưng lôi thôi nhếch nhác quá mấy anh công nhân
móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống
cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp
‘Pơ-giô con vịt’ mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc!
Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở
người…”
Một buổi trưa nắng
chang chang, ông ghé vào quán uống cốc nước chè xanh, tôi hỏi:“Ông đi đâu về mà
nom vất vả thế.. ế.. ế. Ông nói: Lên chợ Hàng Bè mua củi đun. Tôi hỏi: Thế củi
ông để đâu cả rồi? Ông quay lại nhìn cái ‘pooc ba ga’, mặt cứ ngẩn tò te. Chỉ
còn có sợi dây buộc! Củi nả rơi đâu hết dọc đường, chẳng còn lấy một que… Nghĩ cũng tội, già ngần ấy tuổi
đầu mà phải nấu lấy ăn, không vợ, không con… (Phùng Quán – “Chuyện vui về
triết gia Trần Đức Thảo”. Ba phút sự thực, Văn Nghệ, Sài Gòn: 2007, bản
in lần thứ hai)
Nếu bạn thấy những lời lẽ (thượng dẫn) của một
bà cụ bán nước trà vô danh chưa đủ trọng lượng thì xin nghe thêm đôi câu nữa,
của một chứng nhân thế giá hơn – luật sư Trương Như Tảng:
Ông không bị tù hay hành hạ thân xác, nhưng
công an bao vây, cô lập ông không cho ai tiếp xúc… Nếu ông Thảo tiếp xúc với
ai, chẳng hạn một người bạn trên đường phố, thì người đó sẽ bị bắt giữ để điều
tra.
Bề ngoài xem ra triết
gia sống cuộc đời bình thường. Nhưng thực tế ông sống như Robinson Crusoe, hoàn
toàn cô độc, mặc dầu có nhiều người ở xung quanh. Ngay họ hàng thân thích cũng
không được phép nói chuyện với ông. Đối với một trí thức như vậy là một sự tra
tấn dã man.
Ngó bộ ông Trương Như Tảng có vẻ hơi quá lời chút
xíu, chứ nếu Trần Đức Thảo bị “tra tấn dã man” thì làm sao triết gia của chúng
ta sống sót cho mãi đến năm 1991 –năm mà ông được nhà nước tha (tào) và cho trở
lại Paris, theo như tường thuật của tác giả Minh Diện:
Bảy mươi tuổi Trần Đức
Thảo mới quay về chốn xưa. Tiếc thay thời huy hoàng của ông đã qua lâu rồi. Rất
ít người còn nhớ tới ông. Suốt 40 năm ông cô đơn bên trời Nam, giờ lại cô đơn
bên trời Tây. Khi người ta đã bỏ lỡ cơ hội thì khó mà tìm lại được.
Quay lại Paris, Trần
Đức Thảo sống tạm bợ trong căn phòng xép trên tầng 5, nhà khách của Đại sứ quán
Việt Nam. Nhà báo Nguyễn Đức Hiền tả lại cảnh sống của ông như sau: “Một ông
già ở độ tuổi cổ lai hy, khoác chiếc áo cũ màu tím dài chấm gót, bưng bê lỉnh
kỉnh mọi thứ xoong chảo, chai lọ leo lên, leo xuống hàng trăm bậc thang tự lo
lấy bữa ăn cho mình. Ông già ấy cứ hành trình chừng mười bậc thì dừng lại, tựa
người vào hành lang đứng nhắm mắt, há miệng thở như thổi bễ.”
Một chiều mùa Hè năm
1993, ông già ấy gục xuống tại bậc cầu thang, không bao giờ gượng đứng dậy được
nữa… Năm 2000, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về
Khoa học Xã hội.
Thiệt là… có hậu!
Ít nhất thì những ngày tháng cuối đời “của ông
già ấy” cũng (có vẻ) đỡ đoản hậu hơn cuộc sống lê lết của… một bà già khác,
cùng thời, bà Hà Thị Cầu. Nhân vật này tuy có kém danh giá hơn ông Thảo (chút
đỉnh) nhưng cũng nổi tiếng như cồn, ít ra là ở phạm vi quốc nội. Trên báo Bắc Giang, phát hành vào ngày 1 tháng 4 năm 2009, một
nhà văn Việt Nam đã viết những dòng chữ chí tình như sau về người nghệ sĩ này:
Với bà, tên tuổi, sự
nghiệp tôi đã đọc quá nhiều trên báo chí, một nghệ nhân lớn, một người hát xẩm
cuối cùng của thế kỷ, một tài sản dân gian quý báu, một nghệ sĩ nổi tiếng không
chỉ trong nước mà ở thế giới…
Và tôi choáng váng vì không thể ngờ, một nghệ
sĩ tên tuổi như vậy, báo chí ngợi ca như vậy, các cấp quản lý thay nhau tôn
vinh như vậy lại đang có cuộc sống khó khăn đến không tin được. Ngôi nhà bà Hà
Thị Cầu bé tí nằm cận kề trụ sở UBND xã Yên Phong. Ngôi nhà bé thế lại còn chia
làm hai, một nửa cho bà Cầu ở, nửa còn lại là nhà thờ họ. Phần ở của bà lại
chia đôi, phía ngoài đủ đặt cái giường đôi, bộ bàn ghế uống nước, phía trong là
nơi bà ngủ, diện tích cũng chỉ nhỉnh hơn cái giường một chút xíu.
BBC, ngheđược vào hôm 3 tháng 3 năm 2013, lặng lẽ và buồn bã đi tin:
“Nghệ nhân được coi là linh hồn của hát xẩm Việt Nam với gần 80 năm tuổi nghề, bà
Hà Thị Cầu, đã qua đời tại Yên Mô, Ninh Bình…” Hung tin này đã khiến cho Nguyễn Quang Vinh đùng đùng nổi giận:
Một nghệ nhân tài hoa
như thế, cống hiến cho đất nước như thế, được coi là “báu vật nhân văn” của
quốc gia như thế, đã từng đào tạo, truyền nghề cho biết bao nghệ sĩ, đã nổi
tiếng không chỉ trong nước mà còn với nước ngoài…
Nhưng suốt đời nghèo
đói, suốt đời khổ sở, túng thiếu như kẻ ăn mày. Báo chí lên tiếng, dư luận lên
tiếng, những nghệ sĩ tâm huyết thay bà gõ cửa khắp nơi nhưng mặc nhiên không ai
đoái hoài, và bà – nghệ nhân Hà Thị Cầu, cho tới lúc nhắm mắt, vẫn trong nghèo
đói…
Leo lẻo ca ngợi, leo
lẻo thuyết giảng, leo lẻo leo lẻo… ở mọi cấp để rồi bỏ rơi một nghệ nhân lớn,
cay đắng hơn, còn lợi dụng tài năng, tên tuổi của bà để trục lợi cả tiền, danh
tiếng, uy tín của cá nhân mình.
Thôi nhé, bà mất rồi,
im cả đi, đừng lại ngoạc mồm “bà mất đi là địa phương mất đi một tài năng, đất
nước mất đi một nghệ nhân lớn… vô cùng đau xót”. Câm đi…
Tôi e rằng nhà văn của chúng ta không hiểu
biết về đường lối, cũng như chính sách, của Đảng và Nhà nước (rõ ràng và rành
mạch) như nhà nghiên cứu âm nhạc Trần Quang Hải. Trong bản tin của BBC (thượng dẫn) ông Hải khẳng định:
Cũng giống như ca trù,
hát xẩm đã bị ‘mất đi’ trong 50 năm vì chính quyền không coi trọng những tài tử
dân gian… hát xẩm bị coi là “hạ cấp” và chính quyền không muốn thấy những người
hát xẩm lang thang ngoài đường.
Nói cách khác là bà Hà Thị Cầu đã bị chính
quyền chôn sống từ lâu nhưng mãi đến tháng Ba năm nay mới (chịu) trút hơi thở
cuối cùng. Ngay sau đó, báo Thể thao Văn hoá (số ra ngày 06 tháng 3 năm 2013) đã có… tin
vui:
Tới dự đám tang nghệ
nhân Hà Thị Cầu, ông Vương Duy Biên – Thứ trưởng Bộ VH,TT&DL– chia sẻ tâm
nguyện cần đề nghị truy tặng cho bà danh hiệu NSND… Thời gian tới, Bộ
VH,TT&DL sẽ xúc tiến thực hiện việc này.
Thiệt là tử tế hết sức!
Theo Wikipedia: Năm 1977 bà Hà Thị Cầu là tác giả của bài Theo Đảng trọn
đời. Tôi sợ rằng vì mù
chữ, không đọc được Đề cương văn hoá Việt Nam, nên (có lẽ) mãi cho đến
khi nhắm mắt người được coi là “báu vật nhân văn
sống của Việt Nam” vẫn
không biết rằng toàn Đảng không ai thiết tha hay mặn mà gì lắm với tình cảm (thắm
thiết) mà bà đã dành cho nó.
Những người “hát xẩm bị coi là hạ cấp,” đã
đành, thế còn triết gia thì sao? Giới người này ở bên nước bạn, cũng như ở nước
ta, cả hai Đảng đều coi họ không bằng… cục cứt!
Và nói nào ngay, đối với Đảng thì giới người
nào cũng vậy – bất kể là nông dân, công nhân, thương nhân, hay trí thức. Tất cả
đều chỉ là phương tiện, được sử dụng tùy theo lúc mà thôi.
Sau đó đều bị mang chôn sống ráo. Nhà nước đợi
cho đến khi họ tắt thở sẽ mang bằng khen hay giải thưởng đến làm lễ truy tặng.
Những cái lễ này, cũng tựa như những tấm giẻ lau, dùng để lau sạch máu hay nước
mắt (hoặc cả hai) cho nạn nhân của chế độ hiện hành.
No comments:
Post a Comment