From: Ho Dinh
Subject: Ngày Xuân Bàn Chuyện Uống Trà
- MG -
Subject: Ngày Xuân Bàn Chuyện Uống Trà
- MG -
Ngày Xuân Bàn Chuyện Uống Trà
MƯỜNG
GIANG
Ăn Tết xưa nay đã trở thành một ngày hội lớn nhất trong năm của nhân loại.
Riêng dân tộc
VN qua bao đời đã có rất nhiều phong tục cổ truyền rất phong phú như đưa Táo
Quân về trời, dựng nêu đón xuân, cúng giao thừa, mừng Nguyên Ðán,tảo mộ, thăm hỏi,
chúc tung .. nhất nhất đều hàm chứa những ý nghĩa thiêng liêng độc đáo. Trong
giờ khắc năm cũ sắp tàn, mọi nhà cài then chặt cửa để sửa soạn đón năm mới
trong sự xum họp đầm ấm của gia dình.Nhưng chính trong giây phút đợi nàng Xuân
bước vào thềm hạnh phúc , trước bàn thờ tổ tiên thơm lừng hương khói, hoa quả,
bên cạnh cội mai vàng đang ẽo lã mãn khai những cánh non, người trong cuộc trầm
ngâm uống từng ngụm trà nhỏ, nghe hơi ấm thấm tận hồn, để tự ý thức đầy đủ về
đời mình suốt một năm dài truân chuyên hay may mắn và quên đi sự ồn ào từ bên
ngoài.
Có điều chắc chắc rằng không phải là ngẩu nhiên mà nhiều dân tộc trên thế
giới lại thích uống trà, đặc biệt nhất là người Nhật đã tôn sùng cái thi vị
trên thành một thứ tôn giáo lạ lùng gọi là Trà Ðạo ( Théisme) . Riêng các nước
sùng Nho giáo như Trung Hoa, Ðài Loan, VN, Cao Ly.. cùng có một lịch sử và cung
cách thưởng ngoạn trà gần giống nhau và rất lâu đời. Người Anh thường uống trà
vào lúc 5 giờ chiều mỗi ngày. Các bậc thượng lưu trí thức, hàng phú gia quyền
quý uống trà lại càng cầu kỳ và thời gian kéo dài với bốn cô thiếu nữ trẻ đẹp
phục vụ, một cô nhúng chén dĩa vào nước sôi cho chén ấm, cô thứ hai cho trà vào
chén, cô kế đổ nước sôi vào chén và cô cuối cùng đậy nắp rồi bưng trà tới cho
chủ nhân.. chỉ việc nhẹ nhàng mở nắp, hớp một ngụm nhỏ rồi lai đặt chén xuống,
trong lúc đôi mắt lim dim tựa như kẻ mộng du. Nhưng thú vị nhất có lẽ là các
thiền sư, tự rửa chén ấm cũng như nấu nước pha trà và một mình độc ẩm, hay
nhiều nhất cũng chỉ hai ba người, gọi là đối ẩm.. Tóm lại dù uống trà trong
hoàn cảnh nào chăng nửa, thì cái tính chất cao quý của nó là làm cho thế nhân
trở nên tĩnh lặng để chiêm cuộc đời.
1-LỊCH SỬ CỦA TRÀ :
Theo truyền thuyết thì chính Vua Thần Nông khi tuần thú phương nam, vô tình
uống được một thứ lá cây rơi trong nồi nước đang sôi, làm cho tinh thần phấn
chấn sảng khoái nên ông gọi đó là Trà. Một huyền thoại khác kể rằng Ðức Ðạt Ma
Sư Tổ của Thiền phái Thiếu Lâm Tự Trung Hoa, đã ngủ quên trong lúc tọa thiền
nên tức giận tự cắt mí mắt của mình quăng xuống đất và nơi ấy mọc lên một thứ
cây kỳ lạ, hái lá nấu nước uống khiến cho tâm hồn tỉnh táo, được gọi là Trà. Từ
đó trà trở nên thức uống thông dụng của thiền môn.
Gần hơn còn có câu chuyện của một người tiều phu nghèo khó sống ở miền cao tỉnh
Phúc Kiến, bao nhiêu năm vẫn ôm ấp thầm thương trộm nhớ một cô gái làng bên và hằng
mong có tiền để cưới nàng. Ngày nọ lên núi hái củi, anh ta phát hiện một cây
trà có dáng dấp kỳ lạ, mọc trong một kẻ nuí nên vội bứng đem về nhà trồng. Hai
năm sau cây trà lớn, anh vội hái vài lá có màu xanh đen, đem pha nước uống ,
mới ngộ ra đây là một loại trà độc đáo, nên đặt tên là “ Thiết Quan Âm “ vì loại
trà này khi lên men có màu đen như sắt thép và nặng hơn những lá trà thường, cho
ra thứ nước uống thuần khiết như tấm lòng vị tha bác ái của Ðức Phật Bà Quan
Âm. Trà Thiết Quan Âm ra đời từ đó.
Riêng người Nhật thì viết là Trà đã được tìm thấy bởi một danh y tinh
thông dược thảo, từ niên lịch tương đương với thời Chiến Quốc của Trung Hoa
(300-221 Tr TL). Nhưng đó chỉ là huyền thoại. Theo Trung Hoa sử hiện nay, thì
người Tàu chánh thức biết uống trà vào thời Tam Quốc, nhưng mãi cho tới nhà
Ðường, trà vẫn chưa được trồng và chế biến, thứ trà uống chỉ là loại trà mọc
hoang trong rừng núi, thuần khiết vẫn đươc coi như một vị thuốc bắc để trị bệnh.
Do trên trà mới lưu hành trong giới thượng lưu mà thôi, còn hạng bình dân hầu
như chưa mấy ai biết tới.
Về cách uống cũng khác biệt,giữa hai bờ đai giang và nhất là dân du mục
ngoài Trường Thành thì uống trà pha sưả trâu bò, dê ngựa. Cũng căn cứ theo
Ðường Sử, thì chính Trà Tiên của Trung Hoa là Lục Vũ, tự Hồng Tiệm, người đất
Cảnh Lăng, tỉnh Hồ Bắc, tác giả quyển Trà Kinh là người đầu tiên khởi xuớng
phong trào uống trà. Sau này qua các đời cũng có nhiều tác phẩm nghiên cứu về
trà nhưng tựu trung so sánh nổi phải kể tới quyển “Tục Trà Kinh “ của của Lục
tào Xán người Tô Châu, thời Khang Hy, viết với nhiều tài liệu, dẫn chứng và
phẩm bình về Trà một cách xác đáng. Tại VN, luận về Trà trước kia có tác phẩm “
Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân, về sau Minh Ðức Hoài Trinh và Vũ Thế
Ngọc.. cũng có viết về Trà Kinh. Riêng người Nhật thì có Trà Ðạo của Okakura
Kakuro.. Cũng kể từ đó nối tiếp các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh.. trà trở
thành phổ quát . Nhiều khu vực sản xuất trà nổi tiếng xưa nay như Hồ Nam, Hồ
Bắc, Chiết Giang, Giang Tô, Lãnh Nam, Kinh Tương, Phúc Kiến..
Tại Nga, truyền thống uống trà gắn liền với ấm Samovar. Ðây là loại bình lớn
được thiết kế rất đẹp đẽ, chứa hơn một lít nước sôi ở độ cao. Tại Nga, thời
tiết lạnh lẽo gần như quanh năm suốt tháng, nên uống trà nóng gần như là một
nhu cầu cần thiết vì với người Nga thì Trà có tác dụng giữ ấm cơ thể nhất là
tim. Bởi vậy trong mọi nhà tại Nga, hâu như trong chiếc bình đặc biệt Samovar
luôn đầy nước trà nóng và những hộp đường viên, mọi người lúc đó quây quần bên
ấm trà nóng, để những viên đường vào giữa hàm răng và thong thả nhắm nháp từng
ngụm trà thơm ngát, nóng hổi, trong khi bên ngoài giá lạnh mưa rơi trùng trùng.
Tại Morocco, Châu Phi : Theo quan niệm, tràợ ở đây có tác dụng cầm chân khách
trong các dịp có cơ hội gần gũi hay quây quần bên nhau. Hầu như người Morocco
thường uống một loại trà xanh thương thặng và theo tập quán , thì người con
trai trong gia đình phụ trách việc pha chế trà, ngoại trừ có trường hợp đặc
biệt, vợ của chủ nhà vì tình thân của bè bạn, trực tiếp mời chồng mình tự tay
pha tra đãi khách. Thường thì phải có hai bình trà sẳn sàng . Pha trà bằng ba
loại nước với độ sôi khác nhau và được rót trong những chén nhỏ xinh sắn, đặt
trên chiếc khay bằng kim loại có chạm khắc nhiều hình ãnh rất đep. Theo nghi
thức, Trà được châm đến tuần thứ ba thì chấm dứt buổi tiệc.
Tại ANH : Theo sử liệu,thì chính Nữ Công Tước Bedford , tác giả quyển “ Năm giờ
uống trà” rất được người Anh ưa thích. Bà cũng là người đã tạo ra phong trào uống
trà vào buổi chiều tại xứ sương mù. Ngày nay tới nhà bất cứ một người Anh nào,
đặc biệt là giới trung và thượng lưu trí thức, ai cũng phải lóe mắt trước sự
khéo tay và vô cùng thẩm mỹ của các bà nội trợ , trong việc trang trí bàn uống
trà với khăn phủ bàn có bình hoa tươi và bộ bình trà làm bằng bạc và sứ men
Trung Hoa. Người Anh từ lâu có tập quán đãi khach loại Trà sữa hay Trà Chanh.
Cũng theo sữ liệu, thì vào thế kỷ XVIII, khi Anh chiếm Hồng Kông và nhiều thành
phố lớn khác tại Trung Hoa như Thiên Tân,Thượng Hải, Quảng Châu.. đã du nhập
tập tính uống Trà của người Tàu về bản quốc. Hằng tháng để kịp có Trà, nhiều
cuộc đua gọi là Ðua Trà, bằng thuyền buồm, chở các loại trà quý từ Trung Hoa
sang Luân Ðôn rất hào hứng.
Tại VN : Mỗi năm xuất cảng trên 10.000 tấn khắp thế giới, được trồng nhiều loại
trên một diện tích 89.000 hecta tại Sơn La, Yên Bai, Lào Kai,Tuyên Quang,Thái Nguyên,
Nghệ An và Lâm Ðồng.
Tại Hoa Kỳ : Hằng năm theo thống kê, thì dân chúng xứ Cờ Hoa tiêu thụ cả chục
triệu tấn trà,bằng mọi hình thức như uống nóng, lạnh, trà nguyên chất hay ướp
các loại hoa, uống không hay uống chung với đường thêm mật ong, sữa,kem, chanh.
Người Mỹ uống nhiều loại trà, từ thứ gọi là Decaffeinated Tea hoặc các loại trà
lá, kể cả dược trà bằng lá ổi, lá hồng để trị bệnh và làm tan mỡ, gọi là Herbal
Tea.
Tại NHẬT : Việc uống trà tại Nhật đã có từ lâu đời và theo thời gian đã trở
thành một triết thuyết của Thiền giới. Ðây là một hình thức huấn luyện các Trà
Ðồ hướng về nẽo Thiền lý, đi tìm chân, thiện, mỹ trong thế giới tĩnh tại và tự
nhiên của tâm hồn. Ngày nay Triết Lý Trà của người Nhật đã trở thành một nghi
thức chính thống của một tôn giáo gọi là Trà Ðạo, hình thành từ thời kỳ Mạc Phủ
Tướng Qaân ở thế kỷ thứ XV. Nơi uống trà gọi là trà thất làm bằng gổ, nằm giữa
một khu vườn đầy lá hoa có các lối nhỏ trãi đá sỏi dẫn tới.Những trà đồ trước
khi bước vào trà thất đã tự mình rũ bỏ hết cái thế giới ồn ào bon chen, nhập
vào sự tĩnh lặng của tâm hồn, quên hết kể cả cái ta phiền toái đáng phiền.
2-CÁC LOẠI TRÀ :
Cây Trà có tên khoa học là Camelia Sinencis , là một trong những thực vật thuộc
Họ Theacae, lá xanh tốt quanh năm và hoa thì màu trắng. Sau năm năm, cây Trà
được coi là trưởng thành và cho hoa lợi liên tiếp trong hai mưoi lăm năm hay
lâu hơn nữa tuỳ theo sự chăm sóc và tưới bón của nhà nông. Thông thường cây trà
có độ cao tới hàng chục thước nhưng để tiện dụng cho phu hái trà, người ta phải
cắt tỉa thường xuyên để thân cây đạt độ cao tối đa từ 1-1,50m. Riêng những cây
già thì cắt ngang thân để mầm non nẩy chồi mới và theo phương pháp này, trà đạt
tuổi thọ hơn một thế kỷ là sự thường.
Ðể bảo quản tốt vườn trà, thường các cây bị sâu thì phải nhổ bỏ vì trà kỵ
thuốc trừ sâu rầy, cũng như không tốt đối với loại phân hoá học, mà chỉ thích
ứng với loại hửu cơ hay bã đậu nành. Mùa hái trà thường vào tiết thanh minh vì
thời gian này, mùa đông đã đi vắng, khắp nơi nàng xuân trở về với vạn vật trong
lành, khí trời ấm áp, nắng hanh nhè nhẹ đủ cho muôn hoa ngàn lá trong đó có cây
trà xanh tốt, ươm hoa nẩy lộc đầy cành . Ở Trung Hoa cũng như VN, vườn trà
thường được lập trên các vùng đồi thấp, làm thành các bậc thang. Người hái trà
làm việc ngay từ sáng sớm khi những giọt sương mai vừa tan theo ánh thái dương
khẻ rọi. Theo qui định rất nghiêm ngặt, số lương lá trà được hái tùy theo loại,
chẳng hạn như trà xanh thì ngắt hai lá, còn trà Ô Long tới ba lá to và một
búp..
Trà đem về hong ngoài trời cho héo sau đó đem ủ, sấy và biến chế làm trà sống. Ngoài
ra bên Tàu còn có những vườn trà cấm được công an canh phòng cẩn mật, chuyển
sản xuất trà quý cho các Hoàng Ðế đỏ tại Tử cấm Thành ở Bắc Kinh. Tại Tây Hồ,
Hàng Châu nơi chuyên sản xuất trà Long Tỉnh, mùa trà kéo dài từ tháng 3-10, mỗi
cây hái mỗi kỳ độ 20-30 lần và thời gian cách nhau 10 lần, mục đích hái lá trà
toàn búp non. Tóm lại xưa nay, người Tàu có bốn vùng sản xuất trà khác nhau như
TRÀ XANH trồng tại Giang Bắc ( phía tả ngạn sông Hoàng Hà) và Giang Nam ( vùng
giữa Hoàng Hà và Dương Tử). Lĩnh Nam ( Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng Ðông, Quảng
Tây) có trà Ô LONG và Vùng Tây Nam (Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên.. chuyên sản
xuất TRÀ ÐEN và TRÀ BÁNH có nước màu tía đỏ.
Tổng kết các loại từ trà lá, trà búp, trà xanh, trà đen, trà bột, trà hạt,trà
cám, trà mộc.. tới trà uớp hoa.. nay có tới hơn 1000 loại, nếu không phải là
người sành điệu thì dễ gì phân biệt. Giống như Rượu các loại, trà ngon hay dở
đều tuỳ vào cách ủ ( Oxidation) và thời gian lâu hay mau., để có hương vị và
màu sắc mong muốn. Các loại trà Nhật, Long Tỉnh, Bích Loa Xuân.. là loại trà
xanh ủ ngắn hạn. Loại trà ủ trung bình có Bạch Hào Ngân Châm, Bao Chủng, Ðộng
Ðình, Thiết Quan Âm, Thủy Tiên, Vũ Di, Ô Long của Trung Cộng, Ô Long Ðài Loan.
TRÀ ÐEN là loại trà hiện nay được các nước Âu Mỹ ứa thích, được ủ trong thời
gian rất lâu.
Thú uống trà hiện nay được phổ quát khắp thế giới và trong mọi tầng lớp, nên
trồng và chế biến Trà đã trở nên một kỹ nghệ quan trọng nhất là tại các nước Á
Châu như Trung Cộng, Ðài Loan, Nhật Bản, VN, Cao Ly.. Trà ngon nổi tiếng là
loại trà đã phải trải qua 10 giai đoạn chế biến, gồm có Trà Bắc-Thái của VN,
trà Sâm Cao Ly, Thiết Quan Âm ( Ly Sơn,Ðài Trung, Ðài Loan), Ô Long (Núi Phổ
Ðà,Trung Hoa, trên một rặng núi có cao độ hơn 2100m) nhưng đặc biệt nhất là trà
Vũ Di, mọc trên một rặng núi rất cao lại vô cùng hiểm trở, người thường không
thể leo tới để hái nên phải cho khỉ hút thuốc phiện rồi luyện tập chúng thành
những chuyên viên hái trà như người.
Ngoài ra theo khách sành điệu cũng như các bậc thầy về trà, thì việc uống
và thưởng thức trà , đều đồng tình rằng muốn đạt được tuyệt đỉnh không những
phải nhờ phẩm chất mà còn phải nhờ loại nước và cách pha trà, như Nguyễn Tuân
thuở sinh thời đã luận là đã phải hứng những giọt sương đọng trên lá sen làm
nước pha trà. Trong bài thơ “ Văn tế kim nhân phúng lộ bàn” của Tiết Phùng, có
kể chuyện vua Hán Võ Ðế thuở xưa , đã cho dựng một cột bằng đồng cao 20 trượng
, trên có một tượng người bằng vàng đưa tay hứng sương dùng làm nước pha trà.
Trong “ Vang bóng một thời” Nguyễn Tuân có giới thiệu về những chiếc ấm đất quý
báu dùng để pha trà, cho tới những chén uống trà nhỏ nhắn đủ loại mà khách sành
điệu gọi là chén tống, chén quân.. Về ấm trà thì hơn trăm năm về trước trên đất
Bắc, đã phát sinh lời truyền tụng “ thứ nhất Thế Ðức gan gà, thứ nhì Lưu Bội,
thứ ba Mạnh Thần. Tất cả các loại trên đều là ấm Tàu, cũng giống nhu ấm Nghi
Hưng nổi tiếng từ lâu đời. Nghi Hưng là một huyện kế cận thành phố Thượng Hải,
thuộc tỉnh Giang Tô, tại đây có một loại đất sét đặc biệt , chứa nhiều thạch
anh, mica, sắt.., dùng để nung các ấm trà không tráng men, gọi chung là ấm tử
sa ( Unglazed-Purple sand), thường có ba màu : tía đỏ, vàng sậm và nâu đen.
Ngoài ra ở đây còn có loại đất sét khác màu trắng và màu xanh nước biển rất
hiếm hoi. Theo sách Trà Kinh của Lục Vũ, thì ấm Nghi Hưng hay Tử Sa là những
tuyệt tác phẩm nghệ thuật của Trung Hoa với đủ loại kiểu cách, dung lượng dùng
để độc ẩm, song ẩm hay quần ẩm, chứng tỏ sự khéo tay và óc sáng tạo độc đáo của
các nghệ nhân nghệ sĩ.
3-NỀN VĂN HÓA UỐNG TRÀ :
Uống trà là một nghệ thuật có tính cách văn hoá và xã hội. Thời gian uống trà
cũng là một thái độ tĩnh tâm và tu luyên, giúp cho cuộc sống thêm thư giản và
quên bớt phiền nảo, bon chen, cho nên xưa nay đã trở thành những nghi thức hay
tôn giáo gần như khắp thế giới.
ÐẤU TRÀ : Theo Thái Vĩnh Chương, một chuyên gia nổi tiếng về trà của Ðài
Loan, thì môn đấu trà của người Tàu, bắt đầu từ đời nhà Tống, sau đó bành
trường sang Nhật Bổn thành môn Ðoán Trà. Ðây không phải là cuộc thi đấu võ
thuật, thuần tuý chỉ có đấm đánh mà thôi, trái lại Ðấu Trà là một cuộc thi đòi
hỏi thí sinh phải có thực tài và sự hiểu biết cao thâm chẳng những về trà, mà
còn phải tinh thông đủ tính, y,lý, đạo làm người khiêm thụ ích mản chiêu tốn,
tức là người khiêm tốn luôn thu được lợi ích còn kẻ tự mãn chỉ chuốc lấy tổn
hại. Tóm lại đấu trà tại Trung Hoa với tất cả các loại trà, còn đoán trà ở Nhật
Bản chỉ với trà xanh mà thôi.
Nước Tàu khi xuân về Tết đến, tiết trời ấm áp êm dịu, làm cho những đồi chè cây
bắt đầu trổ lá non mơn mởn, cũng là lúc khắp nơi người ta nô nức mở hội đấu
trà. Có hai cách thi đấu, thứ nhất là thi pha trà và thứ hai là thi nhận loại
trà . Nói chung thì thi loại nào chăng nửa, thí sinh phải đạt tới mức thượng
thừa về trà, mới mong chiếm giải. Trong cuộc thi, trước hết Ban giám khảo đưa
cho thí sinh xem trươc năm mẫu trà. Sau đó bí mật pha chế thành nhiều chén trà
để các thí sinh nhắm và đấu với nhau, cũng như bình phẩm để phân loại trà theo
các hạng tùng, trúc, mai, lan, cúc. Tuy nhiên điểm then chốt của cuộc thi vẫn
là miêu tả trà qua hương sắc, mùi vị, từ đó cho biết độ lên men, cách sao tẳm,
lá chè già non và xuất xứ của trà. Thời xưa trong các cuộc đấu trà, còn có phần
ngâm thơ, phổ nhạc. Hiện nay tại nước này còn lưu trữ một bài thơ truyền khẩu
về “ Ẩm Trà “ :, đại khái như sau :” một chén trơn môi trơn cổ, hai chén hết
nổi cô buồn, ba chén tuy cạn nguồn thi hứng nhưng vẫn còn ngàn vạn quyển, bốn
chén vả mồ hôi nhẹ, bình sinh mà không bình sự, năm chén gân chén thanh sạch,
sáu chén thông đạt diệu linh, bảy chén như bổng như bay..” Những điều trên cho
thấy cổ nhân nghiện và thích thú trà đến mức nào.
THI PHA TRÀ : Yip-Wai-Man hiện được người Hồng Kông tôn xưng như là một bậc
thầy trong việc thưởng thức và thi pha trà, khi sự kiện này được nâng thành một
nghệ thuật Trước năm 1997, Hồng Kông là nhượng địa của người Anh và từ đó nơi
miền đất này người Anh được nổi tiếng là một trong những dân tộc trên thế giới
thích uống trà nhất. Tuy nhiên về cách pha chế và thưởng thức thì người phương
đông sành điệu hơn và họ đã tạo thành một nền văn hóa trà độc đáo.
Ðối với một số người Hồng Kông sành điệu, thì việc pha trà là cả một nghệ
thuật hay nói đúng hơn đó là thứ đam mê của cả đời người., dĩ nhiên cái giá để
thỏa mãn cái thú đam mê trên là sự tốn kém, khi mua sắm các loại trà nổi tiếng
như Thiết Quan Âm rất mắc mõ, cũng như các loại bình, ấm, chén khay dùng trong
việc uống trà, nhất là tại hòn đảo giàu có này.
Thật ra thi pha trà đã phổ biến từ đời nhà Tống, do các quan lại trong triều,
các nho sĩ và những thương nhân đua tài. Quy luật của cuộc thi rất nghiêm ngặt,
nhiều nhà giàu còn dùng cả những chiếc muổng bằng vàng để khuấy trà. Tại Hồng Kông
ngày nay, cuộc thi pha trà thường được các tổ chức công tư bảo trợ và được sự
tham dự đông đảo của mọi tầng lớp kể cả học sinh, nhằm mục đích trao đổi sự hiểu
biết và các kỹ thuật liên quan tới trà. Ngày 12-7-1997 có 12 thí sinh dã lọt
vào chung kết cuộc thi pha trà tại Hồng Kông, thật là gay go, mỗi người chỉ có
15 phút vừa để pha ba lần trà. Sau đó là cuộc sát hạch về kiến thức, lịch sữ và
triết lý trà. Ðiểm chấm để xếp hạng căn cứ vào bốn yếu tố như hương vị trà, kỹ
thuật pha chế, bộ đồ trà và phong độ của thí sinh. Hội đồng giám khảo gồm 10 chuyên
gia về trà ở Hồng Kông, Nhật Bản, Ðài Loan, Trung Cộng và Tân Gia Ba. Có ba
giải đồng hạng nhất với tiền thưởng và các tài vật trị giá tới 68.000 tiền Hồng
Kông, hạng nhì 38.000 và hạng ba 18.000. Theo chuyên gia Yip thì người Hồng
Kông đam mê trà thường pha chế theo cách tổng hợp giữa Trung Hoa và Anh. Riêng
những người già thì sau khi uống trà xong, họ ăn luôn xác trà gọi là rau đắng. Ngoài
ra người Hồng Kông còn xào lá trà với gừng và hành tươi làm món súp trà. Tóm
lại trà đã trở thành một triết lý sống tại đây và dã có nhiều câu lạc bộ chuyên
về trà ra đời với đông đảo hội viên. Cũng đã có một nhà bảo tàng chứa đủ tài liệu
cùng các vật dụng liên quan tới trà.
TRÀ LỄ, BƯỚC ÐẦU RÈN LUYỆN SỰ KHỔ HẠNH TẠI NHẬT : Người Nhật gọi nghi lễ dùng trà là
Chanoyu, ca tụng cái đẹp giữa sự hài hoà từ thiên nhiên cùng tính khắc khổ của
con người. Ðây là trà đạo và đối nhiều phụ nữ Nhật cũng là một nghề
nghiệp chuyên môn khổ luyện mới đạt được vì những động tác của trà lễ là một hệ
thống chặt chẽ, song hành với cách ăn vận bộ quốc phục Kimono truyền thống cùng
cách cắm hoa. Trước khi hành lễ, các đệ tử phải cúi đầu sát đất để chào một cây
quạt đặt ngay ngạch cửa, vì vật này tượng trưng cho thanh kiếm của các võ sĩ
đạo ngày xưa, đặt trước trà đình khi hành lễ.
Theo Nhật sữ thì chính một thiền sư của Trung Hoa tên Eichu đã mang trà đạo vào
nước này từ thế kỷ thứ XV. Suốt bao thế kỷ, trà đạo chỉ dành cho nam giới, qua
các thành phần tu sĩ, qúi tộc, thương nhân cùng chiến binh. Mãi tới thời Minh
Trị Thiên Hoàng mới được mở rộng cho nử giới nhưng đồng thời cũng bị đe dọa
trước sự hội nhập của nền văn minh cơ khí Tây Phương.
Ngày nay qua cuộc sống bon chen từng giờ để kiếm sống và đoạt vị, nam giới Nhật
hầu hết không còn thời gian để nghĩ tới trà đạo, mặc dù nó là một môn học bắt
buộc tại các trường Trung Học. Cũng do nghề trà đạo kiếm rất nhiều tiền, nên
luôn có những lớp học riêng tại nhà, đa số do nữ nhân giảng dạy, học viên cũng
được tuyển chon theo quy luật truyền thống và rất hạn chế, nhằm bảo đãm phẩm
chất của trà đồ khi ra đồi hành đạo.
Tuy nhiên dù muốn dù không, đỉnh cao của trà lễ vẫn còn nằm trong tay nam
giới. Ðó là những đại danh sư, có thẩm quyền trong việc cấp bằng tốt nghiệp môn
Chanoyu cho giáo viên, hầu hết đều ở Tokyo, bằng một giá cắt cổ. Có vậy những
người tốt nghiệp mới được phép hành nghề. Ðiều cũng đáng vì các đại danh sư
hiện nay toàn là hậu duệ của Tổ sư môn Chanoyu, từ thế kỷ thứ XV là Sen Rikyu .
Ông sống vào thế kỷ XVI, phục vụ cho lãnh chúa lừng lẫy lúc đó là Toyotomi
Hideyoshi, người đã dựng lên một trà đình ngay tại chiến trường với các nghi
thức trà lễ, giống như thuở trước, Trương Lương dùng tiếng sáo đánh tan quân
của Bá Vương tại Cai Hạ. Ở đây đich quân cũng xao xuyến và nản lòng trước hương
vị của trà. Năm 1585 , lãnh chuá Hideyoshi được Thiên Hoàng bổ nhiệm làm tể
tướng , nên ông này lại cử thiền sư Sen Rikyu làm chủ tế buổi trà lễ cho nhà vua
tại một trà đình xây bằng vàng . Nhưng sau đó không hiểu vì lý do gì, lãnh chúa
Hidoyosho bị tẩu hỏa nhập ma và kết tội Rikyu đã đầu độc, nên bắt thiền sư phải
tự xữ bằng cách mổ bụng chết.
Tóm lại khi mọi người bước vào thế giới tĩnh lặng của trà lễ, thì họ chỉ còn là
những chiếc bóng đã tự rũ bỏ lại bên ngoài tất cả. Trong suốt thời gian thiền vị,
bên bình trà bột xanh, các trà đồ trong tư thế đặc biệt đã thực hiện được cái
đẹp thực sư bằng cái triết lý hòa hợp giữa chân, thiện, mỹ thuần khiết. Thật
vậy trong trà thất cô tịch, bên ngoài các đoá hoa anh đào đang lao xao đâm chồi
dưới bầu trời lạnh băng tuyết phủ của mùa đông, thế nhân như thoát tục giữa lúc
nhắp từng ngụm trà màu hổ phách nóng hổi, đựng trong các chén sứ trắng tinh
xinh xắn, khiến cho người quên người, quên đời, quên hết dục vọng mà đắm mình
trong không gian và tâm hồn tĩnh lặng như mặt nước hồ thu lúc yên bình.
Với người Nhật , trà đạo là một tôn giáo không có giới hạn, hận thù mà là một
cách tu luyện khổ hạnh của triết môn thần học về thực hành, tạo tinh không đối
xứng trong trí tưởng , gần giống như thiền học, qua nghệ thuật linh cảm, nên
rất hợp với phụ nữ Nhật trong thế giới xô bồ hiện tại -/-
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
Vang bóng một thời cuả Nguyễn Tuân.
Trà Tàu và ấm Nghi Hưng của Nguyễn văn Chính
Liên hiệp báo viết về trà.
The South China morning Post và HongKong
Standard tháng 2-1997
World & Worlds tháng 12/2001
Géo tháng 5/1995
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2013
Mường Giang
No comments:
Post a Comment