Bánh chưng, bánh dày, Đạo lý vuông
tròn
Nhân ngày Tết sắp đến, Anh Nguyễn
Khang cống hiến cho chúng ta một bài viết thật lý thú về cội nguồn dân
Việt qua "Bánh chưng, bánh dày, Đạo lý vuông tròn.
Chân thành cám ơn anh Nguyễn
Khang và chúc Anh va tất cả bạn hữu một năm mới nhiều sức khoẻ và an bình/Lê
Phú.
---------------------------
Nhân Tết Giáp Ngọ 2014.
Phân giải Đạo Lý Việt
qua sự tích “Bánh Chưng, Bánh Dày”
Dẫn nhập:
Sự tích “Bánh chưng, Bánh Dày” từ thời
vua Hùng Vương thứ 18 cho tới ngày nay, đã là người Việt thì ai ai cũng
nhớ vì mỗi dịp xuân về tết đến, nhà nhà đều có bánh chưng làm vật phẩm dâng lên
ban thờ Tổ Tiên cúng các Cụ. Và từ xưa cụ đồ VN đã để lại trong nhân gian câu
đối tết như sau:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây Nêu, tràng pháo, Bánh Chưng Xanh”.
Vì vậy, kẻ hạ không cần thiết phải
viết lại truyện tích trong bài viết này, chỉ xin tóm tắt cái đại ý của sự tích
“Bánh Chưng, Bánh Dày”, có người còn gọi là “Tiết Liêu truyền kỳ”.
Đại ý truyện như sau:
(Thời điểm lịch sử của
Tiết Liêu còn gọi là Lang Liêu truyền kỳ có nhiều huyền thuyết khác nhau. Tuy
nhiên trong bài phân giải này không chú ý tới thời điểm của lịch sử mà chỉ muốn
nêu lên cái “Đạo Lý Vuông Tròn” qua biểu tượng “Bánh Chưng, Bánh Dày”).
Vua Hùng Vương thứ 17 có
năm vị Hoàng tử. Ngài muốn tìm người thừa kế ngôi vị, nhưng phân vân không biết
lựa chọn ai cho xứng đáng nên nảy ra ý định thử thách các hoàng tử để tìm người
có đủ đức tin mà trao ngôi báu. Vua cha bèn triệu tập các Hoàng tử cùng các
quan đương triều, rồi phán rằng: Ta muốn tìm người thừa kế ngôi vị sau này,
nhưng trong năm vị Hoàng tử, Ta khó định quyết nên Ta ra một điều kiện cho năm
Hoàng tử là:
Nếu cuối năm tới ai mang
tới dâng lên cho Ta những tài vật hiếm qúy nhất trên đời, thì Ta truyền ngôi
báu cho người đó.
Thế là một cuộc chạy đua
giữa các Hoàng tử, người thì dẫn lính tráng lên rừng, xuống biển lùng bắt các
thú rừng hiếm qúy, kẻ thì đi khắp thiên hạ sang các nước láng giềng lùng mua
các trang sức qúy kim vật phẩm cực hiếm mong ngày thi tuyển sẽ được Vua Cha hài
lòng lựa chọn. Riêng Hoàng tử Tiết Liêu vì là con trai út lại là con trai của
bà thứ Phi, nên hai mẹ con bị trục xuất ra khỏi Kinh thành về làm thứ dân sống
tự túc nơi quê mùa, không đuợc hưởng bổng lộc của triều đình. Do cảnh nghèo thế
cô nên Tiết Liêu rất lo buồn vì nghĩ mình không thể tranh đua với các anh, tuy
không muốn tranh ngôi báu, nhưng lệnh Vua Cha đã ban xuống thì phải thực thi đi
tìm vật qúy hiếm dâng lên, nếu không sẽ bị tội khinh quân. Lòng day dứt khôn
nguôi không biết xoay sở ra sao. Một đêm nọ, chàng nằm mơ thấy ông Bụt hiện
xuống mách bảo cho cách làm hai loại bánh gọi là “Bánh Chưng, Bánh Dày” dùng
những nguyên liệu sẵn có như gạo nếp. đậu xanh, thịt heo, cùng với các vật liệu
trong vườn như lá chuối, lạt tre và củi đun mà làm thành vật phẩm dâng lên Vua
Cha. Hai loại bánh này từ trước đó trong dân gian cũng như ở cung đình chưa hề
có, và chưa ai biết làm.
Được
ông Bụt xuất hiện trong giấc mơ mách bảo, Tiết Liêu cũng chẳng còn cách nào lựa
chọn trong hoàn cảnh nghèo túng và thiếu phương tiện quyền thế so với các vị
hoàng tử đàn anh của mình, nên chàng quyết tâm làm theo lời mách bảo của ông
Bụt.
Thời
gian tới hạn mang vật phẩm về Triều dâng Vua Cha. Các hoàng tử đàn anh đem tới
dâng lên Vua Cha vô số các vật phẩm vô cùng qúy giá và hiếm có trên đời, Các
Quan đương triều thấy Vua hài lòng nên cũng hết sức vui vẻ hy vọng những vị
Hoàng tử mà mình phụ tá sẽ được thừa kế ngôi báu. Riêng Hoàng tử Tiết Liêu với
cách ăn mặc giản dị bình dân dâng lên Vua Cha một mâm Bánh Chưng, một mâm Bánh Dày
trông rất thô lậu, khiến các Quan trong triều nhìn thấy không nín được tiếng
cười chê, khinh mạn. Nhưng đối với Vua Cha, Ngài thấy ngạc nhiên với mâm bánh
lạ mắt, nên ăn thử, thấy món bánh này quá ngon lạ miệng nên khen hết lời và ban
cho mọi người trong ngày hội được ăn thử và ai ai cũng tấm tắc khen ngon. Vua
Cha tuyên bố hai mâm bánh của Hoàng tử Tiết Liêu là vật phẩm xứng đáng được
thắng cuộc, rồi tuyên bố người thừa kế ngôi báu là hoàng tử Tiết Liêu, trở
thành vị Vua Hùng Vương đời thứ 18.
Phân giải:
Tại sao Hoàng tử Tiết Liêu được Vua Cha truyền lại ngôi báu cho chàng?
I- Cách giải thích vốn có từ
xưa nay:
1) Theo như tích truyện, thì
Vua Cha ăn thấy khoái khẩu nên mới truyền ngôi báu.
2) “Bánh Chưng, Bánh Dày”
biểu tượng cho tinh thần Tự lực tự cuờng là biết sử dụng nguyên vật liệu nội
địa. Hợp với cách trị dân mà Vua Cha đang áp dụng và mong muốn tìm người con
nào thấu triệt điều đó.
II- Cách phân giải theo đạo lý
Bách Việt:
Dâng lên Vua cha hai biểu tượng “Bánh Chưng, Bánh Dày”, thực ra Hoàng tử
Tiết Liêu đã dâng lên Vua Cha một kế sách trị quốc an dân. Hiểu được điều này
Ta mới thấy vị Vua Hùng Vương thứ 17 là một vị Minh Quân đáng kính, và Hoàng tử
Tiết Liêu xứng đáng được Vua Cha tuyển lựa, Ngài trở thành vị Vua đời Hùng
Vương thứ 18. Và từ đó dân Việt coi ngài là một giòng Tổ của mình, như hiện có
Đền thờ Ngài ở mọi nơi có người Việt sinh sống.
Vậy Kế sách ấy thể hiện
như thế nào?
*- Bánh
Chưng:
- Biểu tượng cho Địa, là hình vuông theo chữ Điền vì con người trong đời sống hàng ngày và tới khi chết đều sử dụng các dạng hình có góc vuông như những mảnh ruộng (bờ vừng, bở thửa) sở hữu điền địa, nhà ở (điền trạch) cũng theo dạng có góc vuông, giường nằm, tấm phản, cái bàn v.v… và khi chết thì quan tài hay hố huyệt đều có dạng góc vuông.
Hình Vuông bốn cạnh bằng
nhau như chiếc Bánh Chưng thể hiện tính lý công bằng, bình đẳng, nếu phải phân chia
thành từng phần (phân bổ quyền lợi cho đại chúng) mà vạch những
đường thẳng xuyên qua Tâm điểm của hình (dụng Tâm mà phân xử) thì
không bao giờ xảy ra tình trạng bất bình đẳng, có nghĩa là có sự bảo đảm mọi
phần đều bằng nhau. Đó là cái lý công bằng và bình đẳng.
- Dùng
bốn cái lạt tre (tượng trưng cho bốn phương trời đông, tây, nam, bắc)buộc
ngoài cái Bánh Chưng tạo ra 9 cung vuông:
- Chín Cung trên mặt ngoài
lá bọc của Bánh Chưng còn thể hiện sự hình thành mộtquẻ Bát Quái vốn có trên mu Rùa (Thần Quy) gắn liền với lịch sử
chống ngoại xâm của Tộc Việt như ta có tích về Nỏ Thần Kim Quy, Hoàn Kiếm truyền kỳ (di tích Cổ thành An Dương
Vương ở Vĩnh Phúc, Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội bây giờ) .
- Chín cung đó còn thể
hiện về hình thái của vũ trụ như : Trời thì có Cửu Thiên, Địa ngục thì có Cửu tuyền, ngôi
Vua có cửu trùng, dòng Tộc thì có Cửu Huyền, số học thì tới số chín (cửu) là
cao nhất.
- Cắt
đôi chiếc Bánh Chưng nhìn vào mặt cắt, ta nhìn thấy ba màu khác nhau. Trên cùng
(lớp ngoài) màu
xanh của lá thể hiện tầng Thiên, ở giữa có nhân thịt (thể hiện làNhân), tầng dưới màu vàng của đậu xanh nấu chín (thể
hiện cho Địa). Như vậy ba lớp trong Bánh
Chưng thể hiện ba phần là Thiên-Địa-Nhân hợp lại. Một chiếc Bánh Chưng ngon còn
gọi là Bánh Chưng dền thì điều tiên quyết trong kỹ thuật làm và nấu bánh phải
đạt tới ba thành phần Thiên-Địa-Nhân phải quyện lại với nhau thì hương vị mới
thiệt hấp dẫn, mới là chiếc bánh thơm ngon và đẹp.
Cũng như
trong cách trị quốc an dân phải có đủ ba điều kiện để thành công đó là:“Thiên thời, Địa lợi, Nhân
hòa” phải hợp đủ trong
cách trị quốc. Đó cũng là Nguyên Lý:“Tề gia, Trị quốc, Bình Thiên hạ” của những Minh Quân phải áp dụng
và thể hiện trong tư cách của mình.
Hình vuông nằm trong hình
tròn (Trái đất nằm trong bầu trời, đó là biểu tượng: “Thiên bọc Địa”) nên hình
vuông biểu hiện cho Quy tắc (Thần Kim Quy) hành xử trong mối quan hệ xã hội giữa
người với người hay sự khác biệt các cấp bậc trong thể chế quốc gia. Hình vuông
trong quốc gia chính là bên hành pháp, trong tôn giáo, nhà trường, trong gia
tộc v.v… thì gọi là Gia có gia quy, tôn giáo có giáo quy v.v…Nên trong dân gian
VN thường có câu: “Quốc
có Quốc pháp, Gia có gia quy” là vậy.
Một
điểm nữa là khi cắt chia chiếc Bánh Chưng thì không
được dùng dao hay vật dụng kim loại khác để cắt bánh, vì nếu sử dụng dao mà cắt
bánh chưng thì thất bại vô cùng vì hầu như không đạt được theo ý muốn và bánh
sẽ bị nát nhầu. Nhưng nếu ta dùng mấy sợi lạt tre vốn buộc ngoài chiếc bánh
chưng mà
cắt bánh thì dễ dàng làm sao và theo được ý muốn cắt chia chiếc bánh. Đó là đạo lý cư xử “mềm dẻo” trong mối ăn chia
hòa thuận trong tập thể, chứ không có sự tranh chấp cứng rắn giành giật mà làm
hỏng mối lợi chung. Đó chính là mối quan hệ bình hòa trong dân gian làng xóm
như câu ngạn ngữ: “Bán anh em xa mua láng giềng gần” mà ta vẫn thường nghe rất
thân thương trong ngôn ngữ Việt Tộc.
Cái quy trình 3/9 (Tam
môn, Cửu cấp) của Đạo Việt (biểu thị trên chiếc Bánh Chưng) qua quẻ Quy (Kinh
dịch) được thể hiện trên lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ (Cờ Việt Nam Cộng Hòa). Thực ra hàng ngàn năm
trước quy trình này đã luôn luôn được thể hiện trong các công trình xây cất từ
dân dã làng quê, tới các công trình xây cất đồ sộ như Chùa chiền, Đình Miếu cho
tới các cung điện vua chúa. Đâu đâu ta cũng nhận diện được như nhà ở làng quê
thì đều có ba cửa (cửa chính và hai cửa sổ) Cổng chào lúc nào cũng có tam môn
(cổng lớn với hai cửa nhỏ hai bên). Các bậc thềm khi thấp thì tam cấp (ba
bậc) khi cao thì Cửu cấp (chín bậc), hành lang bậc thềm đi lại ở trong các công
trình xây cất lớn nhỏ thường thấy đều xây theo thứ bậc “Tam cấp rồi cửu cấp”.
Chỗ nơi thờ phượng cũng được gọi như Tam Bảo (Phật Giáo), Ba Ngôi (Thiên chúa
Giáo). Các cổng ra vào nơi thờ phượng cũng xây dựng ba cửa gọi là cổng Tam Quan.
Phát hiện mới gần đây nhất
là người kiến trúc sư xây dựng công trình Tử Cấm Thành Bắc Kinh thời đầu triều
đại nhà Minh bên Trung Quốc, một công trình đồ sộ nhất thế giới cho tới ngày nay
là ông Nguyễn An là người Việt (một nghệ nhân bị cống triều thời đó). Qua sự
phân tích lý giải của vị học giả người Đức ta nhận diện ra Kiến trúc sư Nguyễn
An đã sử dụng trên căn bản các ô hình vuông theo mô hình quẻ Quy (Bát Quái)
trên chiếc Bánh Chưng để thiết kế mô hình Tử cấm Thành theo quy trình 3/9 quy
Nhất (Tam Cửu quy Nhất). Một thiết kế rất ư là phức tạp cho tới ngày nay nhiều
điểm vẫn chưa thể giải mã được.
Là một nô dân bị cùm, bị
nhốt trong trại giam chưa hề biết gì về cái đất nước chủ nô, mà bị buộc phải
dùng tài nghệ cá nhân vốn có ở Việt Nam để trở thành một kiến trúc sư, một công
trình sư bất đắc dĩ hầu giữ lại mạng sống của mình. Ở VN ông Nguyễn An cũng
chưa hề có một công trình đầu tay nào cả, ngoài cái tài nghệ nhân (không rõ
nguồn gốc về tài nghệ gì) thế mà phải nặn óc ra mà thiết kế một công trình vĩ
đại nhất thế giới hồi đó cho tới bây giờ chưa có cái công trình nào sánh bằng.
Điều đó nói nên cái vốn
kiến thức sẵn có trong ông đã thấm nhuần được văn hoá Việt Tộc khi còn sống và
làm việc ở quê nhà. Nay vì sự sống còn của bản thân mà phải vận dụng cái số vốn
kiến thức tiềm ẩn đó cộng với óc quan sát (khi nhìn con dế trong lồng và nghe
tiếng kêu của dế, đây là một trò chơi rất phổ biến của các trẻ nhỏ ở VN) mà
sáng tạo ra những đường nét mới lạ cho đủ đáp ứng với cái diện tích quá khổ
của công trình mà ông phải phụ trách xây dựng. Thật đúng như câu châm ngôn của
Tộc Việt: “Cái khó nó bó cái khôn”. Cho nên ta có thể tự hào mà nói rằng Công
trình Tử Cấm Thành là công trình thể hiện theo đạo lý Việt. Và từ Đạo lý Việt
mà hình thành.
*- Bánh dày:
Bánh dày là hình tượng của
mặt Trời, mặt Trăng (ngày và đêm) đó là chữ Minh明(chữ nôm của nước Việt
thời đó) tức đại diện cho Thiên, là hình ảnh của ngôi vị Minh Quân.
Hình
tròn cũng như hình vuông trong hình học nếu cứ vạch một đường thẳng qua tâm
điểm thì mọi phần chia đều bằng nhau dẫu chia nó thành hàng vạn phần nhỏ cũng
không hề có sự chênh lệch không đều. Đó là Đạo Tâm của Tộc Việt. Trong mọi sinh hoạt đời
sống mà “dụng Tâm
ứng sử” thì
sẽ đạt được cái lý bác ái, thương yêu, bình đẳng, công bằng.
Bánh dày mềm dẻo, chả Quế
thơm ròn vàng ngậy, lá chuối xanh tươi tạo nên cái đẹp hấp dẫn, hương vị quyến
rũ ăn thấy ngon bùi. Ba thành phần “Thiên-Địa-Nhân” quyện chặt lấy nhau tạo nên
thành phẩm tuyệt vời. Đó cũng là biểu lý của Đạo: “Thiên thời, Địa lợi, Nhân
hòa” Điều mà bất cứ một vị Minh Quân nào cũng phải thông đạt điều này thì mới
có thể “Tề gia, Trị Quốc, Bình thiên hạ” được.
Bánh
Chưng, Bánh dày khi bày cỗ làm vật phẩm để dâng lễ vật cúng tế Trời Đất, Tổ
tiên hay biếu tặng giao tế đều phải đi một cặp “Cặp Bánh chưng, Bánh Dày” đó là
biểu tượng một đôi như: Âm-Dương, Vợ- Chồng, Quân-Thần, anh-em, chị-em,
thày-trò, cha-con, mẹ-con, bạn-hữu v.v…Tất cả các mối quan hệ song phương này
luôn luôn “dụng Tâm
ứng sử”
sao cho Vuông-Tròn (Bánh Chưng Vuông,
Bánh Dày Tròn) thì mọi việc được hạnh thông mỹ mãn. Trong dân gian Việt Nam
thường có câu chúc một người Mẹ khi lâm bồn sinh nở thường chúc là: Được “Mẹ Tròn con Vuông” biểu thị cho “Tâm Ý” cầu mong được hạnh
thông mỹ mãn. Lời chúc này chỉ có trong ngôn ngữ Việt Tôc mà thôi. Nếu không
hiểu được cái Đạo Lý Việt thì không ai có thể hiểu được lời chúc “độc đáo” này.
Bánh Dày hình tròn biểu
hiện cho Thiên, hình tròn bao bọc hình vuông, đó là hình ảnh “Bầu Trời bao bọc
trái Đất”. Biểu thị cho quyền lực tối thượng của một vị Minh Quân dùng Luật mà
trị Quốc, trong luật bao hàm đức tính bao dung để An Dân. Đó là Quốc gia phải
có Luật pháp hầu điều hành quốc sự. Trong Tôn giáo, làng xã, nhà trường, đoàn
thể thì có luật lệ, trong gia đình thì có tục lệ để điều hành mọi hoạt động của
cơ sở. Chính vì thế trong dân gian vẫn có câu châm ngôn: “Nhập gia tùy tục” hầu
nhắc nhở nhau cách sống là vậy. Luật tức là phép nước, đồng nghĩa là Luật Pháp.
Chính vì thể hiện này mà một quốc gia dân chủ thường phải có hai Viện: Luật
pháp và hành pháp. Ta thường gọi là Hạ Viện và Thượng Viện, trong cuộc sống thì
có Tòa Án và Cảnh sát là vậy.
Qua những điều phân tích thể nghiệm trên, ta thấy Tích truyện Bánh Chưng, Bánh
Dày không phải là một câu chuyện vui cười trà dư tửu hậu. Mà thực chất Tổ Tiên
Tộc Việt Văn Lang đã để lại truyền thừa cho thế hệ mai sau một Đạo Lý Việt thâm
hậu rất thực tế trong đời sống con người, trong mối quan hệ tương giao song
phương đối lập, Trong Phương sách và tư cách một vị Minh Quân trị quốc an dân.
Nhưng thực đáng tiếc cho
dân Việt ta, trải qua hơn bốn ngàn năm biết bao nhiêu vật đổi sao rời, hết
Triều đại này tới Triều đại khác đều không mang cái Minh Triết của Đạo Lý
Vuông-Tròn mà giáo lý cho dân chúng, hay không ít các vị vua chúa đã
không thông đạt được cái Đạo lý tiềm ẩn trong sự tích “Bánh Chưng, Bánh Dày”,
nên không thực hành theo phương sách “Trị Quốc An Dân”.
Mà như trong sách giáo
khoa, hay trong lời bình phẩm tích truyện thường chỉ nêu bật cái “Tật” tham ăn
tục uống, hưởng thụ của ngon vật lạ trên mồ hôi xương máu của con dân, rồi
tuyển chọn kẻ xu nịnh tâng bốc với cái “Tâm Nô Bộc” mà truyền ngôi báu.
Hẳn đó cũng là cái nguyên cớ tạo ra khá nhiều những hạng tham quan vô loài ngày
càng đông cho tới ngày nay đã trở thành “Quốc nạn tham nhũng” khó bề điều trị
như cái triều đại Cộng sản VN đã kéo dài từ năm 1954 cho tới bây giờ.
Những mong bài viết này
thể hiện được phần nào cái thâm túy Đạo Lý Tộc Việt xuyên qua tích truyện “Bánh
chưng, Bánh dày” mà truyền tới những thế hệ mai sau. Qua đó hầu hy vọng nếu
được giới lãnh đạo Quốc gia cũng như con dân nước Việt thông đạt được Đạo lý
này mà ứng dụng thì vận mệnh Đất nước Việt Nam sẽ được chuyển hóa mang lại nền
hạnh phúc, ấm no, an bình, thịnh vượng cho đất nước và cho muôn dân.
Mong lắm thay, cũng cầu
mong nhận được những ý hay để cùng nhau trao dồi mở rộng sự hiểu biết hơn.
Viết ngày 21/01/14
Năm Giáp Ngọ
Nguyên Khang
Molb. 0468567836
Email: nguyenk42@hotmail.com
*- Phần phụ giải âm ngữ
"Chưng" và âm ngữ "Dày":
1) Âm "Chưng":
Trong truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy
Tự (1743-1790) có câu:
"Lễ
hôn chuông
chắn mọi đường
Quế
càng hương chắp, gấm càng hoa thêm"
Sau này dùng chữ quốc ngữ thì đổi
thành:
"Lễ
hôn vuông vắn mọi đường...".
Như vậy: "Chuông chắn" = "Vuông
vắn", trong
văn học xưa ta cũng thường gặp như: Một chuông lụa, một chuông vải, khăn choàng
đầu của phụ nữ Bắc Việt gọi là "chuông khăn" sau đổi cách gọi là
"khăn vuông". Âm "chuông" trong tiếng Nôm có nghĩa là bốn
cạnh vuông vắn, đầy đủ. (theo Việt Nam từ điển Khai Trí Tiến Đức 1931), âm "chưng": đọc trại từ "chuông" mà ra. "Chưng" có nghĩa là "Vuông", bánh chưng có nghĩa là
bánh vuông
2) Âm "Dày":
Theo chữ Nôm "bánh Dày" gọi là Bánh "Bạc Trì" (Bạc Trì
bình).
"Bạc" có nghĩa là mỏng, là dẹt nghịch nghĩa với từ
"dầy". "Trì" đọc âm Nôm là "giầy" có nghĩa là cầm, giữ
chứ không có nghĩa là bề dầy, hay giầy dép. (theo Đại Nam Quốc Âm Tự viện của
Huỳnh Tịnh Của, bảng tra chữ Nôm của Viện ngôn ngữ học 1976, cơ sở ngữ văn
Hán-Nôm của Lê Trí Viện 1987). Cho nên "bánh Giầy" có hình tròn dẹt và
mỏng .
Sau này theo chữ quốc ngữ
mà theo cách phát âm từng địa phương mà thành "bánh dày","bánh
giày", "bánh dầy", tuy nhiên hình dạng bánh không thay đổi và sự
biểu tượng của bánh vẫn đồng chung ý nghĩa là mặt Trời, mặt Trăng, trong tự Nôm
ghép hai tự Nhật Nguyệt lại thành tự "Minh" (明).
No comments:
Post a Comment