Subject: Ngày của Cha.
NGÀY CỦA CHA.
kim thanh.
1. Trên thế
gian và trong đời sống, hình ảnh người Cha không có, hoặc không có nhiều, so với
hình ảnh của Mẹ. Thi ca và âm nhạc thế giới thường ca tụng Mẹ hơn Cha. Lý do dễ
hiểu, Mẹ phải mang nặng đẻ đau, và tiếp xúc gần gũi, một cách dịu dàng, âu yếm
với con, trong khi Cha thường xuyên vắng nhà vì mưu sinh cho gia đình. Đặc biệt
tại Mỹ bây giờ, theo thống kê, tình trạng single mom ngày càng tăng vọt:
từ 12% năm 1960 lên 31% năm 2016, trong khi tổng số “con cái lớn lên không có
Cha” được nhân gấp ba lần (cf. J. Warner Wallace, FoxNews.com,
ngày 6/17/2018).
Khác với trong tôn giáo. Quả thế, không tôn giáo nào quên, hoặc được phép quên,
người Cha. Khổng giáo và thể chế phong kiến, vốn trọng nam khinh nữ, nhắc nhiều
đến Cha, Phụ, mà uy quyền chỉ sau Vua, Quân, và Thầy giáo, Sư.
Phật giáo hướng về Ðức Thích Ca Mâu Ni như người Cha tối thượng. Thiên Chúa giáo
tôn thờ Ðức Chúa Trời là Cha muôn loài. Theo Cựu Ước, Abraham được sùng kính
như Tổ phụ, sáng lập đất nước Do Thái. Thần thoại Hy Lạp và Rome bao phủ bởi
quyền năng của Zeus, Chúa tể các Thần linh.
Còn chữ hiếu của con cái đối với riêng người Cha thì vẫn tràn đầy, không
kém so với người Mẹ. Người ta còn nhớ chuyện nàng Antigone trong thuyền thuyết Hy
Lạp cổ đại và vở bi kịch của Sophocle –đã dắt Cha, Oedipe, bị mù lòa lang thang
trên đường phố Colone, làm ai cũng thương cảm. Trong thiên Anh hùng ca l’Énéide
(29-19 BC) của Thi hào Latin Virgile, Énée, một Hoàng tử trẻ của thành Troie bị
bại trận, được xem là Anh hùng dựng nên nước Ý sau đó, đã cõng Cha, Anchise, đi
trốn, và sau khi Cha chết, còn xuống Âm phủ tìm gặp ông, trải qua nhiều gian truân,
với sự trợ giúp của nàng Sibylle de Cumes, tên Deiphoba. Thúy Kiều, người Việt
Nam nào cũng biết, trong tuyệt phẩm của Thi hào Nguyễn Du vì hiếu đã bán mình
chuộc Cha, để rồi từ đó, tấm thân và cuộc đời phải gặp bao nỗi đoạn trường, hoa
vùi liễu dập suốt mười lăm năm lưu lạc.
Tại Mỹ quốc, năm 1909, cũng vì chữ hiếu đối với Cha mà bà Dodd, thuộc Tiểu bang
Washington, đã đề nghị một ngày dành cho Cha. Cha bà là William Smart, khi vợ –tức
là Mẹ bà– mất, đã ở vậy, gà trống nuôi sáu người con. Bà Dodd, khi trưởng thành,
nhớ đến Cha, muốn ca tụng sức mạnh tinh thần và công lao dưỡng dục của ông.
Ngày 19
tháng 6 năm sau, 1910, Ngày Của Cha đầu tiên được mừng tại Spokane, Tiểu
bang Washington, cùng lúc với một số thành phố Mỹ khác. Nhưng phải đợi 14 năm
sau, 1924, Tổng thống Coolidge mới ủng hộ ý kiến mừng Ngày Của Cha cho
toàn nước Mỹ. Cuối cùng, năm 1966, Tổng thống Lyndon Johnson ký sắc lệnh chính
thức lấy ngày Chúa Nhật thứ ba của tháng 6 mỗi năm làm Ngày Của Cha trên
toàn quốc, cũng như trước đó nửa thế kỷ (1914), Tổng thống Woodrow Wilson đã chọn
Chúa Nhật thứ Hai của mỗi tháng 5 làm Ngày Của Mẹ.
2. Còn Việt
Nam của chúng ta thì sao?
Công Cha như núi Thái sơn,
Nghĩa
Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Câu ca dao ngàn đời còn nhắc nhở thiết tha bổn
phận của con cái Việt Nam đối với Mẹ, với Cha. Khi Mẹ là nghĩa,
là nước êm mát, bao dung, thì Cha là công, là núi cao,
sừng sững. Hình ảnh Cha uy nghi, thẳng ngay như cây tùng, cây thông trên đầu
non, tượng trưng người Quân tử, một mình đối diện với đời, với phong ba, bão
táp, để đứng “giữa trời mà reo” như trong thơ Nguyễn Công Trứ.
Hình ảnh ấy, tiếc thay, không còn được thấy dưới chế độ CS hiện tại, vô luân
với nền văn hóa bần cố nông vô học. Thực vậy, CS dạy và bắt con cái rình
rập, tố cáo Cha Mẹ, mắng nhiếc và lên án tử hình các đấng sinh thành, như trong
vụ đấu tố 1950, mà ví dụ ghê tởm nhất là tên đảng viên CS gộc Trường Chinh Đặng
Xuân Khu đã xúi giục và tiếp tay cho bọn cùng đinh để kết tội, chửi rủa, và
chôn sống cả Cha lẫn Mẹ mình. Nói chi thằng nghịch tử, bất nhân Tố Hữu của câu
thơ bỉ ổi nổi tiếng: Thương Cha thương một thương ông [Staline] thương
mười. Hoặc tên Thi sĩ lãng mạn tiền chiến Xuân Diệu, khi trở thành Cộng sản,
còn mất dạy hơn Tố Hữu, vì cũng trong thời cải cách ruộng đất, thằng con khốn
kiếp này đã gọi Bố ruột của mình, Nhà giáo Ngô Xuân Thu, bằng “thằng”, trong
bài “Gửi vợ chồng thằng Thu”. Và, hiện tại, không còn người Cha nào nữa tại Việt
Nam, ngoài Cha già dân tộc Hồ Chí
Minh –một tên đại gian, đại dâm, đại tặc, đại ác, và một đại họa cho cả dân tộc
!.
3. Công lao của người Cha Việt Nam không Cộng sản vô lượng đất trời,
không có gì sánh bằng. Trong lúc Mẹ ở nhà chăm sóc đàn con thì Cha phải ra đời
làm việc, kiếm tiền, vất vả ngược xuôi. Cha không than phiền, bởi Cha hiểu đó
là nhiệm vụ thiêng liêng của Cha, một Gia trưởng, một người Đàn ông, có bổn phận
nuôi sống gia đình. Buổi tối Cha về, ôm hôn từng đứa con nhỏ, và dù mệt mỏi, vẫn
hỏi han việc học hành, giúp con làm bài, đọc sách, tắm rửa, để Mẹ rảnh tay lo
việc bếp núc. Khi con lười biếng, hoặc không vâng lời, Cha khuyên bảo, rầy la,
cũng như Mẹ đã làm những lúc vắng Cha. Khi con học giỏi, Cha khen thưởng, mua
quà, đồ chơi. Cũng như Mẹ, Cha dành hết thì giờ ở nhà và tình thương bao la, vô
điều kiện, tình thương đích thực cho các con. Làm sao con quên được?
Rồi ngày con bắt đầu lớn khôn, Cha cùng Mẹ sắm sửa hành trang cho con vào đời bằng
những kinh nghiệm bản thân. Cha cho con sự bất khuất, kiêu hãnh và lòng tự trọng,
sức mạnh tinh thần và sự khôn ngoan trước nghịch cảnh. Cha trở thành người Thầy,
người bạn tri âm hiểu thấu lòng con, để con chạy đến tìm bình yên cho tâm hồn,
tìm những bước đi vững chắc, đúng hướng, trên đường đời vạn nẻo.
Trong chiến tranh, khi quốc gia
lâm nguy trước quân thù CS xâm lược, Cha từ biệt gia đình và chốn phồn hoa, lên
đường tòng chinh, như Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt của Ðặng Trần
Côn, xông pha giữa lằn tên mũi đạn, chiến đấu bảo vệ đất nước, chịu nhiều gian
lao, hiểm nguy, và cái chết thường trực, cận kề. Mẹ và các con ngày đêm cầu
nguyện cho Cha được trở về bình an. Một lần Cha bị thương nặng, Mẹ và các con
đã khóc hết một dòng sông nước mắt.
Và nước mắt nào còn lại để nhỏ
xuống cho Cha khi những năm sau đó, vào một sáng mùa Xuân kinh hoàng 1975, đất
nước phải rơi vào tay giặc thù? Còn đớn đau nào hơn trước hình ảnh Cha
nghẹn ngào, tức tưởi, cởi bỏ áo trận bạc màu phong sương, giã từ vũ khí, bất
lực nhìn qua khung cửa đoàn xe tăng bạo tàn chạy ngang thành phố, nghiền nát từ
đây hạnh phúc và hy vọng?
Rồi cũng như trăm ngàn đồng
đội khác, Cha bị đẩy vào các trại tù “cải tạo” từ Nam ra Bắc, lê bước chân đọa
đày trên những tháng năm vô vọng, khổ cực, đắng cay trăm bề. Ra tù, thân xác
Cha mỏi mòn, nhưng ý chí vẫn không phôi pha. Cha quyết làm lại cuộc đời. Vì Mẹ.
Vì các con !.
****
Sang xứ người, Cha bắt đầu làm
lại từ con số không, dù sức khỏe hư hao, dù tuổi đời chồng chất. Nhưng Cha
không thở than, không tưởng tiếc dĩ vãng vàng son, không buồn phiền về thời
gian tù đày –tất cả từ nay đã chôn vùi trong đáy hồn Cha. Cha đứng thẳng như
cây thông trên núi Thái sơn, nhìn về phía trước, không ngần ngại làm những việc
không tên, lương thấp, để nuôi gia đình, để các con đi học thành người, vì các
con, như Cha nói, mới là hiện tại, là tương lai, là hạnh phúc, là hy vọng của
Cha.
Và hạnh phúc ấy, và hy vọng ấy, Cha đã mang theo cùng với nụ cười mãn nguyện dần
tắt theo giấc ngủ ngàn thu, sau một cơn bạo bệnh. Các con mỗi đứa có thể thành
công, hay không thành công, nhưng chắc chắn tất cả đều đã thành nhân –là điều
Cha mong ước duy nhất. Cũng nhờ công ơn trời biển của Cha.
Công
cha như núi Thái sơn.
Ôi, còn từ ngữ nào trọn vẹn hơn để
vinh danh Cha! Còn bút mực nào đẹp đẽ hơn để vẽ chân dung cao quý của Cha! Còn
lời lẽ nào tha thiết hơn để cảm tạ Cha! Hôm nay, con tin Cha, cùng Mẹ, về đây để
mừng với các con Ngày Của Cha, như một tháng trước đây, Ngày Của
Mẹ.
Ngày Của Cha –ngày mà
con xin dành riêng Cho Cha, người Cha Việt Nam vô vàn yêu quý, hôm nay, cũng
như mọi ngày, mãi mãi....
Portland, Chúa Nhật thứ ba, tháng 6, 2019.
(Viết thay cho những người cha còn, hay không còn, trên cõi đời
này)
Kim
Thanh.
Hết.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment