Xin được gửi lại sau khi
bổ túc thêm vài sự kiện.
CM.
"Ưng vô sở trụ nhi
sinh kỳ tâm"
應 無 所 住 而 生 其 心
"... to use the mind yet be
free from any attachment"
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim
Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều
nhứt. Nó được lập đi lập lại khắp nơi khắp chốn. Từ các Phật đường, Tổ đường
cho chí trong các dãy hành lang dài hun hút, hay dưới chân cội tùng già, bên
ngôi tháp cổ,... của các đại tùng lâm, các tự viện, các viện Phật học lừng
danh thế giới... và nó cũng có mặt ngay ở trong các ngôi chùa lá cũng như ở
trong các thiền thất, thảo am đơn sơ mộc mạc.
Người ta đã mổ xẻ - chia chẻ - phân tích
nó đủ mọi khía cạnh. Thậm chí có thể nói một cách không quá đáng rằng
nó đã được người đời phân tích tìm hiểu ý nghĩa ví như chẻ
tư chẻ tám một sợi tóc vậy. Đa số đều dùng trí năng,
cũng như xem xét kỹ thuật kết cấu câu từ của nó cho quá trình phân tích. Tuy
nhiên cũng có không ít người trực ngộ được nó bằng con đường tư duy thiền
quán.
Tiếc thay, người có thực chứng lại không nói nhiều, thậm
chí không mở miệng, trong khi kẻ chỉ biết qua khái niệm lại khá nhiều lời.
Thực ra nó không khó hiểu cho lắm cho một người có
trình độ Phật học bình thường. Nhưng chữ hiểu của giới
học giả không đồng nhứt với chữ chứng của giới hành giả.
Nói cách khác từ hiểu đi tới chứng có
một khoảng cách khá lớn, thậm chí rất lớn. Chúng ta có thể dùng những phương pháp
khoa học trong học thuật, nhứt là quy cách phân tích của ngành triết học để hiểu nó.
Nhưng để chứng được nó thì phải qua con đường công phu
thiền định để làm sao nó có thể tan chảy, hoá chuyển thành máu thành thịt của
chính mình. Để làm được việc đó không còn cách nào khác là dùng
nó như một công án - lấy nó làm đề tài công
phu thiền quán của đời mình.
Có lẽ chúng ta cần chép ra đây đoạn kinh có
chứa câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm".
"... - Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Bồ-tát trang
nghiêm Phật độ phủ?
- Phất dã Thế Tôn! Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả,
tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm.
- Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị
sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị,
xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm..."
Sư ông Làng Mai dịch :
- Tu Bồ Đề, thầy nghĩ sao? Bồ Tát có
trang nghiêm cõi Bụt chăng?
- Bạch Thế Tôn, không. Vì sao? Trang
nghiêm cõi Bụt tức là không trang nghiêm cõi Bụt, vì vậy nên mới gọi là trang
nghiêm cõi Bụt.
- Như thế đó, thầy Tu Bồ Đề, các vị Bồ
Tát và đại nhân nên phát tâm thanh tịnh theo tinh thần ấy. Không nên dựa vào sắc
mà phát tâm, cũng không nên dựa vào thanh, hương, vị, xúc và pháp mà phát
tâm. Chỉ nên phát tâm trong tinh thần vô trụ. (Xem Kinh
Kim cương gươm báu cắt đứt phiền não)
Đứng về phương diện cú
pháp thì "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" tức
là "Chỉ nên phát tâm trong tinh thần vô trụ" là
câu kết luận nhằm mục đích chốt lại lời dạy ngắn gọn của Bụt rằng
: "các vị Bồ Tát và đại nhân nên phát tâm thanh tịnh theo tinh thần
ấy. Không nên dựa vào sắc mà phát tâm, cũng không nên dựa vào thanh, hương, vị,
xúc và pháp mà phát tâm." Nói cách khác : các vị Bồ Tát và đại
nhân không nên dựa vào sáu trần mà phát tâm thanh tịnh - tâm thanh thịnh là
tâm của chư Bụt và chư Bồ Tát.
Rõ ràng không có gì là khó hiểu.
Nhưng! Một chữ NHƯNG khá lớn này lại là vấn đề nan giải cho học giả lẫn hành
giả.
Chúng ta biết rằng: sắc, thanh, hương, vị,
xúc, và pháp là sáu trần của sáu căn : mắt,
tai, mũi, lưỡi, da, và ý. Trong khi căn, trần lại là nhân
duyên của sáu thức : sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Cả
ba hợp lại thành mười tám giới. Theo đó chúng ta có thể
hiểu lời Bụt dạy thầy Tu Bồ Đề rằng : Các bậc Bồ Tát và đại
nhân phát tâm thanh tịnh nhưng hoàn toàn tự do - không bị mười tám giới ràng buộc.
Nghĩa là quý ngày đã vượt thoát được mọi buộc ràng của những sợi
dây sinh tử luân hồi, luôn luôn an trú nơi bản thể thanh tịnh - làm việc gì
cũng thong dong dong tự tại.
Vấn đề lớn ở đây là làm
sao chúng ta có thể đạt được điều đó? Có lẽ không có
cách nào khác hơn là hành giả phải quyết tâm hạ thủ công phu, bám lấy nó, biến
nó thành công án - làm chất liêu sống mới mong giải quyết được vấn đề. Tuy
khó thật đấy, nhưng không có nghĩa là bế tắt, không có nghĩa là bất khả. Lịch
sử truyền thừa của đạo Phật đã chứng minh được điều đó.
- Chuyện kể rằng, sau khi đắc pháp
với ngũ tổ Hoằng Nhẫn, lục tổ Huệ Năng đã du hạ Nam phương. Trên đường hóa độ
chúng sinh có lần vì cảm hóa đám người thợ săn dữ dằn và hiếu
sát. Ngài đã không ngại sống cùng họ, cùng ăn thịt uống rượu
như họ mà không thấy bị rượu thịt làm ngăn trở.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng có
không ít vị thiền sư đạt được tinh thần vô ngại như Lục Tổ.
- Đời nhà Trần chẳng hạn. Chúng ta
có Tuệ Trung Thượng Sĩ, là một trong những vị thiền sư đắc đạo,
ngài đã chứng đắc được trạng thái tự do tuyệt đối. Bằng
tinh thần vô ngại, Tuệ Trung đã có thể tiến/lui, đi/về rất ư
là tự tại. Sử viết rằng : Có lần Tuệ Trung được em gái tức Hoàng
hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mời vào cung ăn tiệc. Trên bàn có những món mặn
và món chay, ngài gắp thức ăn một cách không phân biệt. Hoàng hậu hỏi: "Anh
tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao mà thành Phật được?" Ngài cười
đáp: "Phật là Phật, anh là anh ; anh không cần thành Phật. Phật không
cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải
thoát đó sao?" (Theo VN Phật Giáo Sử Luận
của Nguyễn Lang).
Sử sách cũng ghi chép rằng, khi cần ngài cũng đã không
ngần ngại mang cung cỡi ngựa xông pha trận mạc. Ít nhất là 2 lần Tuệ Trung
lãnh lịnh trấn giữ đất Hồng Lộ tức Hải Dương bây giờ nhằm ngăn
chận giặc Bắc xâm lăng. Nhìn bề ngoài người đời sẽ cho đó là việc
thường tình của những bậc anh hùng cứu nước hà cớ tới bậc thiền sư! Nhưng
xét về phương diện tâm ý thì ngài làm việc đó với một tinh thần tự do
tuyệt đối không bị ràng buộc bởi sân hận, oán thù theo cách của giới tướng
lĩnh thường tình. Xong việc ngài lại giũ sạch bụi trần trả chiến bào cho
vua, khoát áo chân không vui cùng sông núi.
- Gần với thế hệ của chúng ta có thiền sư Nhất Định, tổ
khai sơn chùa Từ Hiếu ở Huế.
Sử kể rằng: Sau khi trao trả giới đao, độ điệp ;
từ bỏ hết mọi chức vụ Trụ trì các ngôi quốc tự cũng như chức vụ Tăng
Cang toàn quốc cho triều đình. Ngài lui về ẩn tu nơi thâm sơn
cùng cốc với hai đệ tử và một mẹ già 80 tuổi. Một hôm mẹ bệnh, thầy thuốc
bảo: phải cho ăn cháo cá mới hết bệnh. Ngài đã xuống núi tới chợ Đồng
Xuân xin một con cá rồi thong dong tự tại xách con cá trần trụi
còn vẫy đuôi buộc vào sợi dây đi trở lên núi (hiện nay Viện
Phật Học Ứng Dụng Châu Âu tại Đức có treo bức hình này nơi thờ Tổ),
nhờ người làm thịt nấu cháo cho mẹ ăn hết bịnh.
Hình ảnh một vị cao tăng nổi tiếng tay xách con cá trần
trụi thong dong đi giữa thanh thiên bạch nhựt vào thời đó
chẳng khác nào một tiếng sấm lớn làm kinh động tới tận kinh
thành khiến triều đình phải mở cuộc điều tra. Sau khi biết được
tấm lòng hiếu thảo của ngài, đích thân nhà vua đã tới thảo am vấn an và tỏ
lòng tôn kính một bậc thiền sư chứng đắc.
Nhà vua cũng như nhiều quan đại thần muốn cúng dường đồ ăn
thức uống. Ngài đã khẳng khái trả lời rằng: "...hữu thị giả nhị nhơn,
thực ma đậu, triêu tịch cung cấp túc hỷ, bất nguyện đa giả !”. (Có hai thị
giả, ăn mè đậu, sáng tối cung cấp đủ, không mong nhiều)."
Người ta cũng đã xin ngài cho phép biến thảo am thành
ngôi phạm vũ nhưng ngài đã một mực từ chối. Mãi đến sau khi ngài viên
tịch người ta mới dựng trên nền thảo am xưa một ngôi cổ tự với
tên gọi là Tổ đình Từ Hiếu. Hai chữ Từ Hiếu ý nói
lên lòng hiếu thảo của ngài vậy.
Gần hơn nữa, ngay trong những thế hệ hậu bán thế kỷ XX tới đầu
thế kỷ XXI này cũng đã có không ít chư vị thiền sư người Việt đắc đạo
phát tâm trong tinh thần vô trụ.
- Đó là hành trạng của Bồ
tát Thích Quảng Đức. Ngài đã dũng mãnh tự đốt cháy tấm thân ngũ uẩn, cúng
dường chư Phật mười phương - thức tỉnh nhân loại trước cảnh độc tôn tín lý, độc
quyền tín ngưỡng, kỳ thị tôn giáo bằng những hành vi khủng bố, giết chóc tù đày
người khác tôn giáo của chế độ Ngô Đình Diệm.
Thay vì trả đũa bằng những phương thức bạo động, vũ trang chống
lại chính quyền, ngài đã tự biến thân mình làm ngọn đuốc mong soi sáng
tâm ý của Tổng thống và chính phủ Ngô Đình Diệm với một tấm lòng bi mẫn, và tự
tại không bị hận thù làm vướng bận. Lời tâm nguyện ngài viết trước khi tự thiêu
đã nói lên điều đó :
« Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, Hòa thượng trụ trì Chùa
Quán Âm Phú Nhuận (Gia Định). Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa
nghiêng, tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi
điềm nhiên tọa thị để cho Phật Pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện
thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật
giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại Đức Tăng Ni chứng minh cho tôi đạt
thành chí nguyện như sau:
- Mong ơn
Phật Tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng
tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn.
- Nhờ ơn
Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường cửu bất diệt.
- Mong nhờ
hồng ân chư Phật gia hộ cho chư Đại đức Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi
tai nạn khủng bố bắt bớ giam cầm của kẻ gian ác.
- Cầu
nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.
Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng kính gởi lời cho
Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân và thi hành
chánh sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thủa…»
- Đó cũng là hành trạng của chị Nhất Chi Mai tự thiêu để kêu gọi
Hòa bình cho Việt Nam. Mười bức thư mà chị để lại đã nói lên được sự « phát
tâm trong tinh thần vô trụ » của chị. (Xem tiểu sử và hành trạng của
chị ở đây).
- Đó cũng là hành trạng của những tác viên Trường Thanh Niên Phụng
Sự Xã Hội. Họ là những người thanh niên sinh viên ở độ tuổi tràn đầy mơ mộng cùng
chí nguyện, và tâm huyết lợi tha. Không ngại gian lao khổ nhọc tự tại thong
dong từ giả thành đô hoa lệ dấn thân về vùng nông thôn nghèo đói bệnh tật, cùng với bà con dựng trường học,
xây trạm xá, khám bệnh phát thuốc … đem ánh sáng văn minh vào vùng tăm tối. Họ
cũng đã không ngại đi giữa hai làn đạn chiến tranh - kéo cờ Phật giáo khẩn cầu
các cấp chỉ huy của đôi bên tạm ngưng tiếng súng cho phép họ băng bó vết thương
cứu chữa và khử trùng chôn xác nạn nhân chiến cuộc. Họ cũng đã bị người đồng
bào khác đạo hiểu lầm tới nơi họ ở, nơi họ làm việc thiện nguyện để bắt cóc,
sát hại, khủng bố gieo rắc sợ hãi bắt họ phải dừng lại con đường lý tưởng mà họ
đang đi. Có cả thảy sáu người bị bắn chết, 19 người bị thương, và tám người bị
bắt đi mất tích. Tất cả xảy ra trong bốn cuộc khủng bố bằng vũ lực. Thế nhưng họ
đã không bị hận thù cướp đi tình thương, không bị tham sân si cướp đi tinh thần
vô trụ của bậc Bồ Tát, Đại Nhân trong lời kinh "Ưng vô sở trụ nhi
sinh kỳ tâm". (Xem bài Xứng
đáng chỉ có tình xót thương).
xxx
Đôi dòng sử liệu đơn sơ cho chúng ta thấy rằng giáo pháp của
Phật không chỉ là những lời dạy, những tư tưởng triết học suông bằng chữ nghĩa
in ấn trong kinh điển chỉ để phụng thờ, mà
nó là một giáo pháp, một chân lý sống, một pháp môn thực hành. Nếu được
học và đem ra thực tập, ứng dụng vào đời sống hàng ngày nó sẽ
cho ra một kết quả rất cụ thể, mà không là niềm tin và tư tưởng trên mây hứa
hẹn ở đời/kiếp sau.
Đó là một trong những thực chất sống động của câu
kinh thời danh "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" tức "Chỉ
phát tâm trong tinh thần vô trụ" đã và đang hóa thành
hiện thực vậy.
Chân Minh
Paris,
23/1/2016
--
Hãy cứ cho thêm, hãy còn
cho mãi
Mai ta đi nào kịp vẫy tay chào.
Mai ta đi nào kịp vẫy tay chào.
(Phạm
Nhuận)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment